Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Vai trò của đời sống xã hội đối với sự phát triển văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.83 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tìm hiểu bộ môn Lí luận văn học

Đề tài

TP HỒ CHÍ MINH - 3/2016


Tìm hiểu bộ môn Lí luận văn học

Đề tài

Nhóm 15
 Huỳnh Thảo Nguyên
 Nguyễn Thị Thanh Nguyên
 Nguyễn Hồng Thanh Thương
1


Lời giới thiệu
Theo lý thuyết Lý luận văn học và Mĩ học, tiến trình văn học là sự tồn tại, vận
động của bản thân văn học như những hệ thống chỉnh thể không ngừng phát
triển, tiến hoá trong các mối liên hệ, tương tác vô cùng đa dạng và phức tạp. Vậy
để tìm hiểu về tiến trình văn học một cách toàn diện nhất, không thể không làm
rõ các mối liên hệ, tương tác chi phối quá trình vận động, phát triển của nó. Có
rất nhiều câu hỏi được đặt ra trên vấn đề phát triển của văn học, về mối quan hệ
giữa văn họ và thực tế đất nước, thực tế xã hội, về sự giống và khác nhau giữa
văn học các nước trên tiến trình phát triển của nó. Văn học liệu có phát triển tự
thân, do trí tuệ và tài năng của nhà văn từng thời đại quyết định hay do cái gì bên
ngoài quyết định? (1). Để giải quyết vấn đề này, các học thuyết cổ xưa ở phương


Đông cho rằng cái quyết định sự thịnh suy của văn học chính là “đạo”, “đức”,
“khí”, “lễ”; các học thuyết phương Tây thế kỉ XVIII – XIX lại cho rằng yếu tố
quyết định văn học là “hoàn cảnh”, “môi trường”, “chủng tộc”,… Tuy nhiên các
học thuyết ấy đều không phân biệt được yếu tố xã hội và tự nhiên, vật chất và ý
thức, cái quyết định và cái phát sinh, do đó không tìm ra nguyên nhân đích thực
chi phối sự tồn tại và phát triển của văn học

(2)

, mà chỉ khái quát lên thành một

quan niệm chung chung rằng văn học và xã hội có mối liên quan với nhau. Vậy
trong phần tìm hiểu sau, nhóm chúng em xin được phân tích cụ thể hơn vai trò
của đời sống xã hội đối với sự phát triển văn học trên cơ sở xác định rõ vị trí
cũng như mối quan hệ của các thành phần cấu trúc xã hội với văn học theo quan
điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và triết học Mac – Lenin.
(1)
(2)

Động lực dân tộc và thực tiễn sáng tạo văn hoá nghệ thuật – Tuyển tập nghiên cứu lý luận & phê bình văn học – NXB KHXH
Lí luận văn học – Phương Lựu chủ biên – Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – La Khắc Hoá – Thành Thế Thái
Bính – NXB Giáo dục
*Trong bài sử dụng nhiều trích dẫn và tư liệu từ 2 nguồn tài liệu trên*

2


1. Cấu trúc xã hội và vị trí của văn học trong cấu trúc xã hội.
Theo quan điểm nghĩa duy vật biện chứng, cấu trúc xã hội gồm hai phần: Cơ
sở hạ tầng và Kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản

xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Kiến trúc thượng tầng là
toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng
phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất
định.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng không tách rời
nhau, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng.
Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ tầng, nhưng nó có vai trò tác
động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Kiến trúc thượng tầng
phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng hay cơ sở hạ tầng
nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Sự biến đổi giữa hai yếu tố này cũng tuân theo
mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
Phát triển những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết
học Mac – Lennin phân biệt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Nói cách khác, tồn tại xã hội là toàn bộ
đời sống vật chất của con người mà hạt nhân cơ bản của nó chính là cơ sở hạ
tầng, là nền tảng kinh tế, bao gồm toàn bộ quan hệ sản xuất của xã hội mà cơ
bản nhất là phương thức sản xuất.
Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác
nhau của lĩnh vực tinh thần xã hội. Những bộ phận này nảy sinh từ tồn tại xã hội
3


và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Nói cách
khác, các hình thái ý thức xã hội cấu thành nên kiến trúc thượng tầng. Như vậy,
bên cạnh tôn giáo, chính trị, pháp quyền,.. văn học cũng là một hình thái ý thức
xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng.
Chủ nghĩa Mac – Lenin nhận định rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, mặt khác cũng nhất mạnh ý thức xã hội không phải một yếu tố thụ động.

Các hình thái ý thức có sự tương tác mật thiết với nhau, có những tác dụng tích
cực cũng như có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn tại xã hội.
Đây chính là cơ sở lí luận khoa học tiến bộ giúp chúng ta đi vào tìm hiểu cụ thể
hơn vai trò quyết định của đời sống vật chất xã hội và sự ảnh hưởng của những
hình thái xã hội khác đối với sự phát triển văn học.

4


2. Vai trò của đời sống xã hội đối với sự phát triển của văn học
2.1 Văn học và đời sống vật chất xã hội
2.1.1 Đời sống vật chất xã hội quy định toàn bộ nội dung văn học, từ đề
tài, chủ đề, tư tưởng chủ đề cho tới cảm hứng, tinh diệu.
Nhìn từ góc độ phản ánh luận hay nhận thức luận, ta đều thấy vai trò
quyết định của cơ sở hạ tầng, của sản xuất kinh tế và toàn bộ đời sống vật chất
xã hội nói chung đối với văn học nói riêng. Vì vậy Đời sống vật chất xã hội quy
định toàn bộ nội dung văn học, từ đề tài, chủ đề, tư tưởng chủ đề cho tới cảm
hứng, tinh diệu.
Chẳng hạn, trong xã hội công xã nguyên thủy, do cơ sở kinh tế, trình độ
sản xuất thấp kém, tổ chức xã hội gần như đồng nhất với tổ chức sản xuất, nên
thần thoại, tranh tượng trong hang đồng thời ấy thường miêu tả những cuộc đấu
tranh chống lại sự xâm lăng của các thị tộc bộ lạc khác, hoặc đấu tranh chinh
phục thiên nhiên, khai phá đất đai, mở rộng địa bàn cư trú, làm toát lên cảm
hứng ngợi ca vẻ đẹp của những sức mạnh và năng lực. Đó là mười hai kì công
của Hêraclét trong thần thoại Hi Lạp, Nữ Oa vá trời, Vũ trị thủy, Hậu Nghệ bắn
mặt trời, chim Tinh Vệ lấp biển trong thần thoại Trung Quốc, Lạc Long Quân trừ
Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh trong thần thoại Việt Nam.
Văn học nghệ thuật thời phong kiến lại thường gắn liền với những đề tài
đạo đức, thế sự, phong tục. Trong nền văn học thời ấy, bên cạnh bộ phận đề cao
chủ nghĩa trung quân và luân lí phong kiến, còn có bộ phận ngợi ca những phẩm

chất, tính cách cao quý của người lao động. Tình hình ấy phản ánh nền tảng của
xã hội phong kiến, một xã hội dựa trên cơ sở tư hữu ruộng đất của vua chúa,
quan lại, địa chủ làm nảy sinh mâu thuẫn đối kháng giữa kẻ thống trị và người bị
5


trị, giữa các dòng họ trị vì, giữa quốc gia đi xâm lược và quốc gia bị xâm lược.
Cơ sở xã hội đó quy định tư tưởng tôn quân, chọn chủ mà thờ, dẫn đến các cuộc
đấu tranh giành ngôi chính thống như trong “Sử kí” của Tư Mã Thiên, hay “Tam
quốc chí diễn nghĩa”, “Đông Chu liệt quốc” đã miêu tả hoặc đấu tranh chống sự
thôn tính của ngoại tộc, chống lễ giáo phong kiến như nhiều truyền thuyết,
truyện cười, ca dao đã đề cập.
Sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của thành
thị, công nghiệp, nghề buôn... làm nảy sinh nhu cầu giải phóng cá tính, chống lại
quân quyền, thần quyền. Qúa trình tích lũy tư bản chủ nghĩa mang lại cho văn
học những mẫu người keo kiệt mới, những kẻ cho vay nặng lãi, những nạn nhân
của sức mạnh đồng tiền như trong “Tấn trò đời” của Bandắc, “Đỏ và đen” của
Xtăngđan...
Chủ nghĩa tư bản công nghiệp làm phát triển giai cấp công nhân với tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh để tự giải phóng của giai cấp vô sản
mang lại cho văn học chủ đề mới là đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc bị áp bức,
sự phục sinh của những người nô lệ, sự tất yếu phải thay thế xã hội tư sản bằng
chủ nghĩa cộng sản, chẳng hạn như ở tiểu thuyết “Người mẹ” của Gorki,
“Truyện và kí” của Nguyễn Ái Quốc.
Cơ sở kinh tế xã hội còn quy định, tạo điều kiện cho sự ra đời của các
hình thức nghệ thuật. Có thế chứng minh mối quan hệ phụ thuộc giữa cơ sở kinh
tế của xã hội nguyên thủy, xã hội phong kiến và xã hội tư bản với các hình thức
thể loại như thần thoại, sử thi, thơ cách luật và tiểu thuyết. Mọi hiện tượng của
quá trình văn học, từ hình thức đến nội dung đều có tiền đề sâu xa, trực tiếp hay
gián tiếp trong cơ sở kinh tế, trình độ sản xuất, đời sống vật chất của xã hội.

6


Ta có thể thấy thần thoại cổ chỉ ra đời trên cơ sở nghề nông phát sinh,
khi con người biết được quan hệ nhân quả của các hiện tượng tự nhiên như mặt
trời, mặt trăng, gió, mưa, lụt, bão, …đối với canh tác chăn nuôi, nhưng không
hiểu chúng, quy cho chúng một sức mạnh siêu nhiên của thần. Sự tan rã của
công xã nguyên thủy, vai trò lớn lao của lãnh tụ trong chiến tranh bộ lạc đã làm
xuất hiện loại anh hùng ca – một “thời đại anh hùng” trong văn học. Khuynh
hướng khẳng định nguồn gốc siêu nhiên của các lãnh tụ đã làm cho họ có bộ mặt
nữa người, nữa thần (Asin, Prômêtê, Thánh Gióng, An Dương Vương). Sự phát
triển của thành thị, thị dân và nghề in làm cho hình thức tiểu thuyết khác hẳn
truyện kể dân gian.
Như vậy, cơ sở kinh tế xã hội là yếu tố năng động phát triển, quy định sự
tồn tại và phát triển của văn học về cả nội dung lẫn hình thức. Trong mọi trường
hợp, cơ sở kinh tế đề xuất nhu cầu và khả năng cho văn học. Đến lượt mình, văn
học phát huy khả năng, đáp ứng nhu cầu, do đó mà nó cũng thay đổi và phát
triển.
Dĩ nhiên sáng tạo văn nghệ đòi hỏi phải có người tài. Nhưng sự nảy nở,
mức độ phát triển tài năng lại phụ thuộc vào đặc điểm của cơ sở kinh tế. Ví như
cắt nghĩa hiện tượng văn nghệ Phục hưng ở châu Âu, so sánh sáng tác của
Raphaen, Lêôna đơ Vanhxi, Tixian, Mác và Ăngghen đã viết trong “Hệ tư tưởng
Đức” rằng tác phẩm của Raphaen “đã phụ thuộc vào sự nảy nở lúc đó của La
Mã, sản sinh dưới ảnh hưởng của Phơlôrăngxia, sáng tác của Lêôna đơ Vanhxi
lại phụ thuộc vào hoản cảnh của Phơlôrăngxia, sau đó tác phẩm của Tixian phụ
thuộc vào sự phát triển của Vênêdi, mang một tính cách hoàn toàn khác.
Raphaen, như bất cứ nghệ sĩ nào khác, đã từng bị quy định bởi các tiến bộ kĩ
7



thuật mà nghệ thuật trước đó đã đạt được, bởi tổ chức xã hội và bởi sự phân
công lao động trong địa phương mình, và cuối cùng là nởi sự phân công lao
đọng của tất cả các nước mà địa phương ấy có quan hệ. Một cá nhân có thể đạt
được sự phát triển tài năng như Raphaen hay không, điều đó phụ thuộc hoàn
toàn vào nhu cầu, mà nhu cầu lại phụ thuộc vào phân công lao động và các điều
kiện giáo dục con người do sự phân công ấy đẻ ra”.
Cơ sở này quyết định văn học, nhưng bản thân cơ sở không phải là cái gì
trừu tượng, bất biến, mà nó luôn luôn biến động như một tất yếu của lịch sử.
Cho nên, khi nghiên cứu văn học, nếu không đặt tác phẩm vào đúng môi trường
cuộc sống mà nó ra đời thì sẽ không thấy hết nội dung và giá trị của nó. Chúng
ta sẽ không hiểu được truyện “Thánh Gióng” nếu đặt nó vào thời kì phát triển
của xã hội phong kiến; sẽ hiểu sai “Bình Ngô đại cáo” nếu không thấy nó ra đời
trong hoàn cảnh cực thịnh của nhà nước phong kiến; cũng như không đánh giá
đúng “Truyện Kiều” nếu tác nó ra khỏi xã hội Việt nam thời cuối Lê đầu Nguyễn.
Bởi vậy, muốn tìm hiểu ý nghĩa hiện thực của tác phẩm, phải đứng trên miếng
đất mà tác phẩm ra đời mới thấy hết giá trị của nó.
Cho nên, mỗi bước ngoặc của lịch sử, mỗi khi nền tảng của kinh tế xã
hội thay đổi thường tác động trực tiếp tới đời sống văn học và sớm hay muộn
kéo theo sự vận động, tiến hóa của nó.
2.1.2 Tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội và quy
luật phát triển không đồng đều của văn học so với cơ sở hạ tầng
Bên cạnh việc nhấn mạnh vai trò quyết định của đời sống vật chất, triết
học Mác – Lênin cũng chỉ ra tính độc lập tương đối và vai trò tác động tích cực
ngược trở lại của các hình thái ý thức nói chung, của văn học nói riêng đối với
8


cơ sở hạ tầng. Trong thư gửi Xmít, Ăngghen nói rằng, các tác phẩm tư tưởng và
nghệ thuật “kể cả các sai lầm của nó nữa, đều ảnh hưởng trở lại đối tượng với
toàn bộ sự phát triển của xã hội, kể cả ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế”.

Có rất nhiều dẫn chứng về tác dụng kìm hãm sự phát triển xã hội của các
tác phẩm văn học thể hiện những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, phản động. Ví như
trong xã hội phong kiến, các tác phẩm đề cao tư tưởng định mệnh, tư tưởng liệt
tiết, ngu trung, ngu hiếu – những thứ mà Lỗ Tấn đã gọi là lễ giáo “ăn thịt người”
– đã kìm hãm sự phát triển của cá tính và năng lực sáng tạo trong xã hội Trung
Quốc cổ. Tư tưởng mệnh trời, đợi thời đầy rẫy trong thơ văn thời phong kiến đã
hạn chế tính tích cực của con người, khiến bao trí óc thông thái tìm sự an thân
trong cảnh đời ẩn dật. Nhưng văn học thời Phục hưng lại làm sống dậy tư tưởng
nhân đạo, giải phóng cá tính. Tiếng cười trong văn học dân gian đập phá tôn ti
trật tự phong kiến, hạ uy thế thần quyền. Chủ nghĩa Văn học hiện thực phê phán
tố cáo tội ác của các giai cấp bóc lột, miêu tả thảm trạng của nhân dân lao động,
khơi dậy trong xã hội một tâm trạng cách mạng.
Nhận ra tính độc lập tương đối của hình thái ý thức, chúng ta sẽ không
chấp nhận những cách hiểu giản đơn về mối quan hệ giữa văn học và cơ sở hạ
tầng, cần phải thấy, quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và văn nghệ là quan hệ gián tiếp.
Sự tác động qua lại của chúng đều được thực hiện thông qua con người và được
khúc xạ qua hàng loạt khâu trung gian như chính trị, pháp luật, tình trạng phong
hóa của xã hội, rồi mới trực tiếp ảnh hưởng tới nhau. Điều đó cũng có nghĩa, xét
đến cùng, cơ sở kinh tế là yếu tố quyết định, nhưng không phải là nhân tố duy
nhất tác động tới sự phát triển của văn học.
Tính chất độc lập tương đối của các hình thái ý thức dẫn tới quy luật
9


phát triển không đồng đều của văn nghệ so với cơ sở kinh tế. Nội dung cơ bản
của quy luật ấy đã được C. Mác khái quát như sau: Các thời kì nở rộ của văn
nghệ không nhất thiết đi đôi với sự phồn vinh của cơ sở kinh tế. Chẳng hạn,
trong khoảng mười thế kỉ trước Công nguyên, trong quá trình chuyển từ xã hội
công xã nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu nô lệ, người Hi Lạp cổ đại đã sáng
tạo ra một nền nghệ thuật rực rỡ trên cơ sở một nền sản xuất kinh tế thấp kém.

Ngược lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại thù địch với một số ngành sản xuất
tinh thần như nghệ thuật và thi ca. Mác viết: “Về văn nghệ, mọi người đều biết
rõ những thời kì nảy nở nhất định của nó tuyệt nhiên không phù hợp với sự phát
triển chung của xã hội, và do đó cũng không phù hợp với sự phát triển của cơ sở
vật chất của xã hội, là cái tạo nên bộ xương của tổ chức xã hội đó. Ví dụ như
người Hi Lạp so với các dân tộc hiện đại, hay Sêchxpia cũng thế”. (Dân tộc hiện
đại” mà Mác nói ở đây là xã hội tư bản đương thời.)
Là một trong những hình thái tiêu biểu nhất của văn nghệ, sự phát triển
của văn học cũng không nằm ngoài quy luật này. Có thể nhìn vào một biểu hiện
cụ thể từ nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII và nữa đầu thế kỷ XIX:
Xã hội phong kiến cuối Lê đầu Nguyễn là một thời kỳ vô cùng thối nát.
Nếu cứ theo logic cho rằng xã hội thối nát thì văn học thấp kém, suy đồi, xã hội
văn minh thì văn học cũng tiên tiến, thì chắc chắn sẽ không có một nền văn học
rực rỡ và đặc sắc, mà nội dug chủ yếu là tố cáo và lên án xã hội đương thời như
nền văn học thế kỷ XVIII và nữa đầu thế kỷ XIX. Nền văn học thế kỷ XVIII
phản ánh một thời kỳ bão táp của dân tộc, thời kỳ suy vong của giai cấp thống trị
phong kiến, nhưng lại là thời kỳ có nhiều biến động về đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều tác phẩm thời bấy giờ lại cất cao
10


những lời kêu oán, đòi hỏi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của người phụ
nư. Tiếng cười chua chát của Hồ Xuân Hương, sự than vãn cay đắng của nàng
chinh phụ, người cung nữ, lời oán giận số kiếp của nàng Kiều... đều là những lời
tố cáo đanh thép xã hội bất công tàn nhẫn. Đây chính là vũ khí sắc bén, văn học
lúc này đã phát huy tác dụng của mình, không thỏa mãn yêu cầu của giai cấp
thống trị, nó trung thành với nhân dân nói lên tiếng nói của thời đại.

Như vậy, sự phồn thịnh của văn học ở mỗi thời đại còn lệ thuộc vào
nhiều nguyên nhân rất phức tạp, như tính chất hài hòa hay đối kháng của các

quan hệ xã hội, hoàn cảnh xã hội thuận lợi hay trở ngại cho sự phát triển tài năng,
hứng thú thẫm mĩ của con người, điều kiện sinh sống của dông đảo quần chúng,
thái độ của xã hội đối với vị trí của nghệ sĩ và số phận của tác phẩm. Vì vậy
không thể đánh đồng giản đơn lịch sử kinh tế và lịch sử văn học, nhưng bao giờ
lịch sử văn học cũng có nguyên nhân sâu xa trong lịch sử kinh tế xã hội

11


2.2 Ảnh hưởng qua lại giữa văn học và các hình thái ý thức xã hội
Nếu như mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với văn học là quan hệ vật chất – ý
thức thì quan hệ giữa văn học với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị,
tôn giáo, khoa học, triết học,…là mối quan hệ ý thức – ý thức. Chúng luôn tồn
tại song song, có quan hệ mật thiết với nhau, tập hợp thành thế giới quan và
nhân sinh quan chung của hệ tư tưởng con người. Tuy nhiên giữa các hình thái ý
thức xã hội đều có sự khác nhau về hình thái, phương thức biểu hiện và chức
năng xã hội, bên cạnh đó điều kiện kinh tế và quan hệ sản xuất của mỗi xã hội,
mỗi thời đại đều có sự khác biệt, nên vị trí của các hình thái xã hội được thiết lập
trên cơ sở đó cũng khác nhau. Vì vậy mức độ và tính chất sự ảnh hưởng qua lại
giữa văn học với các hình thái ý thức khác nhau sẽ khác nhau.
Trên cơ sở tìm hiểu vai trò của xã hội đối với sự phát triển văn học, ta sẽ chỉ tập
trung vào sự ảnh hưởng của các hình thái xã hội khác tới sự phát triển văn học
và trình bày giản lược mối quan hệ giữa chúng. Ở đây, chỉ xét một số hình thái ý
thức xã hội có quan hệ và tác động sâu rộng đến văn học:
2.2.1 Văn học và chính trị
Chính trị có vai trò đặc biệt đối với văn học. Nói đến chính trị là nói đến
những vấn đề có liên hệ đến vận mệnh Tổ quốc, chế độ, giai cấp; hiện thực hoá
qua lập trường, thái độ, hành vi của con người trong xã hội đối với đường lối,
chủ trương hiện hành của một chế độ. Như vậy có nghĩa là chính trị bao trùm và
chi phối toàn bộ đời sống xã hội, không một thành viên nào có thể đứng ngoài

thể chế chính trị, như Lênin đã khẳng định “trong xã hội có giai cấp, văn học dù
muốn hay không, vẫn là một vũ khí đấu tranh giai cấp, phục vụ cho đường lối
chính trị của một giai cấp nhất định.”
12


Do chính trị có loại tiến bộ, có loại phản động, nên quan hệ giữa văn
nghệ và chính trị không phải là quan hệ thuần nhất, một chiều. Có những nhà
văn, những trào lưu văn học, khuynh hướng sáng tác công khai phục vụ chính trị.
Nhưng cũng có trường hợp văn nghệ quay lưng với chính trị, tuyên bố lập
trường “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Thực tế chứng tỏ, dù quan hệ đa dạng, phức
tạp như thế nào thì chính trị bao giờ cũng chi phối văn nghệ và ngược lại, sáng
tác văn nghệ bao giờ cũng bày tỏ một quan điểm chính trị, ngay cả khi nó chủ
trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”

Nhìn vào quá trình phát triển văn học Việt Nam, có thể thấy vào thời
trung đại đa số thơ ca do tầng lớp có địa vị xã hội cao sáng tác và họ đã có ý
thức gắn nhiệm vụ, mục đích chính trị với văn học như một cách đi vào lòng
người thuyết phục, sâu sắc và có sức sống dài lâu hơn. Điều này đã ảnh hưởng
rất nhiều đến đề tài và bút pháp sáng tác, những tác phẩm văn học lớn của giai
đoạn này đều mang hơi thở chung của tình hình chính trị thời đại: là những áng
thơ hùng hồn khẳng định độc lập – chủ quyền dân tộc như Nam quốc sơn hà (Lý
Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi); là bản Hịch tướng sĩ thấm đẫm
tráng khí của Hưng Đạo Vương; là những bài thơ từ Hội Tao Đàn của vua Lê
Thánh Tông sáng tác ca ngợi tinh thần độc lập tự cường dân tộc và ca tụng chế
độ cai trị của nhà vua,…
Còn trong thời hiện đại, Đảng ta luôn coi văn hoá nói chung và văn học
nói riêng là một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp cách mạng. Đề cương
về văn hoá Việt Nam năm 1943 đã ghi: “Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt
trận (kinh tế, chính trị, văn hoá), ở đó người cộng sản phải hoạt động” và chủ

13


tịch Hồ chí minh cũng từng khẳng định: “Văn hoá, nghệ thuật cũng là một mặt
trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Vì vậy trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng của mình, Đảng luôn hướng văn nghệ - văn học vào sự nghiệp
phục vụ Tổ quốc, nhân dân, thực hiện những nhiệm vụ chính trị do cách mạng
đề ra.
Có thể cụ thể hoá thành một nguyên tắc: Văn học phải phục vụ chính trị,
được sự lãnh đạo của chính trị. Phải xác định rằng chính trị không mâu thuẫn
với sáng tạo, không hạn chế sáng tạo mà trái lại chính là đòn bẩy của sự sáng
tạo, tạo điều kiện cho văn học phát triển. Nhà văn nếu không có ý thức vận dụng
quy luật trên không những khó sáng tác được những tác phẩm có giá trị mà còn
có thể phạm phải những sai lầm lớn, viết nên những tác phẩm phản động, đi
ngược lại chức năng văn học.
2.2.2 Văn học và khoa học
Khoa học là tri thức khách quan về thế giới được hệ thống hoá, là sự phản
ánh các quy luật tự nhiên và xã hội dưới dạng các khái niệm, phạm trù. Quan hệ
giữa văn học và khoa học là mối quan hệ giữa hai lĩnh vực tri thức lớn của con
người nên có nhiều điểm gần gũi, thậm chí có ý kiến cho rằng mãi đến cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất vào thế kỉ XVII mới có sự phân hoá rõ rệt
tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật như hai cách nhận thức đặc thù.
Văn học và khoa học giao nhau ở những điểm như tiểu thuyết lịch sử, truyện
khoa học viễn tưởng,… Ở đó, tư duy khoa học sẽ tạo độ đáng tin cậy cho nội
dung tác phẩm và làm sâu sắc hơn nhận thức nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện thực
thế kỉ XIX ở phương Tây là một ví dụ. Để luôn nhìn thẳng vào sự thật, tránh
bệnh ảo tưởng hoặc phiến diện, thấy cho đươc những phương diện bản chất của
14



xã hội, nhà văn hiện thực thế kỉ XIX cần có một trình độ tri thức nhất định về
thế giới, kết tinh từ những thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên
bấy giờ, bao gồm cả xã hội học, sử học, triết học,… Hiện trạng xã hội kết hợp
với những thành tựu về các ngành khoa học nói trên đã kết tinh thành nguyên
tắc lịch sử - cụ thể, thay thế cho nguyên tắc lí tính đã ngự trị trong cả khoa học
và văn học của bao thế kỉ trước đó.
Cũng nằm trong phạm trù khoa học, nhưng chúng ta sẽ dành thêm một đoạn
nói riêng về ảnh hưởng của triết học với sự phát triển văn học. Trên bình diện
nhận thức, văn học và triết học có quan hệ khăng khít. Sau triết học, văn học là
hình thái ý thức xã hội giàu triết lí nhất. Văn học cũng như triết học, muốn nhận
thức những vấn đề phổ quát của thế giới, cắt nghĩa thế giới, cắt nghĩa con người,
tìm đường giải phóng con người,.. Điều này thể hiện rất nhiều, rất phổ biến trong
các sáng tác văn học, ở Việt Nam có thể thất tiêu biểu là thơ của đại thi hào
Nguyễn Du, Nguyễn Trãi; hay nhìn ra thế giới những tác phẩm lớn như Chiến
tranh và hoà bình của L.Tonstoy, Phaoxt của Gớt,.. Vai trò của triết học đối với
sự phát triển văn học rất lớn, nó ảnh hưởng sâu sắc đến khuynh hướng sáng tác
văn học. Nhìn chung triết học duy vật thường đưa văn học tới khuynh hướng
tiến bộ, triết học duy tâm dễ đưa văn học thoát li đời sống.
2.2.3 Văn học và tôn giáo
Mối quan hệ giữa văn học và tôn giáo khá phức tạp. Trong lịch sử nhân
loại, có đến hàng chục thế kỉ văn học phát triển trong quan hệ mật thiết với tôn
giáo. Cả hai hình thái ý thức này đều biểu hiện tình cảm và trí tưởng tượng của
con người, nhưng chúng lại có rất nhiều điểm mâu thuẫn. Tôn giáo được xây
dựng trên cơ sở của đức tin, sự sùng bái những lực lượng siêu nhiên, xem thế
15


giới siêu nhiên do nó tưởng tượng ra là có thật; bằng hư cấu và tưởng tượng,
nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới giống như thật cái đã xảy ra. Cho nên tôn
giáo có thể sử dụng văn học như một công cụ để minh họa, tuyên truyền và văn

học có khi lại phát triển bằng sự khắc phục những tư tưởng siêu hình, phi nhân
bản của tôn giáo. Tuy nhiên không thể phủ nhận những mặt tích cực của những
tôn giáo đối với sự phát triển văn học. Dạng thức tồn tại đầu tiên của văn học
chính là văn học dân gian, mà ở đó các hình tượng nghệ thuật đều được xây
dựng nên trên cơ sở tín ngưỡng dân gian; trong quá trình phát triển không ngừng
của mình, có một số nền văn học chịu sức ảnh hưởng vô cùng lớn của tôn giáo,
ví như nền văn học vĩ đại của Ấn Độ chính là “tôn giáo đọc cho văn học
chép”,…
Tóm lại, không hề có hàng rào ngăn cách giữa văn học và các hình thái
ý thức xã hội, chính điều đó đã tạo nên diện mạo độc đáo của văn học qua các
giai đoạn phát triển của nó.

16


Sơ kết
Có thể khái quát hoá vai trò của đời sống xã hội với sự phát triển văn học bằng
nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh : “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”. Văn
nghệ nói chung và văn học nói riêng có thể xem như đứa con tinh thần của xã
hội: ra đời từ trong lòng xã hội, phát triển dưới sự quyết định nền tảng của đời
sống vật chất xã hội và chịu ảnh hưởng từ các hình thái ý thức xã hội cùng tồn
tại trong kiến trúc thượng tầng. Mặt khác, sự phát triển của văn học cũng có tính
độc lập tương đối và đôi khi có khả năng đạt đến thành tựu bậc cao bất chấp
kinh tế xã hội trì trệ lạc hậu.
Quá trình vận động, phát triển của văn học là một vấn đề không mới, nhưng để lí
giải và nắm vững những đặc điểm của nó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu tìm tòi.
Chúng em tin rằng với những nhận định, phân tích và dẫn chứng đã trình bày cơ
bản có thể lý giải được vai trò to lớn của đời sống xã hội đối với sự phát triển
văn học. Điều này vô cùng có ích cho quá trình học tập văn chương của chúng
em, và đặc biệt là trong nghiên cứu, tìm hiểu bộ môn Lí luận văn học.


17


Mục lục
Lời giới thiệu ................................................................................................... 2
1. Cấu trúc xã hội và vị trí của văn học trong cấu trúc xã hội ........................ 3
2. Vai trò của xã hội đối với sự phát triển văn học .......................................... 5
2.1 Văn học và đời sống vật chất xã hội…………………………………5
2.1.1 Vai trò quyết định của đời sống vật chất xã hội………………..5
2.1.2 Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội……………………...8
và quy luật phát triển không đồng đều
2.2 Ảnh hưởng qua lại giữa văn học và các hình thái………………….12
ý thức xã hội
2.2.1 Văn học và chính trị………………………………………….12
2.2.2 Văn học và khoa học…………………………………………14
2.2.3 Văn học và tôn giáo………………………………………….15
Sơ kết………………………………………………………………………17

18



×