Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp bằng mô hình kinh tế lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 61 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp là ngành sản xuất ra một khối lượng của cải vất chất rất lớn
cho xã hội, có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp không
những cung cấp hầu hết các công cụ, tư liệu sản xuất xây dựng cơ sở vật chất
cho tất cả các ngành kinh tế mà còn tạo ra các sản phẩm tiêu dùng có giá trị góp
phần phát triển nền kinh tế và nâng cao trình độ văn minh của xã hội. Vì vậy
tăng trưởng công nghiệp có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
kinh tế khác như: nông nghiệp, thương mại, giao thông vận tải, dịch vụ, quốc
phòng…Do công nghiệp có vai trò quan trọng như vậy nên khi đánh giá trình độ
phát triển kinh tế của một quốc gia tiêu chuẩn đầu tiên phải đề cập đến là tỷ
trọng của ngành công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Ngày nay, một nước muốn có trình độ kinh tế cao, nhất thiết phải có một
hệ thống các ngành công nghiệp hiện đại và đa dạng trong đó các ngành mũi
nhọn phải được chú ý thích đáng. Do vậy chỉ có tăng trưởng công nghiệp mới
giúp các quốc gia đang phát triển xây dựng nền công nghiệp bền vững và xoá
bớt khoảng cách với các nước phát triển kể cả về mặt kinh tế lẫn văn minh xã
hội. Nhận thức rõ điều này Đảng và Nhà nước ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI
(12-1986) đã có chủ trương đổi mới nền công nghiệp từ tập trung phát triển công
nghiệp nặng sang phát triển đồng bộ các ngành công nghiệp đặc biệt là công
nghiệp chế biến và hàng tiêu dùng. Chính từ chủ trương đổi mới đó, sau gần 20
năm công nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, tăng trưởng công
nghiệp này càng cao và ổn định, các sản phẩm công nghiệp đáp ứng được nhu
cầu trong nước và còn xuất khẩu cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công nghiệp Việt Nam còn
một số điểm kém phát triển như lao động trong ngành công nghiệp có trình độ
chưa cao, sản phẩm công nghiệp có sức cạnh tranh chưa cao…Với những thành
tựu cũng như thực trạng này chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển công
nghiệp để nước ta trở thành một nước công nghiệp trong thời gian sắp tới.
Để có được sự tăng trưởng trong công nghiệp như vậy thì cần phải xét tới
những yếu tố đã tác động tới sự phát triển đó. Bằng việc sử dụng mô hình trong


kinh tế lượng phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng công nghiệp là
việc xem xét mối quan hệ giữa các biến số và nắm được nhân tố nào quan trọng
nhất trong các nhân tố có ảnh hưởng tới biến phụ thuộc trong mô hình. Phân tích
số liệu, tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề trên sẽ có ý nghĩa trong việc phân tích
đánh giá đầy đủ hơn về tăng trưởng công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua.
1


Từ đó xây dựng mô hình tăng trưởng phù hợp với điều kiện hiện nay của đất
nước.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng trực
thuộc Tổng cục thống kê, với sự hướng dẫn của cán bộ tại cơ quan thực tập:
Phạm Thị Hồng Trang và sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy giáo: PGS.TS Nguyễn
Quang Dong đã giúp em chọn, nghiên cứu đề tài:
“Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng công
nghiệp bằng mô hình kinh tế lượng.”
Bài luận văn của em được viết theo cấu trúc gồm hai chương như sau:
Chương I: Thực trạng về nền công nghiệp Việt Nam.
Chương II: Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố cơ bản đến tăng trưởng công
nghiệp Việt Nam.

2


CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG VỀ NỀN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1. Khái niệm và phân loại ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay
1.1.Khái niệm ngành công nghiệp
Ngành công nghiệp bao gồm các hoạt động kinh tế khai thác tài nguyên
khoáng sản sẵn có trong thiên nhiên chưa có tác động của bàn tay con người (

trừ tài nguyên rừng và thuỷ hải sản) và các hoạt động chế biến những sản
phẩm của ngành Nông lâm nghiệp, Thuỷ sản và Công nghiệp thành các sản
phẩm có giá trị sử dụng mới so với giá trị sửa dụng của sản phẩm ban đầu
đưa vào chế biến.
1.2. Phân loại ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay
(1) Công nghiệp khai thác mỏ gồm:
- Khai thác than.
- Khai thác dầu thô và khí tự nhiên.
- Khai thác quặng, kim loại.
- Khai thác đá, cát sỏi và các mỏ khác.
(2) Công nghiệp chế biến gồm:
- Sản xuất thực phẩm đồ uống.
- Sản xuất thuốc lá, thuốc lào.
- Dệt, may, thuộc da và sản xuất các sản phẩm từ da.
- Chế biến gỗ và lâm sản.
- Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy.
- Xuất bản, in và sao bản ghi các loại.
- Sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế và nhiên liệu hạt nhân.
- Sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất.
- Sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic.
- Sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại.
- Sản xuất kim loại.
- Sản xuất các sản phẩm từ kim loại (trừ máy móc, thiết bị).
- Sản xuất máy móc, thiết bị văn phòng, máy tính.
- Sản xuất radio, ti vi và thiết bị truyền thông.
- Sản xuất dụng cụ y tế, thiết bị chính xác (cân đo).
- Sản xuất xe có động cơ.
- Sản xuất các loại phương tiện khác.
3



- Sản xuất giường tủ, bàn ghế và các sản phẩm khác chưa được phân vào
đâu.
- Tái chế phế liệu, phế phẩm.
(3) Sản xuất tập trung và phân phối điện, ga, nước sạch và nước nóng
gồm:
- Sản xuất, tập trung và phân phối điện, ga.
- Sản xuất và phân phối nước sạch, nước nóng.
1.3.Vài nét cơ bản về một số ngành công nghiệp chủ yếu ở nước ta
a. Các ngành công nghiệp nặng
Hầu hết các ngành công nghiệp nặng đều là những ngành công nghiệp
hiện đại, có trình độ kỹ thuật cao và là những ngành then chốt của nền kinh tế
quốc dân. Trong các ngành này quan trọng nhất là các ngành: năng lượng, cơ
khí, luyện kim và hoá chất.
* Ngành công nghiệp năng lượng
Ngành công nghiệp năng lượng có vai trò hết sức quan trọng đối với các
ngành kinh tế, đặc biệt đối với ngành công nghiệp. Trong quá trình công
nghiệp hoá của một nước, ngành năng lượng bao giờ cũng phải đi trước một
bước. Ngành công nghiệp nặng gồm có: ngành khai thác than, dầu mỏ, khí
đốt…và điện lực.
- Ngành công nghiệp khai thác than: đã từ lâu trong cơ cấu năng lượng
thế giới, than được coi là nguồn năng lượng cơ bản. Dự trữ than là dự trữ
nhiên liệu lớn nhất thế giới. Than được sử dụng làm nhiên liệu trong các nhà
máy nhiệt điện. Than được cốc hoá là nhiên liệu cho ngành luyện kim đen, và
cũng là nguyên liệu quý của công nghiệp hoá chất. Các mỏ than lớn ở nước
ta tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh và Quỳnh Nhai.
- Ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ: là ngành công nghiệp có vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Từ khi phát hiện ra dầu mỏ, nhờ đặc
tính quý báu của dầu như khả năng sinh nhiệt lớn, tiện dùng, vận chuyển
thuận lợi…mà dầu mỏ đã nhanh chóng vượt than và chiếm vị trí hàng đầu

trong cơ cấu sử dụng năng lượng hiện nay trên thế giới cũng như trong nước.
Sự xuất hiện của động cơ đốt trong và với sự xuất hiện của ngành công
nghiệp mới – hoá dầu, làm cho công nghiệp dầu mỏ ngày càng phát triển
nhanh chóng. Dầu mỏ được coi là vàng đen của đất nước. Việc khai thác dầu
mỏ trên thế giới hiện nay đạt trên 3 tỷ tấn/năm. Gần 40% lượng dầu mỏ khai
thác được tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển như khu vực Trung
Đông, Bắc Phi, Mỹ La tinh và Đông Nam Á. Cũng giống như nước ta, những
4


nước có nhiều dầu ở các khu vực này phần lớn là khai thác và xuất khẩu dầu
thô, chưa có những nhà máy lọc dầu tinh chế dầu tiên tiến. Khu khai thác dầu
mỏ nước ta tập trung chủ yếu ở vùng biển Bà Rịa Vũng Tàu với các mỏ dầu
lớn như mỏ Bạch Hổ, Hồng Ngọc, Đại Hùng cho trữ lượng dầu lớn.
- Ngành công nghiệp điện lực: là cơ sở chủ yếu để phát triển nền công
nghiệp hiện đại. Đây là ngành công nghiệp được phát triển hết sức mạnh mẽ
trong thời đại hiện nay. Do sự phát triển của nhiều ngành sản xuất hiện đại,
những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn đòi
hỏi nhu cầu sử dụng điện ngày càng nhiều hơn. Trên thế giới hiện nay điện
được sản xuất từ nhiều nguồn khác nhau như nhiệt điện, thuỷ điện, năng
lượng mặt trời, từ gió.., gần đây một số nước còn chú trọng đến việc phát
triển việc sản xuất điện từ các nhà máy điện nguyên tử. Thông thường, các
nước có nhiều than và dầu thì xây dựng các nhà máy nhiệt điện, các nước
giàu thuỷ năng thì phát triển các nhà máy thuỷ điện. Ở nước ta do có nhiều
sông, thác lớn nên chúng ta đã xây dựng nhiều nhà máy thuỷ điện lớn để sản
xuất phục vụ cho tiêu dùng và sản xuất. Các nhà máy thuỷ điện có công suất
lớn như Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Nhà máy thuỷ điện YALY, và hiện
nay chúng ta đang bắt đầu xây dựng nhà máy thuỷ điện có công suất lớn nhất
Đông Nam Á nhà máy thuỷ điện Sơn La.
* Ngành công nghiệp luyện kim: gồm hai ngành là luyện kim đen, sản xuất

ra gang thép và luyện kim màu, sản xuất ra các kim loại không có sắt.
- Ngành luyện kim đen: là một trong những ngành quan trọng nhất của
công nghiệp nặng, là cơ sở để phát triển ngành công nghiệp chế tạo máy
móc. Hầu như tất cả các ngành kinh tế đều sử dụng các sản phẩm của ngành
luyện kim đen. Nguyên liệu chủ yếu của ngành luyện kim đen là quặng sắt.
Ngoài ra còn cần than cốc, các chất trợ dung và nước. Ngành luyện kim đen
còn đòi hỏi một quy trình công nghệ phức tạp, trước hết từ quặng sắt, than
cốc phải nấu thành gang trong lò cao, rồi từ gang mới luyện thành thép…Do
phụ thuộc vào vị trí của các mỏ quặng nên ngành luyện kim đen ở nước ta
xuất hiện nhiều ở những vùng có mỏ quặng lớn như Thái Nguyên, Việt Trì,
Biên Hoà, Vũng Tàu
- Ngành luyện kim màu: sản xuất các kim loại không có chất sắt như đồng,
nhôm, thiếc trong đó có những loại có giá trị chiến lược. Các kim loại màu
được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp chế tạo máy, đặc biết trong chế tạo
ô tô, kỹ thuật điện và trong công nghiệp hóa học…Nguyên liệu dùng để
luyện kim màu là các loại quặng có hàm lượng kim loại thường thấp và lại ở
dạng đa kim, quá trình chế luyện phức tạp và khó khăn hơn luyện kim đen
nhiều. Vì vậy các quặng kim loại màu khó tìm kiếm và khai thác hơn, các
5


quặng kim loại màu chỉ có ở một số tỉnh như Thái Nguyên, Tĩnh Túc và TP
Hồ Chí Minh.
* Ngành công nghiệp chế tạo máy
Máy móc là phương tiện chủ yếu để nâng cao năng suất lao động và giảm
nhẹ lao động của con người. Ngành công nghiệp chế tạo máy trang bị công
cụ sản xuất cho tất cả các ngành kinh tế, phục vụ cho nhu cầu của dân cư.
Ngành công nghiệp chế tạo máy ngày càng phát triển mạnh và chiếm vị trí
quan trọng trong hệ thống các ngành công nghiệp, nó cũng được coi là chỉ
tiêu đánh giá trình độ phát triển công nghiệp của một quốc gia. Nước ta do

chịu hậu quả của chiến tranh và có nền công nghiệp lạc hậu nên ngành công
nghiệp chế tạo máy chưa phát triển và bắt kịp với công nghiệp chế tạo máy
trên thế giới. Trước kia, ngành chế tạo máy ở nước ta mới chỉ chú trọng sản
xuất máy dệt và máy nông nghiệp. Ngày nay nhờ các thành tựu về khoa học,
công nghệ mà ngành chế tạo máy đã có những phát triển như việc sản xuất
xe máy, ô tô, các linh kiện điện tử…Sự phát triển của ngành chế tạo máy
hiện đại đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn về khoa học kỹ thuật, phải có nguồn
lao động với trình độ lành nghề, nguồn nguyên liệu cân thiết, và sự phát triển
đồng đều của các ngành công nghiệp khác hỗ trợ cho nó. Các ngành công
nghiệp chế tạo máy phân bố rải rác ở tất cả các vùng trong cả nước từ Bắc tới
Nam.
b. Ngành công nghiệp nhẹ
Công nghiệp nhẹ bao gồm rất nhiều ngành công nghiệp khác nhau, đa
dạng về mặt hàng sản xuất và phức tạp về trình độ kỹ thuật. Nói chung, sản
phẩm của các ngành này đều nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày của đại đa số nhân dân, cho nên chúng có thị trường rất rộng lớn.
Một số ngành có nguồn gốc từ các ngành sản xuất thủ công, dần dần được cơ
khí hoá và hiện đại hoá. Nhân công của các ngành này không phải thoả mãn
nhiều điều kiện khắt khe về mặt thể lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật như
nhân công của ngành công nghiệp nặng. Hầu hết họ đều được tuyển từ các
thợ thủ công lành nghề, có sẵn ít nhiều kinh nghiệm cần thiết về sản xuất. Do
đặc điểm của ngành công nghiệp nhẹ là phục vụ nhu cầu sinh hoạt nên các
nhà máy dệt, may, chế biến tập trung chủ yếu ở các vùng dân cư đông đúc, ở
các thành phố lớn, thành phố vệ tinh như Hà Nội, Nam Định, Việt Trì, Hải
Phòng, TP Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Vũng Tàu, Huế, Đà Nẵng.. Vì đây là các
thị trường lớn dễ tiếp cận .
* Công nghiệp dệt: là một trong những ngành chủ đạo và quan trọng nhất
của công nghiệp nhẹ. Nó cung cấp những sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu
6



trực tiếp hàng ngày của con người về may mặc, sinh hoạt và một phần
nguyên liệu cho ngành công nghiệp nặng. Phát triển công nghiệp dệt có tác
dụng thúc đẩy nông nghiệp và các ngành công nghiệp hoá chất. Phát triển
công nghiệp nặng còn có tác dụng giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, nhất là lao động nữ bởi ngành này thu hút nhiều lao động. Từ khi
ngành công nghiệp hoá chất phát triển, ngành dệt đã có thêm nhiều nguồn
nguyên liệu mới như tơ, sợi, len nhân tạo bổ sung thêm cho các nguồn
nguyên nhiên liệu thiên nhiên sẵn có.
*Ngành công nghiệp thực phẩm: cung cấp các sản phẩm thoả mãn nhu cầu
hàng ngày của nhân dân về ăn uống. Nguyên liệu chủ yếu của ngành công
nghiệp thực phẩm là các sản phẩm của ngành trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản,
vì vậy nó tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp
phát triển. Hơn thế nữa, thông qua việc chế biến, công nghiệp thực phẩm còn
làm tăng thêm giá trị của các sản phẩm đó, tạo khả năng xuất khẩu, tích luỹ
vốn, góp phần cải thiện đời sống.
Sơ đồ cơ cấu ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
CÔNG NGHIỆP

Sản xuất tập trung
Công nghiệp

Công nghiệp

và phân phối điện,

khai thác mỏ

chế biến


ga, nước sạch và
nước nóng

Sx,

Sx,

Khai

Khai

Chế

Chế

Công

phân

phân

thác

thác

tạo

biến

nghiệp


phối

phối

than

dầu

máy

thực

dệt

điện

nước

phẩm

may

ga

sạch

mỏ

7



2. Công nghiệp Việt Nam trước năm 1986 và chủ trương đổi mới
2.1. Một vài nét về quá trình phát triển của Công nghiệp Việt Nam từ trước
năm 1986
Nước ta từ trước năm 1945 là một nước phong kiến thuộc địa, phương
thức sản xuất phong kiến trì trệ kéo dài, chính sách trọng nông, kiềm công, ức
thương nên công nghiệp không thể tách khỏi nông nghiệp để trở thành một
ngành độc lập. Do đó nền công nghiệp nước ta lúc bấy giờ là nền công nghiệp
què quặt không phát triển. Đến tháng 9/1945 khi nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, tiếp quản chính quyền từ chế độ cũ Chính Phủ nước ta lúc bấy giờ
gặp vô vàn khó khăn, công nghiệp Việt Nam vốn đã què quặt lại chịu ảnh hưởng
nặng nề của chiến tranh nên càng sa sút. Song với đường lối và chủ trương đúng
đắn của Đảng cung với sự nỗ lực của cán bộ làm công nghiệp nên chỉ trong một
năm hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng đã nhanh chóng được
phục hồi và đi vào sản xuất.
Từ tháng 5/1954 đến 5/1975, trong hoàn cảnh một phần đất nước còn
đang chiến tranh, công nghiệp Việt Nam vừa phải xây dựng một nền sản xuất
tiến dần lên cơ khí hoá và tự động hoá, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, một
mặt phải tiếp tục sản xuất để chi viện cho chiến trường miền Nam. Với chủ
trương khôi phục, phát triển kinh tế và cải tạo công thương nghiệp, chỉ sau một
thời gian ngắn công nghiệp miền Bắc đã nhanh chóng lấy lại được nhịp độ sản
xuất. Năm 1960 sản xuất của công nghiệp quốc doanh đạt gấp 25 lần so với năm
1955, cơ cấu công nghiệp có sự thay đổi đáng kể đã hình thành hệ thống công
nghiệp bao gồm 3 bộ phận chủ yếu là quốc doanh trung ương, quốc doanh địa
phương và tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã.
Năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước bước vào giai đoạn
lịch sử mới. Đại hội IV của Đảng đã xác định nội dung chủ yếu của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt là “Tập trung phát triển công
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp một bước lên sản

xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục
xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng”. Giai đoạn này công nghiệp
được đầu tư lớn, tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản đạt 79,3 tỷ đồng theo giá so
sánh năm 1982 trong đó ngành công nghiệp chiếm 35,5% tổng vốn đầu tư. Giá
trị tài sản cố định tăng thêm 43,7 tỷ đồng trong đó ngành công nghiệp tăng 13,2
tỷ đồng. Do được tập trung xây dựng nên ngành công nghiệp đã có thêm 714
doanh nghiệp nhà nước trong đó có 415 doanh nghiệp thuộc các ngành công
nghiệp nặng. Nhờ vậy năng suất của nhiều ngành tăng lên rõ rệt: năm 1980 so
với năm 1976, công suất sản xuất than tăng 12,7%; thép tăng 40%, xi măng tăng
8


18,6%, giấy bìa tăng 33,1%, vải tăng 11,1%, thuốc lá tăng 36,9%, động cơ điện
gấp 3,6 lần.
Giai đoạn 1981-1985 là giai đoạn nền công nghiệp bắt đầu có những dấu
hiệu phát triển tương đối khá. Công nghiệp vẫn là ngành được đầu tư lớn, tổng
mức đầu tư xây dựng cơ bản trong của Nhà nước trong giai đoạn này đã lên tới
95,4 tỷ đồng tăng 20,3% so với giai đoạn 1976-1980. Ngành công nghiệp vẫn
được ưu tiên với 36,5 tỷ đồng chiếm 38,4% vốn đầu tư. Do đẩy mạnh đầu tư
trong 2 kế hoạch 5 năm liền nên một số công trình lớn đã được hoàn thành và
đưa vào sử dụng như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thuỷ điện Hoà Bình, khu dầu
khí Vũng Tàu, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch…Năng lực sản
xuất của các ngành đã tăng tương đối khá như: sản xuất được 456,5 nghìn kW
điện, 2198 km đường dây tải điện; 2545 nghìn tấn than nguyên khai; 275,7
nghìn tấn phân bón hoá học; 2140,4 nghìn tấn xi măng; 58,4 nghìn tấn giấy. Sản
xuất công nghiệp được đầu tư lớn nên tốc độ tăng tuy có khá hơn nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và tốc độ tăng cũng
không ổn định. Giá trị sản lượng 1985 tăng 61,2% so với năm 1976, bình quân
mỗi năm tăng 5,4% ( 1977 tăng 10,8%; 1978 tăng 8,2%; 1979 giảm 4,7%; 1980
giảm 10,3%; 1981 tăng 1%; 1982 tăng 8,7%; 1983 tăng 13%; 1984 tăng 13,2%;

năm 1985 tăng 12,1%).
2.2. Chủ trương đổi mới
Trên đây chúng ta đã điểm qua một vài nét chính về quá trình lịch sử của
công nghiệp Việt Nam. Qua đó ta thấy công nghiệp Việt Nam hình thành khá
muộn so với nền công nghiệp Thế Giới, mãi đến năm 1945 khi nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời thì nó mới thực sự trở thành ngành độc lập. Xuất phát
điểm công nghiệp thấp không chỉ về mặt kỹ thuật, công nghệ mà còn cả về khả
năng ứng dụng và môi trương kinh tế để có thể phát triển. Thêm vào đó là những
chủ trương, chính sách sai lầm sau ngày giải phóng. Tất cả những điều kiện trên
đã tạo thành bức rào cản kiên cố ngăn không cho kinh tế Việt Nam nói chung và
ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng phát triển như các nước trong khu vực,
hoà cùng nhịp đi lên của thế giới. Việt Nam trong điều kiện ấy thứcự đã bị tụt
hậu quá xa nhưng lại chỉ chậm chạp, năng nề lê từng bước để đuổi theo sự phát
triển với tốc độ chóng mặt của nền kinh tế Thế Giới.
Trước bối cảnh đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn
định và phát triển. Đại hội xác định: “ nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát
của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt kinh tế xã
hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN
trong chặng đường tiếp theo”.
9


Về các biện pháp lớn Đại hội chỉ rõ: “ Phải khai thác mọi khả năng của
các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò
chủ đạo, kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế
kế hoạch hoá hạch toán theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, sử dụng
đúng đắn quan hệ hàng hoá-tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ
yếu. Căn cứ vào định hướng chung đó, phải bố trí lại cơ cấu kinh tế, điều chỉnh
lớn cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản, xác định lại vị trí ưu tiên của các ngành sản

xuất, đặt sản xuất nông nghiệp lên vị trí hàng đầu gắn liền với đề cao vai trò của
công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Việc phát triển công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng phải nhằm
phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, không bố
trí công nghiệp nặng vượt quá điều kiện thực tế, khả năng cho phép. Đại hội chủ
trương công bố khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới mọi hình
thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất
khẩu.
Sự điều chỉnh trên chứng tỏ: Đại hội IV đã định hướng cho việc chuyển từ
chủ trương thực hiện mô hình CNH theo kiểu cũ sang mô hình CNH theo kiểu
mới phù hợp với điều kiện của đất nước và yêu cầu của thời đại. Đồng thời
đường lối đúng đắn này cũng đã thực sự phát huy tác dụng: ngăn chặn khủng
hoảng kinh tế, kịp thời kìm hãm lạm phát và đưa Việt Nam bước vào giai đoạn
phát triển ổn định.
3. Công nghiệp Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay
3.1. Tăng trưởng Công nghiệp
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện
mang tính chiến lược, mở ra thời kỳ mới của phát triển kinh tế nói chung và
công nghiệp nói riêng. Cụ thể hoá đường lối đó, Nhà nước ban hành nhiều chính
sách kinh tế tài chính thông thoáng mở đường cho sản xuất công nghiệp phát
triển.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 1986-1990, bình quân mỗi năm giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 7,7% cao hơn hẳn các thời kỳ trước đó. Nhiều ngành
công nghiệp chủ lực của nền kinh tế không những đã thoát khỏi khủng hoảng mà
còn tăng trưởng với nhịp độ khá cao: cụ thể như sản lượng điện bình quân mỗi
năm tăng 11,1%, xi măng tăng 11%, thép cán tăng 8%, thiếc tăng 10%. Kết thúc
kế hoạch 5 năm, sản lượng điện sản xuất (năm 1990) tăng 72,5%, sản lượng xi
măng tăng 89,6%, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 32,9% so với năm 1985,
trong đó khu vực quốc doanh tăng 37,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng
24,4%... Đáng chú ý là đã xuất hiện ngành sản xuất mới: khai thác dầu thô của

10


công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Sản lượng dầu thô tăng từ
40 nghìn tấn năm 1986 lên 280 nghìn tấn năm 1987, 680 nghìn tấn năm 1988,
1,5 triệu tấn năm 1989 và 2,7 triệu tấn năm 1990. Tuy nhiên, những tiến bộ đó
mới chỉ là bước đầu và chưa vững chắc. Tốc độ tăng trưởng vẫn chưa ổn định :
1986 tăng 6,2%, năm 1987 tăng 10%, 1988 tăng 14,3%, 1989 giảm 3,3% và
1990 tăng 3,1%. Bước sang thập kỷ 90 công nghiệp mới thực sự khởi sắc.
Bình quân 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp toàn ngành đạt 13,7%, vượt xa kế hoạch đạt ra (7,5-8,5%), trong đó khu
vực kinh tế Nhà nước tăng 15%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%. Đó là
thời kỳ tăng trưởng cao và ổn định nhất kể từ 1976. Các ngành công nghiệp then
chốt chiếm tỷ trọng lớn đều tăng khá: nhiên liệu, năng lượng tăng 20%, hoá chất
tăng 20,1%, luyện kim đen tăng 16,1%, chế biến lương thực tăng 13,6%, giấy
tăng 12,9%, may mặc tăng 27,3%, giầy da tăng 23,8%. Nhiều sản phẩm công
nghiệp quan trọng tăng trưởng khá: điện tăng 10,8%, dầu thô tăng 23,3%, thép
cán tăng 30,3%, xà phòng tăng 12,9%.. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
vừa tăng nhanh số lượng vừa nâng cao chất lượng nên bước đầu đã tăng sức
cạnh tranh với hàng ngoại. Cơ cấu ngành cơ cấu thành phần kinh tế cũng đã có
nhiều chuyển biến tích cực, trong đó đáng chú ý là công nghiệp khu vực FDI
ngày càng chiếm vị trí xứng đáng trong cơ cấu công nghiệp nước ta. Nhiều sản
phẩm mới có chất lượng cao xuất hiện làm phong phú thêm hàng hoá trên thị
trường trong nước và xuất khẩu. Năm 1995, công nghiệp FDI chiếm 23,6% tổng
giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, so với 52% của doanh nghiệp nhà nước.
Trong kế hoạch 5 năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp nước ta tiếp tục
phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp độ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp
bình quân 5 năm 1996-2000 tăng 13,8%: 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng
13,8%, 1998 tăng 12,5%, 1999 tăng 11,6%, 2000 tăng 17,5%. Không chỉ tăng
trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối cùng của thập kỷ 90 đã

xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần
kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI, trong đó
công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Tính chung 5 năm từ 19962000 giá trị sản xuất khu vực Nhà nước do TW quản lý đều tăng trưởng cao ở tất
cả các nhóm ngành chủ yếu: 2000/1995 công nghiệp khai thác tăng 37,4%; công
nghiệp chế biến tăng 55,7% và công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt
và sản xuất nước tăng gấp 2 lần. Công nghiệp nhà nước do địa phương quản lý
tuy có tốc độ tăng trưởng thấp hơn khu vực do TW quản lý nhưng có nhiều khởi
sắc so với các thời kỳ trước đó, nhất là ngành may mặc, dệt, da, chế biến lương
thực thực phẩm.

11


Công nghiệp ngoài quốc doanh, tuy có nhiều khó khăn về vốn, thị trường
và công nghệ nhưng vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá. Bình quân 5 năm
1996-2000 giá trị sản xuất công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh tăng 11,65%
cao hơn công nghiệp khu vực nhà nước trong cùng thời gian. Điều đó thể hiện rõ
nhất trong năm 2000, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 19,2%, trong đó khu
vực hỗn hợp tăng cao nhất 24%, kế đến là khu vực tập thể tăng 24%, khu vực tư
nhân tăng 19,2% và khu vực cá thể tăng 6,6%. Tỷ trọng của công nghiệp ngoài
quốc doanh trong giá trị sản xuất công nghiệp khu vực trong nước đã tăng từ
32,8% năm 1995 lên 34,7% năm 2000. Hai tỷ lệ tương ứng của công nghiệp nhà
nước là 67,2% và 65,3%. Nét mới của công nghiệp ngoài quốc doanh thời kỳ
này là nhiều doanh nghiệp hỗn hợp, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công
ty cổ phần… đã đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và ứng dụng công nghệ mới
vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và giảm chí phí sản xuất, tăng sức
cạnh tranh trong thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu. Công nghiệp
ngoài quốc doanh với quy mô vừa và nhỏ đã thoát khỏi tình trạng trì trệ, không
ổn định. Công nghiệp nông thôn phát triển mạnh theo tinh thần nghị quyết Đại
hội VIII của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông

thôn. Các ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, làng nghề truyền
thống, làng nghề mới ở khu vực nông thôn được khôi phục và phát triển nhanh ở
tất cả các vùng trong cả nước.
Công nghiệp khu vực đầu tư nước ngoài do có lợi thế về máy móc thiết bị
và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước
khuyến khích bằng các cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng, nên trong
những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn hẳn khu vực công nghiệp
nhà nước. Tốc độ tăng giá trị bình quân 5 năm 1991-1995 là 12%, 1996 là
21,7%, 1997 là 23,2%, 1998 là 24,4%, 1999 là 20% và năm 2000 là 21,8%. Vị
trí của công nghiệp FDI trong cơ cấu công nghiệp cả nước ngày càng được củng
cố. Hầu hết các ngành công nghiệp FDI đều tăng trưởng cao: năm 2000 so với
năm 1996; sản lượng xà phòng tăng 5,95 lần; tấm lợp tăng 71 lần, kính xây dựng
tăng gấp 200 lần; quạt điện dân dụng tăng 58%; ô tô lắp ráp tăng 7,46 lần, tivi
lắp ráp tăng 6,33 lần. Không chỉ tăng nhanh mà công nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài còn sản xuất với quy trình công nghệ hiện đại nên chất lượng và chi phí
sản xuất có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Tốc độ
tăng trưởng cao và tỷ trọng ngày càng lớn cùng với chất lượng cao giá thành hạ
của công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng đảm bảo nhịp
độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp cả nước trên 10% liên tục trong suốt
thập niên 90.

12


Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội IX của Đảng đã quyết định chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005 với
nội dung là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau 5
năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng IX, sản xuất công nghiệp nước ta đã đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
bình quân 5 nảm 2001-2005 đạt 15,7 % với xu hướng ổn định năm sau cao hơn

năm trước.(Năm 2001 tăng 14,6%; năm 2002 tăng 14,8%, năm 2003 tăng
16,5%, năm 2004 tăng 16,2% và 2005 là 17,2%). Như vậy trong kế hoạch 5 năm
2001-2005, tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp đã đạt và vượt mục tiêu
đề ra dù có nhiều khó khăn về thị trường và giá cả nhiên liệu nhập khẩu biến
động bất lợi, nhất là tăng giá phôi tháp, xăng dầu, bông, hoá chất… Đáng chú ý
là tốc độ tăng trưởng cao đã được ở tất cả các thành phần, khu vực kinh tế. Bình
quân 5 năm gần đây, khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,1%/năm; khu vực
công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 18,9% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài tăng 15,5%.
Đồ thị 1 :Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp từ 1994-2005
(theo giá cố định)

Tăng trưởng công nghiệp nước ta đạt được những thành tựu như trên
nguyên nhân cơ bản có tính chẩt bao trùm chính là nhờ chính sách đổi mới của
Đảng. Bên cạnh đó những năm qua Nhà nước cũng như các cấp, các ngành từ
trung ương đến địa phương và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
đã tập trung vốn, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để đổi mới cơ cấu đầu
13


tư theo hướng từ chiều rộng sang chiều sâu, từng bước hiện đại hoá máy móc
thiểt bị và quy trình công nghệ để từ đó nâng cao năng suất lao động, tăng chất
lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng và giảm chi phí sản xuất. Nhờ đó sức
mạnh cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam được nâng lên trên thị
trường trong nước và xuất khẩu. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư xây dựng thuộc
nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập trung dành cho các công trình phục vụ công
nghiệp tăng nhanh. Hàng loạt công trình xây dựng của ngành công nghiệp triển
khai đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng nhất là những công trình hiện đại hoá
công nghiệp khai thác than, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp dệt may xuất
khẩu, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp cơ khí xây dựng, cơ

khí sửa chữa… thu hút các dự án đầu tư nước ngoài. Tính chung từ năm 1988
đến năm 2005 nước ta đã thu hút trên 3678 dự án đầu tư vào công nghiệp với
tổng số vốn đăng kí lên tới hàng chục tỷ USD. Khu vực này năm 2003 đã tạo ra
trên 37,2% giá trị sản xuất công nghiệp và tạo việc làm cho trên nửa triệu lao
động, chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Ngoài ra việc mở rộng được
thị trường xuất khẩu trong đó chủ yếu là hàng hoá công nghiệp như dệt may da
giầy, máy chế biến, nông lâm thuỷ sản chế biến cũng thúc đẩy sự tăng trưởng
công nghiệp. Đó là kết quả của quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của
công nghiệp nước ta những năm đầu thế kỷ XXI, vượt xa các thời kỳ trước đó.
3.2. Tỷ trọng công nghiệp trong một số chỉ tiêu Kinh tế tổng hợp
Ngay từ những năm đầu tiên của nền kinh tế non trẻ nước ta, công nghiệp
đóng góp một phần rất lớn trong các chỉ tiêu kinh tế. Đến năm 1986, tỷ trọng
công nghiệp trên giá trị tổng sản lượng công-nông nghiệp là 53,5%, chiếm
42,8% trong tổng sản phẩm xã hội, 28,6% thu nhập quốc dân, vốn đầu tư cho
công nghiệp chiếm 43,9% vốn đầu tư phát triển. Các tỷ lệ này được tăng dần
trong các năm 1987,1988 nhưng đến năm1989 cùng với sự giảm sụt về giá trị
sản lượng công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp trong các chỉ tiêu kinh tế đều giảm
xuống còn mức gần bằng năm 1986.
Do tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu sản xuất công nghiệp chuyển dịch theo
hướng tích cực, chất lượng sản phẩm có nhiều tiến bộ nên vai trò của công
nghiệp trong dịch chuyển cơ cấu kinh tế quốc dân trong 4 năm đầu thế kỷ XXI
đã thể hiện khá rõ nét. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ
36,73% năm 2000 lên 38,13% năm 2001; 38,49% năm 2002; 39,95% năm 2003;
40,09% năm 2004 và 41,02% năm 2005.
Nhìn chung, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển đầu tư vào công nghiệp thường
cao hơn tỷ trọng công nghiệp trong GDP. Điều này cũng dễ hiểu vì công nghiệp
luôn đòi hỏi phải đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng: nhà xưởng, máy móc, thiết bị ...
Nếu tỷ trọng trung bình của công nghiệp trong GDP giai đoạn 1990-1995 là
14



21,36%; 1996-2000 là 27,17% thì vốn đầu tư phát triển cho công nghiệp chiếm
42,92% trong nửa đầu thập niên 90 và giảm xuống 32,72% trong nửa cuối.
So với công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất và phân phối điện,
nước, khí đốt thì tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP, vốn đầu tư phát
triển đều cao hơn cả. Như năm 2000 GDP ngành công nghiệp chế biến chiếm
18,6% GDP, đến năm 2003 chiếm tới 20,45% GDP của toàn bộ nền kinh tế.
Năm 1995, vốn đầu tư phát triển dành cho công nghiệp 31,2% thì có 17%
là cho công nghiệp chế biến, 9,2% công nghiệp điện, nước, khí đốt và chỉ có 5%
cho công nghiệp khai thác. Đến năm 2000, với tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp là
33,8% vốn đầu tư phát triển thì tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp chế biến đạt 20,1%,
công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước, khí đốt là 11,7%, công nghiệp
khai thác mỏ chỉ chiếm 2,6%. Đây cũng là xu hướng chung về tăng vốn đầu tư
cho công nghiệp chế biến và giảm dần cho công nghiệp khai thác mỏ giai đoạn
2000-2003. Vẫn biết rằng các ngành như điện, khai khoáng là những ngành
đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiến hành CNH, HĐH nên cần tập trung
đầu tư nhưng bản thân các ngành phải cố gắng nhiều hơn nữa để nâng cao hiệu
suất sử dụng vốn và chính phủ cần có những biện pháp để sớm khắc phục tình
trạng sử dụng vốn bừa bãi thì mới có thể đẩy nhanh quá trình CNH đất nước.
3.3. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành Công nghiệp
Quá trình phát triển công nghiệp trong điều kiện CNH, HĐH nền kinh tế
quốc dân ở Việt Nam trong thời gian qua luôn đi đôi với quá trình chuyển dịch
cơ cấu công nghiệp theo hướng tăng dần các ngành công nghiệp chế biến, tỷ
trọng của khu vực vốn đầu tư nước ngoài, chuyển mạnh từ nền công nghiệp
hướng nội, thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp hướng ngoại, định hướng
xuất khẩu.
Cơ cấu các thành phần kinh tế đã thay đổi khá rõ nét. Công nghịêp ngoài
quốc doanh với các loại hình hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH,
công ty cổ phần tuy có tỷ trọng còn nhỏ nhưng nhịp độ tăng trưởng cao nhất và
vị trí của nó trong toàn ngành công nghiệp cũng ngày càng nâng cao. Nếu năm

2000, khu vực ngoài quốc doanh mới chiếm 24,5% trong giá trị sản xuất theo
giá thực tế của toàn ngành công nghiệp, thì năm 2003 là 25,66% và năm 2005
lên 28,5%.
Khu vực doanh nghiệp Nhà nước tỷ trọng ngày càng giảm dần, do thực
hiện sắp xếp lại doanh nghiệp, cổ phần hoá chuyển qua khu vực ngoài quốc
doanh, giải thể sát nhập các doanh nghiệp sản xuất kém hiệu quả, trong khi đó
lại hạn chế phát triển bề rộng ( hạn chế thành lập DNNN mới), tập trung phát
triển bề sâu. Nếu năm 2000, tỷ trọng giá trị sản xuất (tính theo giá cố định) của
15


DNNN chiếm 41,2% thì năm 2001 giảm xuống còn 41,1%, năm 2003 còn
38,56%, năm 2005 là 34,8%.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành chậm nhưng có ưu
thế về kỹ thuật công nghệ cao hơn, kinh nghiệm quản lý tốt hơn, quan hệ kinh tế
đối ngoại thuận lưọi hơn so với hai khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Do vậy tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này tăng nhanh theo thời gian từ
26,73% năm 1996 lên 35,3% năm 2001, 35,78% năm 2003, 37,2% năm 2005,
trở thành khu vực chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 sau khu vực quốc doanh kể từ năm
2000. Có thể nói, xu hướng chuyển dịch cơ cấu giữa các khu vực, thành phần
kinh tế loại hình doanh nghiệp công nghiệp đang diễn ra theo đúng đường lối
phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước. Khu vực tư nhân và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh hơn, chiếm tỷ trọng ngày
càng cao, còn khu vực doanh nghiệp Nhà nước đang giảm dần nhưng vẫn giữa
vai trò chủ đạo.
Đồ thị 2: Cơ cấu GO công nghiệp phân theo nguồn vốn đầu tư

Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng đa thành phần
nói trên, cơ cấu sản xuất nội bộ ngành công nghiệp cũng đã có bước chuyển tích
cực. Công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn, những năm qua luôn đạt tốc độ

tăng trưởng cao nên tỷ trong khá ổn định và có xu hướng tăng dần : từ 78,8% lên
80,3% năm 2004. Trong khi đó, ngành công nghịêp khai thác mỏ vốn chiếm tỷ
trọng nhỏ lại giảm dần từ 15,78% năm 2000 xuống còn 15,06% năm 2004 và
công nghiệp sản xuất điện nước cũng trong tình trạng tương tự: năm 2000 chiếm

16


5,54% giá trị sản xuất toàn ngành, trong đó sản xuất điện 5%, sản xuất nước
0,5%, đến năm 2004 giảm xuống còn 4,65% (điện 4,31% và nước 0,43%).
Trong nội bộ ngành công nghiệp chế biến, cơ cấu sản xuất cũng có sự
chuyển dịch giữa các ngành gia công lắp ráp với sản xuất từ nguyên liệu ban
đầu. Nhìn chung các hoạt động gia công lắp ráp tăng nhanh hơn nhiều so với sản
xuất từ nguyên vật liệu ban đầu. Cụ thể năm 2000 tỷ trọng công nghiệp gia công
lắp ráp mới chiếm 20,3% thì năm 2000 đã tăng lên 26,3%. Ngược lại, hoạt động
sản xuất từ nguyên vật liệu ban đầu tỷ trọng giảm từ 79,7% xuống còn 73,7%.
Trong xu hướng phát triển của công nghiệp chế biến, tỷ trọng các ngành có công
nghệ cao tuy còn nhỏ nhưng cũng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2000 chiếm
15,6%, năm 2004 là 18,8% trong đó sản xuất ô tô từ 1,75% lên 3,15%, sản xuất
thiết bị điện, điện tử từ 2,29% lên 2,76%, sản xuất xe máy và các phương tiện
vận tải khác từ 3,98% lên 4,05%, sản xuất thiết bị văn phòng, máy tính từ 0,52%
lên 1,17%. Tiếp đến là các ngành có công nghệ trung bình tăng từ 26,2% năm
2000 lên 29,5% năm 2004, trong đó có những ngành tăng khá về tỷ trọng như:
sản xuất kim loại từ 2,72% lên 3,87%, sản xuất các sản phẩm khác từ kim loại
tăng từ 3% lên 4,23%, sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại tăng từ 6,39% lên
6,85%... Còn những ngành công nghệ thấp thì tỷ trọng giảm dần, năm 2000
chiếm 58,2% đến năm 2004 còn 51,7% trong đó: thực phẩm đồ uống giảm từ
24,1% xuống còn 18,7%, dệt từ 4,59% xuống còn 3,8%, da giầy từ 4,3% xuống
còn 4,03%, sản xuất thuốc lá từ 2,26% xuống 1,75%, riêng có hai ngành là may
mặc tăng từ 3,42% lên 4,12%, sản xuất giường tủ bàn ghế tăng từ 2,21% lên

4,05%.
Đồ thị 3: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chủ yếu trong toàn bộ
nền công nghiệp

17


Bên cạnh đó xu hướng chuyển đổi cơ cấu theo vùng cũng là nét mới đáng
quan tâm. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp vùng Đông Nam Bộ vẫn chiếm
trên 50% của cả nước. Đây là vùng có nhiều khu công nghiệp tập trung, thu hút
nhiều dự án FDI, có thị trường xuất khẩu thuận lợi, có nhiều sản phẩm chất
lượng cao. Vùng đồng bằng sông Hồng tuy chiếm tỷ trọng bé hơn Đông Nam
Bộ nhưng cũng có khởi sắc do từ năm 2001 tới nay đã hình thành nhiều khu
công nghiệp tập trung quy mô lớn ở Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên,
Hải Dương, Hà Tây và Bắc Ninh. Đây cũng là vùng có nhiều làng nghề truyền
thống đã khôi phục và phát triển khá nhanh nhờ các chính sách kinh tế tài chính
thông thoáng của Chính phủ.
3.4. Công nghệ
Trong những năm qua do mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, văn hoá và
khoa học kỹ thuật với các nước trên thế giới, trong đó có những nước công
nghiệp phát triển và công nghiệp mới (NIC) chúng ta đã đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu theo chiều sâu theo công nghệ. Trước đây trình độ công nghệ, trang
thiết bị trong ngành công nghiệp hết sức lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội. Quá trình đổi mới với sự nỗ lực tập trung đầu tư, ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất mà trực tiếp đổi mới
máy móc thiết bị kỹ thuật phù hợp đã tạo một bước tiến mới, nâng cao trình độ
công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp, tạo năng suất lao động cao, chất
lượng sản phẩm được cải tiến là cơ sở để mở rộng thị trường hàng hóa công
nghiệp Việt Nam cả trong nước và nước ngoài. Ở một số ngành công nghiệp đã
có sự chuyển biến theo hướng tiếp cận công nghiệp tiên tiến, hiện đại, hình

thành một cơ cấu công nghiệp đa dạng về xuất xứ và trình độ, đan xen trong
từng doanh nghiệp, từng ngành sản xuất công nghiệp.
Thấy được tầm quan trọng của công nghệ hiện đại nên những năm vừa
qua vốn đầu tư cho ngành công nghiệp ngày càng tăng để các ngành công
nghiệp nhanh chóng tiếp cận với công nghệ hiện đại trên thế giới. Vốn đầu tư
trong năm 1986 mới chỉ là 15 tỷ đồng thì cho đến năm 1990 vốn đầu tư đã là
1995,6 tỷ đồng tăng gấp hơn 100 lần so với năm 1986; tới năm 1995 là 22673,3
tỷ đồng; năm 2000 là 49892,9 tỷ đồng; năm 2005 là 64390,9 tỷ đồng. Tuy nhiên
không phải năm nào vốn đầu tư cũng tăng vì đầu tư có độ trễ về mặt thời gian để
tạo ra được kết quả nên có khi năm trước đầu tư nhiều thì năm sau có thể giảm
lượng vốn đầu tư đi như năm 1995 lượng vốn đầu tư giảm 2,96% so với năm
1994.

18


Đồ thị 4: Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp giai đoạn 1986-2005.

Là một nước đi sau, xuất phát điểm thấp, lạc hậu so với Thế giới nên
chuyển giao công nghệ đã trở thành hoạt động quan trọng trong sản xuất công
nghiệp Việt Nam. Thông qua các dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đầu
tư từ nhiều nguồn trong và ngoài nước, nhiều công nghệ mới được chuyển giao
từ các nước phát triển và được áp dụng vào sản xuất công nghiệp. Công nghệ và
các trang thiết bị tiên tiến thường được đầu tư ở một số lĩnh vực như dầu khí,
điện lực, sản xuất đồ uống, lắp ráp ô tô, xe máy, công nghiệp thực phẩm…
Trong nền kinh tế khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có trình
độ công nghệ, trang thiết bị hiện đại nhất cũng như khả năng ứng dụng, tiếp cận
công nghệ mới tốt nhất. Có một đặc điểm chung là công nghệ sản xuất trong
doanh nghiệp quốc doanh cao hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn doanh nghiệp trong nước, doanh

nghiệp trung ương cao hơn doanh nghiệp địa phương. Công nghiệp tiên tiến chủ
yếu tập trung ở các liên doanh, doanh nghiệp có 100% có vốn đầu tư nước
ngoài, các doanh nghiệp trng khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo đánh giá
trình độ tự động hoá trong các doanh nghiệp công nghiệp thì các doanh nghiệp
công nghiệp nhà nước đạt 3% thiết bị tự động hoá, 39% thiết bị bán cơ khí còn ở
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỷ lệ này là 10% và 45%.
Cùng với chủ trương của nhà nước về đổi mới công nghệ trong quá trình
sản xuất, các doanh nghiệp trong và ngoài nước luôn cố gắng tập trung nâng cao
trình độ công nghệ cải tiến thiết bị máy móc, dây truyền theo hướng hiện đại
hoá, đồng bộ hoá. Các doanh nghiệp này đã bắt đầu phát huy được tính chủ
động sáng tạo trong việc đổi mới công nghệ, phù hợp với năng lực sản xuất kinh
19


doanh, phát huy được hiệu quả sản xuất. Đồng thời đã khai thác nhiều nguồn,
khơi thông nhiều dòng công nghệ và từng bước thâm nhập vào thị trường công
nghệ thế giới.
Trong những năm vừa qua, các khu công nghiệp mọc lên kéo theo quá
trình đô thị hoá thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong các ngành nghề
và thu hút thêm việc làm cho người lao động. Không chỉ ở vùng Đông Nam Bộ,
mà việc hình thành một số khu công nghiệp ở đồng bằng Sông Hồng mới 3 năm
gần đây đã cho thấy tác động tích cực của các khu công nghệ cao. Trong số 115
khu công nghiệp hiện có tại 42 tỉnh thành trong cả nước đã đóng góp 26% giá trị
sản xuất công nghiệp cả nước, 19% giá trị xuất khẩu trong toàn bộ nền công
nghiệp. Với việc ứng dụng công nghệ hiện đại thì việc phát triển các khu công
nghiệp có công nghệ cao là nhu cầu tất yếu đối với nước ta hiện nay.
Nói tóm lại nhờ tiếp xúc với công nghệ sản xuất tiên tiến các ngành công
nghiệp đã nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng được bảo
đảm, năng xuất lao động cải thiện, vốn đầu tư đem lại tỉ suất lợi nhuận cao…góp
phần đẩy mạnh nền kinh tế quốc dân phát triển, gắn quá trình công nghiệp hoá

với quá trình hiện đại hoá. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới công nghệ vẫn
còn một số vấn đề bất cập như sau:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng công nghệ còn thấp so với yêu cầu phát triển
của doanh nghiệp, của ngành và yêu cầu của quá trình CNH-HĐH nền kinh tế
quốc dân. Cơ cấu trình độ công nghệ còn giản đơn, chậm đổi mới trong nhiều
ngành.
Thứ hai, trình độ quản lý, năng lực chuyên môn thấp gây nên tình trạng
nhiều thiết bị cũ, lạc hậu được nhập vào nước ta với giá thành cao, không phát
huy được hiệu quả, gây tổn thất về mặt kinh tế, ảnh hưởng xấu đến môi trường
và xã hội.
Thứ ba, đổi mới công nghệ còn mang tính tự phát, chưa có môi trường
pháp lý và quy hoạch tổng thể về chiến lược phát triển khoa học công nghệ. Sự
phối hợp giữa doanh nghiệp, ngành và cơ quan khoa học nghiên cứu công nghệ
chưa chặt chẽ gây nên tình trạng các doanh nghiệp công nghiệp, các ngành có
nhu cầu đổi mới công nghệ rất lớn, nhưng lại lúng túng khi quyết định lựa chọn
lĩnh vực đầu tư, loại trình độ công nghệ và thiết bị kỹ thuật, đối tác, giá cả và
hợp đồng.
3.5. Lao động công nghiệp
Trong bất kỳ lĩnh vực nào nhân tố con người luôn là nhân tố đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Trong sản xuất nhân tố con người được đề cập đến qua cụm
20


danh từ lao động công nghiệp. Thực trạng về lao động công nghiệp Việt Nam có
thể điểm qua vài nét chính như sau:
Xét về cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp, theo điều tra toàn
bộ nền công nghiệp năm 1998, lao động ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ cao nhất
63,02%, tiếp đến là lao động công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ 27,91%, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 9,07%. Đến năm 2004 thì lao động công
nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất 62,23%, tiếp đến là khu vực

có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 19,7%, lao động công nghiệp quốc doanh
chiếm tỷ lệ 18,07%. Vậy đã có sự dịch chuyển lao động từ khu vực quốc doanh
sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và xu hướng này ngày càng tăng trong
những năm sau khi nước ta tham gia vào WTO. Các địa phương thu hút nhiều
lao động nhất vẫn là những trung tâm công nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm như
Đồng Bằng Sông Hồng với tỷ lệ 28% trong đó Hà Nội chiếm 6,2%, Đồng Bằng
Nam Bộ 27,6% trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm 16,5%. Cơ cấu lao động
công nghiệp chia cho các ngành công nghiệp chế biến 89,3%, công nghiệp khai
thác 8,1% và sản xuất, phân phối địên, khí đốt, nước 2,6%. Nhìn chung, lao
động trong ngành công nghiệp chế biến vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với
công nghiệp khai thác và công nghiệp sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước.
Về trình độ học vấn lao động trong khu vực kinh tế nhà nước hoặc có vốn
đầu tư hay cổ phần của nhà nước cao hơn so với khu vực khác. Doanh nghiệp tư
nhân, đặc biệt là các hợp tác xã lao động có bằng cấp không nhiều. Tính trong
các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước số lao động ở trên trình độ trên đại học
chiếm 0,04%, đại học và cao đẳng chiếm 5,56%, trung cấp 6,07%, công nhân kỹ
thuật 23,73%. Trong khi đó ở khu vực tư nhân tỷ lệ này là 0,01%;
0,02%;5,93%;31,47%. Các ngành xuất bản, in và sao bản ghi các loại, lao động
có bằng cấp khá cao, trình độ cao đẳng trở lên chiếm 5,1% , trung cấp 8%, công
nhân kỹ thuật 4,04% hay ngành sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất có
7,4 % lao động đạt trình độ cao đẳng trở lên, 2,63% đạt trung cấp và 1,91% là
công nhân kỹ thuật. Ngược lại, trong ngành khai thác quặng kim loại 100% lao
động đều không có các bằng cấp đã nêu hay ngành sản xuất từ rơm rạ tre nứa
(tiểu thủ công nghiệp) trình độ cao đẳng/ trung cấp/ đai học là 0,11%/ 0,43%/
0,66% còn ở ngành tái chế tỷ lệ này là 0%/ 1,47%/ 0,98%. Do có cơ chế chuyển
dịch cơ cấu các thành phần trong nền kinh tế cũng đã ảnh hưởng đến việc
chuyển dịch về mặt số lượng trong các ngành từ ngành nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ. Cùng với việc phát triển công nghiệp nên số lao động tham
gia vào sản xuất công nghiệp ngày càng tăng với số lượng như sau: năm 1986 số
lao động trong các ngành công nghiệp mới có 2593009 người thì cho đến năm

2000 con số này đã lên đến 3306268 người và năm 2004 là 4932217 người. Tốc
21


độ tăng lao động trong ngành công nghiệp trong giai đoạn 2000-2004 là 12,29%/
năm. Lao động trong ngành chế biến vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với
công nghiệp khai thác và công nghiệp sản xuất, phân phối điện khí đốt, nước.
Công nghiệp chế biến có tỷ trọng trong tổng lao động ngày càng tăng trong khi
lao động trong công nghiệp khai thác và công nghiệp sản xuất, phân phối điện
nước chiếm tỷ trọng ngày càng giảm.
3.6. Một số tồn tại
*Hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm
Phát triển công nghiệp trong thời gian qua chủ yếu là phát triển theo chiều
rộng, gia công lắp giáp là chủ yếu, trình độ kỹ thuật chưa cao chính vì vậy mà
đầu tư tuy nhiều nhưng hiệu quả đạt được lại không đươc là bao. Các ngành
công nghiệp còn chưa chú trọng phát triển công nghiệp theo chiều sâu, nâng tỷ
trọng chế biến, đảm bảo cung cấp nguyên nhiên liệu đầu vào và dịch vụ hạ tầng
hợp lý nên hiệu quả sản xuất công nghiệp có xu hướng giảm so với một đồng
vốn đầu tư thêm vào, tăng trưởng công nghiệp chưa ổn định và vững chắc. Phần
lớn các sản phẩm công nghiệp không có sức cạnh tranh với sản phẩm của nước
khác trên thị trường thế giới cũng như thị trường trong nước.
Hiệu quả sản xuất công nghiệp có thể được xem xét dưới hệ số ICOR. Hệ
số này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để tạo ra lượng sản phẩm tăng
thêm. Trong những năm gần đây hệ số này phản ánh hiệu quả sản xuất công
nghiệp so với một đồng vốn đầu tư bắt đầu giảm. Tình trạng này được thể hiện
trong bảng số liệu về hệ số ICOR của ngành công nghiệp như sau:
ICOR = IV/IG
Trong đó:

IV: tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GDP

IG: tốc độ tăng trưởng GDP

Bảng 1: Hệ số ICOR của ngành công nghiệp từ năm 1996-2005.
Năm

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

ICOR

1.36

1.23

1.456

1.612

0.848


0.911

0.8

2003 2004 2005
0.98

1.21

1.19

Sự tăng trưởng của nhiều ngành công nghiệp như: chế biến thực phẩm và
đồ uống, dệt may, sản phẩm thép và kim loại mầu, máy móc thiết bị, ô tô xe
máy… chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu,
có giá thành cao và luôn có xu hướng tăng. Nguồn nguyên liệu sản suất trong
nước chưa đáp ứng được nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp chế biến như:
nguyên phụ liệu giày dấn xuất trong nước chỉ chiếm 25%-30% nhu cầu; khoảng
80% thiết bị máy móc vật tư để đóng tàu phải nhập khẩu; phần lớn các nguyên
22


liệu chính phục vụ sản xuất các sản phẩm kĩ thuật điện phải nhập khẩu …Những
việc này làm hạn chế việc tăng giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp dẫn đến hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm.
*Chi phí hạ tầng cao và hợp tác kinh doanh chưa có hiệu quả
Ở Việt Nam, các dịch vụ phục vụ cho việc sản xuất công nghiệp như: điện
nước, viễn thông chi phí vận chuyển … còn chưa phát triển còn thiếu thốn nhiều
nên chi phí trung gian thường được đánh giá là cao hơn mức trung bình của các
nước trong khu vực. Điều đó thể hiện ở khoảng cách giữa tốc độ tăng trưởng giá

trị sản xuất và giá trị tăng thêm vẫn còn lớn. Ví dụ năm 2004, tốc độ tăng trưởng
giá trị sản xuất là 16% trong khi đó tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm là
10,2% và độ chênh lệch giữa 2 tốc độ này là 5,8%. Đây cũng chính là một
nguyên nhân làm việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam còn chưa cao và
ảnh hưởng nhiều tới quá trình sản xuất công nghiệp trong nước.
Mức độ hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành
và giữa các ngành có nhiều hạn chế. Chưa tạo được mối liên kết phát triển các
ngành theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường, tạo nội lực cho ngành công
nghiệp vận động và phát triển. Thiếu các doanh nghiệp có khả năng về vốn,
công nghệ, tài chính, thị trường làm hạt nhân để trợ giúp các doanh nghiệp vừa
và nhỏ phát triển.
*Đầu tư cho ngành công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức
Tỷ trọng đầu tư cho ngành công nghiệp mặc dù chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng số vốn đầu tư toàn xã hội song số vốn đó chưa đủ để cơ cấu lại toàn bộ nền
công nghiệp. Cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham
gia của các thành phần kinh tế chưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường
hoà hợp và cạnh tranh quyết liệt. Nhiều ngành, lĩnh vực công nghiệp có vai trò
và tác động lớn như chế tạo máy móc thiết bị, công nghiệp nguyên liệu… chưa
được quan tâm đúng mức. trong khi đó vốn đầu tư vào các ngành xi măng, mía
đường không mang lại hiệu quả. Đầu tư vẫn còn thiếu tập trung, dàn trải mới
thấy lợi trước mắt là đầu tư mà chưa thấy được triển vọng phát triển lâu dài.
* Sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn thấp
Ngoài những nguyên nhân về chi phí cao dẫn đến giá thành cao, công
nghệ lạc hậu khiến sản phẩm kém chất lượng thì còn một số nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này như: doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam chưa chú ý nhiều
đến khâu bao bì đóng gói, mẫu mã sản phẩm còn chưa phong phú. Vì thế các sản
phẩm công nghiệp Việt Nam còn không thể tồn tại ngay ở thị trường trong nước
chứ chưa nói đến những đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài. Một nguyên
nhân hết sức quan trọng nữa là vấn đề thương hiệu của sản phẩm. Nhiều tên các
23



sản phẩm nổi tiếng của công nghiệp Việt Nam đã bị các công ty nước ngoài
chiếm dụng để kinh doanh mà không sao do các doanh nghiệp Việt Nam chưa
đăng ký thương hiệu các sản phẩm của mình.

24


CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Với chương này bằng việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng, ta có thể
xem xét và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng của ngành công
nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Như vậy xuất phát từ thực trạng trong
ngành công nghiệp em sẽ xây dựng một mô hình phù hợp nhất với những biến
số là những nhân tố cơ bản có thể tác động tới quá trình tăng trưởng của ngành
công nghiệp. Sau khi xây dựng được mô hình phù hợp em sẽ áp dụng kết quả
ước lượng của mô hình để dự báo giá trị của ngành công nghiệp trong một vài
năm tới, cuối cùng là một số kiến nghị và giải pháp cho ngành công nghiệp Việt
Nam.
1. Lựa chọn mô hình
Đầu tiên khi lựa chọn mô hình là phải xác định các biến số đâu là biến
phụ thuộc đâu là biến độc lập. Vì vậy em xin giới thiệu các biến và cách thức
được sử dụng trong mô hình.
1.1. Biến phụ thuộc ( biến được giải thích) trong mô hình
Là giá trị sản xuất của ngành công nghiệp hàng năm .
Kí hiệu : GOCN
Hoặc là tổng sản phẩm trong nước của ngành công nghiệp hàng năm.
Kí hiệu : GDP

1.2. Biến độc lập ( biến giải thích) trong mô hình
* Vốn đầu tư sản xuất cho ngành công nghiệp (ICN)
Là lượng vốn đầu tư vào sản xuất công nghiệp bao gồm cả vốn của khu
vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực đầu tư
nước ngoài. Vốn đầu tư là yếu tố hết sức quan trọng đối với tăng trưởng của
công nghiệp, để biết được vốn đầu tư có được sử dụng hiệu quả hay không ta
xem xét tới việc khi đầu tư thêm một đồng vốn thì tạo ra thêm được bao nhiêu
giá trị sản phẩm.
* Số lao động trong ngành công nghiệp (LCN)
Là tổng số lao động cả lao động trí óc và lao động tay chân có tham gia
sản xuất trong ngành công nghiệp. Bất kỳ quốc gia nào đều cần đến lao động,
lao động là nguồn lực quý nhất, nguồn lực quyết định trong số các nguồn lực tác
động tới phát triển. Do nước ta vẫn là nước công nghiệp còn lạc hậu, nhiều
25


×