Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Cho thuê lại lao động theo pháp luật lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.72 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HẢI DỊU

CHO THU£ L¹I LAO §éNG
THEO PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HẢI DỊU

CHO THU£ L¹I LAO §éNG
THEO PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HIỀN PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Hải Dịu


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục những từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG
VÀ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ............................................. 7
1.1.

Khái quát chung về cho thuê lại lao động ........................................ 7

1.1.1.


Khái niệm cho thuê lại lao động ......................................................... 7

1.1.2. Đặc điểm cho thuê lại lao động .......................................................... 12
1.1.3. Các hình thức cho thuê lại lao động ................................................... 17
1.2.

Pháp luật về cho thuê lại lao động .................................................. 20

1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về cho thuê lại lao động ................ 20
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về cho thuê lại lao động ............. 23
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM ........... 38
2.1.

Thực trạng quy định pháp luật về cho thuê lại lao động ở
Việt Nam............................................................................................ 38

2.1.1. Điều kiện cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động ................. 39
2.1.2. Hợp đồng cho thuê lại lao động ......................................................... 47
2.1.3. Quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cho thuê
lại lao động ......................................................................................... 50
2.1.4. Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt
động cho thuê lại lao động ................................................................. 52


2.2.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về cho thuê lại lao động ở
Việt Nam............................................................................................ 53


2.2.1. Khái quát về hoạt động cho thuê lại lao động ở Việt Nam ................ 53
2.2.2.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về cho thuê lại lao động ở Việt Nam ....... 59

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 68
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ
CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM .............................. 70
3.1.

Yêu cầu cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật về cho thuê
lại lao động ........................................................................................ 70

3.2.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
cho thuê lại lao động ở Việt Nam .................................................... 75

3.3.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cho thuê lại lao động ..... 78

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BHYT:

Bảo hiểm y tế

DN:

Doanh nghiệp

HĐLĐ:

Hợp đồng lao động

ILO:

Tổ chức Lao động Quốc tế

NLĐ:

Người lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động

TNHH:


Trách nhiệm hữu hạn


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.2: Số lươ ̣ng DN cho thuê la ̣i lao đô ̣ng, DN thuê la ̣i lao đô ̣ng và
lao đô ̣ng cho thuê la ̣i năm 2010 ở một số địa phương

Trang

56


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nề n kinh tế nước ta trong những năm gầ n đây đang phát triển một cách
mạnh mẽ theo xu hướng công nghiê ̣p hóa

, hiê ̣n đa ̣i hóa nên sự ra đời của

nhiề u DN, tâ ̣p đoàn kinh tế nhà nước và tư nhân là điề u tấ t yế u . Điề u đó đã
góp phầ n giải quyế t vấ n đề viê ̣c làm cho NLĐ trên mo ̣i miề n đấ t nước . Tuy
nhiên, đi cùng với sự phát triể n của nề n kinh tế và nhu cầ u của nguồ n nhân
lực cho các DN và tập đoàn trong và ngoài nước đã nảy sinh những vấn đề
đang được xã hội quan tâm đó là vấn đề cho thuê lại lao động.
Trên thế giới, cho thuê lại lao động là một phương thức sử dụng lao
động linh hoạt, mang lại cơ hội việc làm cho NLĐ, đặc biệt đối với những

công việc mang tính chất tạm thời và đã xuất hiện từ rất lâu trong những năm
60, 70 của thế kỷ XX. Ở Việt Nam, hình thức lao động này cũng đã có mặt từ
những năm 2000. Tuy nhiên đến năm 2012, cho thuê lại lao động mới chính
thức được thừa nhận trong Bộ luật Lao động 2012, có hiệu lực từ 01/05/2013.
Trong đó nội dung cho thuê lại lao động được quy định tại mục 5, chương III
về HĐLĐ gồm 6 điều từ Điều 53 đến Điều 58. Việc luật hóa hình thức lao
động mới này là hoàn toàn hợp lý vì nó có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều DN,
nhất là đối với kế hoạch sử dụng lao động linh hoạt, cho phép DN dễ dàng
điều chỉnh nhu cầu về lao động trong thời gian ngắn và tiết kiệm các chi phí
tuyển dụng cũng như những chi phí hành chính khác.
Chính vì hoạt động cho thuê lại lao động tại Việt Nam lần đầu tiên được
thừa nhận bằng luật nên không thể tránh khỏi sự bỡ ngỡ trong cách hiểu, cách áp
dụng luật của đối tượng áp dụng cũng như những thiếu sót nhất định trong việc
xây dựng các quy định liên quan do chưa dự liệu hết các tình huống xảy ra trên
thực tế của nhà làm luật. Bởi vậy mà tôi chọn đề tài “cho thuê lại lao động theo
pháp luật lao động Việt Nam” nhằm làm rõ hơn các quy định của pháp luật về

1


cho thuê lại lao động. Từ đó chỉ ra những hạn chế, tồn tại trong các quy định của
pháp luật cũng như thực tế áp dụng các quy định này và đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện hơn chế định này tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện tại, theo tìm hiểu của tôi đã có một số bài đăng
trên tạp chí, tham luận hội thảo, bài đăng trên website của các nhà nghiên cứu,
luật sư về cho thuê lại lao động, như:
- Cho thuê lại lao động và những yêu cầu đặt ra đối với việc điều chỉnh
pháp luật lao động Việt Nam của TS. Lê Thị Hoài Thu đăng trên tạp chí khoa
học ĐHQGHN, Luật học 28(2012) trang 78-84

- Nguyên tắc, nội dung và hình thức pháp luật điều chỉnh hoạt động cho
thuê lại lao động của PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí đăng trên tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số tháng 7 năm 2012, trang 50-58;
- Cuốn “Tài liệu nghiên cứu cho thuê lại lao động” do Bộ Lao độngThương binh và Xã hội và ILO phối hợp xuất bản năm 2011, được sử dụng
chủ yếu làm tài liệu tham khảo đẻ xây dựng Bộ luật Lao động sửa đổi về cho
thuê lại lao động;
- Luật hóa “hoạt động cho thuê lại lao động” trong cuốn tài liệu Cho
thuê lại lao động, NXB Lao động- Xã hội, năm 2011 của Youngmu- Cố vấn
trưởng về Quan hệ lao động, tổ chức lao động Quốc tế tại Việt Nam;
- Lao động cho thuê lại ở Việt Nam của TS. Nguyễn Xuân Thu, tham
luận tại Hội thảo Việt – Đức: Pháp luật lao động, trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2010;
- Hoạt động cho thuê lại lao động: một điều chỉnh pháp luật theo
hướng cho phép của Phan Huy Hồng và Ngô Thị Thu đăng trên Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 109 tháng 11 năm 2007;
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Cho thuê lại lao động – Một

2


hướng điều chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế” của trường Đại học Luật Hà Nội do TS. Nguyễn
Xuân Thu làm chủ nhiệm đề tài.
Có thể nói các bài biết, công trình nghiên cứu về cho thuê lại lao động
trên đã nghiên cứu về cho thuê lại lao động ở các cấp độ khác nhau. Tuy
nhiên các bài viết, công trình đó đều được thực hiện trước khi Bộ luật Lao
động 2012 có hiệu lực nhằm nhận diện, phân tích hoạt động cho thuê lại lao
động, đề xuất sự cần thiết trong việc luật hóa hoạt động này.
Ngoài ra có hai đề tài luận văn thạc sỹ về vấn đề cho thuê lại lao động là:
- Đề tài Luận văn Thạc sỹ: “So sánh pháp luật Việt Nam về cho thuê

lại lao động với một số nước trên thế giới” của Đặng Thị Oanh
- Đề tài Luận văn thạc sỹ “Pháp luật về cho thuê lại lao động ở Việt
Nam hiện nay” của Phạm Thị Thảo.
Các đề tài luận văn này cũng đã nghiên cứu quy định của pháp luật về
cho thuê lại lao động, đưa ra hạn chế của pháp luật và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật. Những kết nghiên cứu của các tác giả này đã rất thành công, giúp
cho người đọc hiểu một cách rõ ràng về hoạt động cho thuê lại lao động.
Tuy nhiên luận văn của Đặng Thị Oanh đi sâu vào so sánh pháp luật
Việt Nam và pháp luật Đức, Nhật Bản, Trung Quốc về cho thuê lại lao
động. Còn luận văn của Đặng Thị Thảo chưa khái quát hoạt động cho thuê
lại lao động ở Việt Nam từ khi hoạt động này xuất hiện đến nay và thực
tiễn thực hiện pháp luật về cho thuê lại lao động ở nước ta. Chính vì vậy
mà tôi muốn tiếp tục nghiên cứu đề tài này trên cơ sở những kết quả mà các
tác giả đã nghiên cứu được. Tôi đã tiếp cận vấn đề theo hướng nghiên cứu
những vấn đề lý luận về cho thuê lại lao động, phân tích vai trò của pháp
luật đối với hoạt động cho thuê lại lao động. Nội dung pháp luật về cho
thuê lại lao động, khái quát hoạt động cho thuê lại lao động ở Việt Nam từ

3


khi hoạt động này xuất hiện đến nay, những hạn chế, bất cập trong quy
định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về cho thuê lại lao động
ở nước ta. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả hoạt động cho thuê lại lao động.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
cho thuê lại lao động và pháp luật lao động Việt Nam về cho thuê lại lao
động. Từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực

hiện pháp luật trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đưa ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu khái niệm và đặc điểm cho thuê lại lao động; các hình
thức cho thuê lại lao động và vai trò điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt
động này;
- Nghiên cứu pháp luật Việt Nam về cho thuê lại lao động và so sánh
với pháp luật một số nước, chỉ ra hạn chế của pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật cũng như khái quát hoạt động cho thuê lại lao động ở nước ta từ
trước đến nay;
- Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật trên thực tế
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là:
- Các quy định pháp luật hiện hành về cho thuê lại lao động ở Việt Nam;
- Thực tiễn thực hiện pháp luật cho thuê lại lao động ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn này không nghiên cứu tất cả các vấn đề về cho thuê lại lao

4


động mà chủ yếu tập trung nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, các hình thức
của cho thuê lại lao động, sự cần thiết điều chỉnh pháp luật, pháp luật về cho
thuê lại lao động ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện pháp luật về cho thuê lại
lao động ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về cho thuê lại lao động ở nước ta.
Luận văn tập trung nghiên cứu về quy định pháp luật hiện hành về cho
thuê lại lao động ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện pháp luật cho thuê lại lao
động ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, pháp luật về cho thuê lại lao

động của một số nước được so sánh làm cơ sở cho lập luận đề cập trong luận
văn. Các nội dung khác về cho thuê lại lao động với góc độ tiếp cận xã hội,
kinh tế,… không được nghiên cứu trong luận văn này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật. Cụ
thể là một số phương pháp được sử dụng như: phân tích, thống kê, so sánh,
chứng minh, tổng hợp....
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương để thực hiện
việc phân tích, đánh giá các tài liệu, số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp, xử lí các tài liệu, số
liệu,... phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh, đối chiếu, đánh giá
các quan điểm của các quan điểm khác nhau về cho thuê lại lao động, từ đó có
thể rút ra những kinh nghiệm nhất định nhằm đề xuất nâng cao hiệu quả của
điều chỉnh pháp luật và hiệu quả của hoạt động cho thuê lại lao động trên thực
tế tại Việt Nam.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh các luận
điểm được đề cập trong luận văn.

5


- Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong việc đưa ra những
kết luận của từng chương và kết luận chung của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo hữu ích tại
các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về luật học, về lao động.
Các kiên nghị của đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ
chức khi nghiên cứu hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về

cho thuê lại lao động ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 03 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê lại lao động và điều chỉnh của
pháp luật
- Chương 2: Thực trạng và thực tiễn thi hành pháp luật về cho thuê lại
lao động ở Việt Nam
- Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả pháp luật về cho thuê lại lao động ở Việt Nam

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG
VÀ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát chung về cho thuê lại lao động
1.1.1. Khái niệm cho thuê lại lao động
Cho thuê lại lao động là một khái niệm tương đối phổ biến và không
còn xa lạ ở nhiều nước trên thế giới. Tại các nước phát triển như Mỹ, các
nước Tây Âu, cho thuê lại lao động xuất hiện dưới các hình thức như cho thuê
nhân viên hay dịch vụ cho thuê nhân viên từ những thập niên 60-70 của thế
kỷ XX [12, tr.8]. Ngay cả một số nước trong khu vực như Châu Á như Nhật
Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines, hoạt động cho
thuê lại lao động cũng khá phát triển và pháp luật điều chỉnh hoạt động này
cũng được ban hành cách đây nhiều năm tại các quốc gia kể trên.
Vậy cho thuê lại lao động được hiểu như thế nào?
Cho thuê lại lao động được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau ở các
quốc gia tùy thuộc vào sự phản ánh khái niệm, ý nghĩa, mục đích nhấn mạnh

tính chất, thời hạn của công việc. Ở Mỹ và các nước Châu Âu, cho thuê lại
lao động được gọi phổ biến là “lao động cho thuê tạm thời” bởi hình thức
dịch vụ việc làm này chủ yếu áp dụng đối với các công việc có tính chất
“tạm thời” [12, tr.8]. Điều này thể hiện rất rõ từ thực tế cho thuê lại lao động ở
các quốc gia này khi một NLĐ được gửi từ công ty cho thuê lao động (được gọi
là “Tổ chức cho thuê lao động tạm thời”) đến một công ty sử dụng lao động cho
thuê, công việc của NLĐ này tại công ty sử dụng lao động thuê thường kéo dài
dưới 1 năm, đa số NLĐ cho thuê không làm việc quá 03 tháng [12, tr.9]. Còn ở
các nước Châu Á, cho thuê lại lao động được gọi là “lao động phái cử” hay
“cung ứng lao động”.

7


Cùng với việc thừa nhận hình thức việc làm tạm thời và cho thuê lại lao
động, pháp luật các quốc gia đều đưa ra khái niệm cho thuê lại lao động để
nhận diện loại dịch vụ việc làm này.
Luật HĐLĐ của nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa năm 2007 đưa ra
định nghĩa:
Cho thuê lao động (phái cử lao động) được hiểu là việc đơn
vị phái cử tuyển dụng lao động và có trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ đối với NLĐ nhưng phái cử lao động của mình sang làm việc tại
một đơn vị khác. Hợp đồng giữa đơn vị phái cử và NLĐ được phái
cử là HĐLĐ, còn hợp đồng giữa đơn vị phái cử và đơn vị nhận phái
cử là hợp đồng phái cử [16, tr.12].
Pháp luật Nhật Bản đưa ra định nghĩa phái cử lao động trong số Luật
88 ngày 05 tháng 07 năm 1985 như sau:
Lao động phái cử được hiểu là NLĐ làm thuê cho một
NSDLĐ, sau đó được thuê lại để làm việc cho một NSDLĐ khác
dưới sự quản lý, điều hành của NSDLĐ dó, trong khi vẫn duy trì

quan hệ lao động với NSDLĐ trước, trừ trường hợp NSDLĐ trước
đồng ý với NSDLĐ sau, trong trường hợp này NLĐ sẽ được
NSDLĐ sau tuyển dụng [12, tr.9].
Pháp luật Đức mặc dù không đưa ra khái niệm chính thức về cho thuê
lại lao động nhưng thông qua Luật kinh doanh về cho thuê lao động của Đức
quy định về trường hợp phải xin phép khi cho thuê lao động thì có thể hiểu về
cho thuê lao động của Đức như sau:
- DN cho thuê lao động (NSDLĐ) cho DN khác thuê lại lao
động của đơn vị mình nhưng giữa hai DN này không có mối liên hệ
về tổ chức với nhau mà phải là những đơn vị độc lập.
- DN cho thuê lao động vẫn là NSDLĐ nên DN này vẫn phải gánh
chịu các nghĩa vụ cũng như đảm nhận các rủi ro của NSDLĐ [20, tr.49].

8


Theo ILO, cho thuê lao động được hiểu là việc các tổ chức việc làm tư
nhân (chủ sử dụng lao động chính) tuyển dụng lao động nhưng không trực
tiếp sử dụng mà để cung cấp lao động cho bên thứ ba (DN trực tiếp sử dụng
lao động). DN trực tiếp sử dụng lao động có quyền giao việc cũng như giám
sát NLĐ trong việc thực hiện công việc được giao nhưng quyền lợi của NLĐ
lại do tổ chức việc làm tư nhân chịu trách nhiệm chính [20, tr.48].
Ngoài ra, đứng từ góc độ của một tổ chức cho thuê lao động chuyên
nghiệp như Entrepreneur Media Inc, họ quan niệm rằng:Cho thuê lại lao động
là một thỏa thuận hợp đồng trong đó DN cho thuê lao động cũng được biết
như là một tổ chức cho thuê lao động chuyên nghiệp (PEO), là NSDLĐ chính
thức. Trách nhiệm thuê lao động có đặc trưng là sự chia sẻ giữa người cho
thuê lại lao động và người thuê lại lao động. Người thuê lại lao động thực chất
là người điều hành quản lý mọi công việc mà NLĐ được thuê thực hiện.
Trong khi đó, người cho thuê lại lao động có trách nhiệm thực hiện các công

việc khác như khai báo bảng lương, chi trả các khoản thuế cho NLĐ. Trách
nhiệm của người thuê lại lao động là ký séc để chi trả phí cho người cho thuê
lại lao động trong đó bao gồm các khoản lương, thuế, các lợi ích và chi phí
hành chính. Còn lại là trách nhiệm của người cho thuê lại lao động [20].
Tại Việt Nam, hoạt động cho thuê lại lao động lần đầu tiên được ghi nhận
tại luật số 10/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012 (Bộ luật Lao động năm
2012). Theo đó, khái niệm cho thuê lại lao động cũng lần đầu tiên được ghi nhận
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Bộ luật Lao động năm 2012 định nghĩa:
Cho thuê lại lao động là việc NLĐ đã được tuyển dụng bởi DN
được cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động sau đó làm việc cho
NSDLĐ khác, chịu sự điều hành của NSDLĐ sau và vẫn duy trì quan
hệ lao động với DN cho thuê lại lao động [Điều 53, Khoản 1].
Trước đó, mặc dù chưa được ghi nhận chính thức trong luật nhưng hoạt

9


động cho thuê lại lao động ở nước ta đã xuất hiện từ những năm 2000 trên
thực tế và hoạt động này cũng được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu lớn nhỏ. Trong đó đáng chú ý có đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường
của Đại học Luật Hà Nội: “Cho thuê lại lao động – một hướng điều chỉnh của
pháp luật lao động Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế” đã khái quát và đưa ra khái niệm cho thuê lại lao động như sau:
Cho thuê lại lao động là việc một DN tiến hành tuyển dụng
lao động (ký HĐLĐ với NLĐ) nhưng sau đó cho DN khác thuê lại
để sử dụng trong một thời gian nhất định. Trong thời gian làm việc
tại DN thuê lại lao động, quyền lợi của NLĐ vẫn do DN cho thuê
lao động đảm bảo nhưng NLĐ phải chịu sự giám sát, điều hành của
DN thuê lại lao động [20, tr.50].
Từ các khái niệm trên có thể thấy dù được tiếp cận dưới góc độ nào hay

cách thể hiện định nghĩa khác nhau nhưng tựu trung lại thì cho thuê lại lao
động là một hoạt động đặc biệt với các dấu hiệu đặc trưng riêng như:
- DN cho thuê lại lao động tuyển dụng và ký HĐLĐ với NLĐ nhưng
không trực tiếp sử dụng lao động mà cho DN khác thuê lại trong một thời
gian nhất định theo hợp đồng cho thuê lại lao động giữa hai DN;
- Quyền lợi của NLĐ cho thuê lại vẫn do DN cho thuê lại lao động thực
hiện và đảm bảo với tư cách là NSDLĐ
- Trong thời gian làm việc tại DN thuê lại lao động, NLĐ chịu sự quản
lý, giám sát, điều hành trực tiếp của DN thuê lại lao động.
Như vậy, quan hệ cho thuê lại lao động khác với quan hệ lao động
thông thường ở chỗ:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia: cho thuê lại lao động luôn có sự tham
gia của ba chủ thể: (1) DN cho thuê lao động: là bên tuyển dụng và trực tiếp
ký HĐLĐ với NLĐ sau đó cho DN khác thuê lại lao động đó nhằm mục đích

10


nhận được một khoản phí từ dịch vụ này. Cho thuê lại lao động là một ngành
nghề kinh doanh của DN cho thuê lại lao động và DN này phải đáp ứng các
điều kiện pháp luật quy định mới được thực hiện dịch vụ này; (2) DN thuê lại
lao động: là bên thuê lại lao động từ DN cho thuê lao động để đáp ứng nhu
cầu sản xuất kinh doanh của mình trong trường hợp thiếu hụt lao động hoặc
cần lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong một thời gian nhất
định,… và (3) NLĐ cho thuê lại: là NLĐ đã ký HĐLĐ với DN cho thuê lao
động nhưng không làm việc trực tiếp cho DN này mà được DN khác thuê lại
trong một thời gian nhất định. Trong thời gian làm việc tại DN thuê lại lao
động, NLĐ phải chịu sự quản lý, giám sát, điều hành trực tiếp từ DN thuê lại
lao động nhưng quan hệ lao động (HĐLĐ) vẫn được duy trì với DN cho thuê
lao động. Điều này có nghĩa quyền lợi cơ bản như tiền lương, BHXH,

BHYT,… của NLĐ sẽ do DN cho thuê lao động thực hiện.
Thứ hai, về căn cứ phát sinh: trong quan hệ cho thuê lao động, có ba căn
cứ làm phát sinh mối quan hệ của các chủ thể tham gia, bao gồm: (i) HĐLĐ
làm phát sinh quan hệ giữa DN cho thuê lao động và NLĐ được cho thuê lại;
(ii) Hợp đồng cho thuê lại lao động làm phát sinh quan hệ giữa DN cho thuê
lao động và DN thuê lại lao động; (iii) Hành vi sử dụng lao động thực tế làm
phát sinh quan hệ giữa NLĐ được cho thuê lại và DN thuê lại lao động. Mối
quan hệ của ba chủ thể này, xét về bản chất là quan hệ ba bên (quan hệ mang
hình tam giác) với sự tham gia của bên cho thuê lại lao động (DN cho thuê lao
động), NLĐ được thuê lại và bên thuê lại lao động (DN thuê lại lao động).
Thứ ba, về quyền quản lý điều hành: bên sử dụng lao động trực tiếp
(bên thuê lao động) lại không ký kết HĐLĐ với NLĐ mà thông qua một chủ
thể khác là bên cho thuê lao động và bên thuê lao động có quyền quản lý, điều
hành trực tiếp NLĐ. Như vậy quan hệ cho thuê lao động đã có sự chuyển giao
quyền quản lý điều hành đi kèm với sự chuyển giao quyền sử dụng lao động

11


từ chủ thể ký HĐLĐ sang chủ thể thực tế sử dụng lao động. Đây là một trong
những đặc điểm đặc trưng của hoạt động cho thuê lại lao động.
Thứ tư, khác với các HĐLĐ thông thường, đối với hợp đồng cho thuê
lại lao động, khi kết thúc hợp đồng cho thuê lại lao động, bên cho thuê lại
lao động có nghĩa vụ nhận lại NLĐ từ chủ thể thuê và bố trí việc làm tiếp
theo cho NLĐ.
1.1.2. Đặc điểm cho thuê lại lao động
Thực tế đã chứng minh, cho thuê lại lao động mới xuất hiện phổ biến từ
những thập niên 60-70 của thế kỷ XX ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường
như Mỹ và các nước Tây Âu. Từ những năm 1970, ở nhiều nước phát triển ,
kinh phí cho các dich

̣ vu ̣ viê ̣c làm công cô ̣ng giảm , tạo cơ hội cho các trung
tâm dich
̣ vu ̣ viê ̣c làm ta ̣m thời phát triể n . Sự tăng trưởng của các trung tâm
dịch vụ việc làm tạm thời nả y sinh trên nhu cầ u cầ n thiế t phải cung cấ p các
dịch vụ cho thị trường lao động đang phát triển nhanh và linh hoạt . Từ đó mô
hình dịch vụ cung ứng lao động ra đời như một thực tế tất yếu của thị trường
lao động mặc dù thời gian đầu cũng có khá nhiều tranh luận xung quanh loại
hình dịch vụ này.
Một minh chứng rõ ràng cho khẳng định trên là Hoa Kỳ. Trong hai thập
kỷ qua, nhu cầu ngày càng tăng về cung cấp dịch vụ cho một thị trường lao động
phát triển nhanh chóng và linh hoạt đã dẫn đến sự tăng trưởng ngoạn mục của
các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân. Các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của thị trường lao động.
Trong bối cảnh thị trường lao động quốc gia và toàn cầu có nhiều biến động, thị
phần của các cơ quan dịch vụ việc là tư nhân đã liên tục tăng và hoạt động kinh
doanh của họ được mở rộng. Những tổ chức này đã bố trí việc làm cho trên 8
triệu lao động trên toàn thế giới và đã tăng cường việc làm của người tìm việc
bằng cách giữ liên lạc với thị trường việc làm và thông qua đào tạo [20, tr.66].

12


Ở Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ XXI, nền kinh tế có những
bước chuyển biến rõ rệt, đặc biệt là chủ trương bước đầu hình thành nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường. Trong những
năm này dịch vụ cho thuê lại lao động cũng bước đầu hình thành ở nước ta
xuất phát từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh như một hệ quả tất yếu của
nền kinh tế. Tuy nhiên thời điểm này dịch vụ cho thuê lại lao động chưa thực
sự phổ biến trên cả nước và loại hình dịch vụ này cũng chưa được thừa nhận,
chưa có pháp luật điều chỉnh. Trong những năm tiếp theo hoạt động cho thuê

lại lao động ở nước ta ngày càng phổ biến xuất phát từ nhu cầu có thật về thuê
lao động của các DN. Đến năm 2012, Bộ luật Lao động mới chính thức ghi
nhận hoạt động này. Cho thuê lại lao động có các đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, cho thuê lại lao động vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính
xã hội
Về mặt kinh tế, hoạt động lao động luôn chịu sự điều tiết của các quy luật
kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu.
DN kinh doanh hoạt động cho thuê lại lao động tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động
cho thuê lại lao động. Còn đối với DN thuê lao động thì giải quyết vấn đề thiếu
hụt nguồn nhân lực trong một thời gian nhất định bởi nhu cầu về lao động của
DN thay đổi theo khối lượng đơn đặt hàng. Trong khi đó khối lượng đơn đặt
hàng có thể thay đổi phụ thuộc vào thời vụ hay chu kỳ tăng trưởng và các yếu tố
thị trường khác. Sự tăng giảm đơn đặt hàng thường kéo theo sự tăng, giảm về
nhu cầu sử dụng lao động. Chi phí lao động là một yếu tố cấu thành giá thành
sản phẩm nên DN luôn phải tính toán để không phải chi phí cho lao động dư dôi
do khối lượng đơn hàng giảm. Bởi vậy phương án thuê lại lao động là phương án
tối ưu để giải quyết bài toán này. Hơn nữa, sử dụng dịch vụ thuê lao động DN
cũng không phải mất nhiều thời gian cho quy trình tuyển dụng, hạn chế chi phí
đào tạo, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh.

13


Về mặt xã hội, cho thuê lại lao động đem lại cơ hội việc làm cho NLĐ,
góp phần giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, đời sống của chính NLĐ
và gia đình họ được đảm bảo, xã hội, đất nước ngày một phồn thịnh. Ngoài ra
cho thuê lại lao động còn giúp cho thị trường lao động trở nên linh hoạt và
năng động, góp phần thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Như vậy, cho thuê la ̣i lao đô ̣ng là sự tổng hòa các yếu tố kinh tế và xã
hô ̣i. Nó không chỉ liên quan đến việc làm , giải quyết việc làm , hạn chế thất

nghiê ̣p, bảo đảm đời sống c ho NLĐ,… mà còn liên quan đế n đầ u tư nguồ n
nhân lực , thu nhâ ̣p , thu hút đầ u tư , tăng trưởng và phát triể n DN cũng như
toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Thứ hai, khác với chủ thể của quan hệ lao động thông thường, chủ thể
của quan hệ cho thuê lại lao động gồm ba chủ thể với những mối quan hệ
khác nhau.
Như trong phần “khái niệm cho thuê lại lao động” đã đề cập, cho thuê
lại lao động luôn có sự tham gia của ba chủ thể đó là (i) DN cho thuê lao
động, (ii) NLĐ cho thuê lại và (iii) DN thuê lại lao động. Hoạt động cho thuê
lại lao động xuất hiện ba loại quan hệ pháp luật khác nhau nhưng có mối quan
hệ mật thiết với nhau: (i) Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động và
NLĐ; (ii) Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động với DN thuê lại lao
động; (iii) Quan hệ giữa DN thuê lao động với NLĐ được thuê lại.
- Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động và NLĐ
DN cho thuê lao động là người trực tiếp tuyển dụng và ký HĐLĐ với
NLĐ. DN cho thuê lao động cũng chịu trách nhiệm trả lương và đảm bảo các
quyền lợi của NLĐ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quan hệ pháp luật
giữa DN cho thuê lao động và NLĐ là quan hệ pháp luật lao động. Trong đó,
DN cho thuê lao động là NSDLĐ và lao động được cho thuê lại là NLĐ.
Thông thường pháp luật lao động của các quốc gia đều coi hoạt động cho thuê

14


lao động là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì vậy, ngoài các điều
kiện chung của NSDLĐ thì DN cho thuê lao động còn phải đáp ứng thêm các
điều kiện riêng của DN cho thuê lao động.
- Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động với DN thuê lại lao động
Về thực chất, quan hệ của hai DN này là quan hệ pháp luật trong lĩnh
vực kinh doanh thương mại được hình thành nhằm thỏa mãn nhu cầu về

sản xuất, dịch vụ, lợi nhuận thông qua hợp đồng cho thuê lại lao động.
Trong khi điều kiện đặt ra đối với DN cho thuê lao động khá khắt khe thì
DN thuê lại lao động chỉ cần đáp ứng các điều kiện chung theo pháp luật về
kinh doanh thương mại.
Hợp đồng cho thuê lại lao động là căn cứ thể hiện sự ràng buộc quyền
lợi và nghĩa vụ giữa DN cho thuê lao động và DN thuê lại lao động. Ngoài
quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng, hợp đồng cho thuê lại lao
động còn liên quan đến quyền lợi của bên thứ ba là NLĐ cho thuê lại. Trong
đó quy định rõ DN cho thuê lao động phải đảm bảo cung ứng NLĐ đủ về số
lượng, đúng yêu cầu về chất lượng theo thỏa thuận còn DN thuê lại lao động
phải thanh toán đủ và đúng hạn phí dịch vụ thuê lao động, tiền lương, bảo
hiểm của NLĐ cho DN thuê lao động,…. DN thuê lại lao động có quyền quản
lý trực tiếp, điều hành NLĐ trong thời gian NLĐ làm việc tại DN mình. Khi
hợp đồng cho thuê lao động chấm dứt, DN thuê lại lao động sẽ hoàn trả số lao
động đã thuê cho DN cho thuê lao động.
- Quan hệ giữa DN thuê lại lao động và NLĐ được thuê lại
Như trên đã đề cập, cho thuê lại lao động luôn tồn tại ba loại chủ thể
với ba mối quan hệ. Quan hệ giữa DN cho thuê lao động với NLĐ dựa trên
HĐLĐ còn quan hệ giữa DN cho thuê lao động và DN thuê lao động dựa trên
hợp đồng cho thuê lại lao động. Vậy quan hệ giữa DN thuê lại lao động và
NLĐ được thuê lại dựa trên căn cứ nào? Thực tế pháp luật các quốc gia cũng

15


như Việt Nam đều không quy định cần có một hợp đồng riêng giữa DN thuê
lại lao động và NLĐ mà quan hệ của hai chủ thể này dựa trên hai hợp đồng:
HĐLĐ và hợp đồng cho thuê lại lao động. Vì vậy nội dung hai hợp đồng này
cần thống nhất với nhau, các bên cũng cần thỏa thuận về điều kiện lao động
của NLĐ, loại công việc, ngành nghề mà NLĐ sẽ làm, nơi làm việc, vị trí việc

làm của NLĐ, thời giờ làm việc thời giở nghỉ ngơi, các quyền và nghĩa vụ
khác của NLĐ được thuê lại, vấn đề sử dụng lao động, …
Quan hệ pháp luật giữa DN thuê lại lao động và NLĐ được thuê lại sẽ
chấm dứt trong các trường hợp: hợp đồng cho thuê lại lao động giữa DN cho
thuê lao động và DN thuê lại lao động chấm dứt; thời hạn cho thuê lại lao
động theo hợp đồng cho thuê lại lao động đã hết hạn; NLĐ được thuê lại bị
DN thuê lại lao động trả lại DN cho thuê khi không đáp ứng yêu cầu đã thỏa
thuận hoặc vi phạm kỷ luật lao động; DN thuê lại lao động chấm dứt hoạt
động; NLĐ được thuê lại chết,…
Thứ ba, cho thuê lại lao động là hoạt động có điều kiện áp dụng đối với
một số ngành nghề và đối tượng nhất định.
Hoạt động cho thuê lại lao động đem lại nhiều lợi ích cho các chủ thể
liên quan và cho xã hội nhưng bên cạnh đó, hoạt động này cũng tiềm ẩn
những rủi ro nhất định. Vì vậy, pháp luật hầu hết các quốc gia coi cho thuê lại
lao động là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Thông thường, pháp luật quy
định hai loại điều kiện với hoạt động này: điều kiện về nội dung và điều kiện
về thủ tục. Điều kiện về nội dung có thể bao gồm các điều kiện như: quy định
giới hạn công việc được phép cho thuê lại lao động, điều kiện về ký quỹ và
vốn pháp định, điều kiện về người đứng đầu DN. Điều kiện về thủ tục được
thể hiện thông qua quy định về thủ tục cấp giấy phép hoạt động
Ví dụ, ở Cộng hòa Liên Bang Đức, DN muốn tiến hành hoạt động cho
thuê lại lao động thì phải “xin phép” hoặc “khai báo”. Hoặc pháp luật Nhật

16


Bản lại quy định hoạt động phái cử lại lao động phải cần được cấp giấy phép
hoạt động. Còn ở Trung Quốc, điều kiện của DN cho thuê lao động là phải có
mức vốn tối thiểu 500.000 Nhân dân tệ. Việt Nam cũng coi cho thuê lao động
là ngành nghề kinh doanh có điều kiện với các điều kiện như: ký quỹ, đảm

bảo vốn pháp định, điều kiện về trụ sở, điều kiện cấp giấy phép hoạt động,….
Cho thuê lại lao động thường được áp dụng trong các công việc mang
tính chất tạm thời, mùa vụ; các công việc mang tính chất dịch vụ trong thời
gian ngắn như phiên dịch, nhân viên marketing, bán hàng, giúp việc gia
đình,... hay những công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Hoặc
do nguồn lao động thiếu hụt tạm thời như NLĐ của DN thuê lại lao động
đang trong thời gian nghỉ thai sản, bị tai nạn lao động,... để đảm bảo tiến độ
của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, pháp luật giới hạn cho thuê lại lao động ở một số ngành
nghề, công việc nhất định là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NLĐ- bên yếu thế hơn trong mối quan hệ ba bên. Việc giới hạn các ngành
nghề, công việc được cho thuê lại lao động cũng là hướng quy định chung của
hầu hết các quốc gia thừa nhận loại hình dịch vụ việc làm này.
1.1.3. Các hình thức cho thuê lại lao động
Cho thuê lại lao động là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, hoạt
động cho thuê lại ngày càng phát triển đa dạng với nhiều hình thức phong phú
tùy thuộc vào mục đích của DN hoạt động cho thuê lại lao động. Có DN cho
thuê lao động như một ngành nghề kinh doanh chính của DN nhằm mục đích
kiếm lời nhưng cũng có DN do không bố trí được việc làm cho NLĐ nên cho
thuê lại lao động để đảm bảo việc làm và thu nhập cho họ cho NLĐ. Chính vì
vậy, việc phân loại và xác định các trường hợp cho thuê lại lao động có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng luật cho phù hợp.
Cho thuê lao động là hoạt động tương đối phong phú và đa dạng nên tùy

17


thuộc vào tiêu chí phân loại mà có các hình thức cho thuê lại khác nhau. Song
nhìn chungcóthể chia cho thuê lại lao động làm hai trường hợp chính: cho
thuê lại lao động là hình thức hoạt động kinh doanh chủ yếu của DN và cho

thuê lại lao động không là hình thức hoạt động kinh doanh chủ yếu của DN.
- Cho thuê lại lao động là hình thức hoạt động kinh doanh chủ yếu
của DN
Cho thuê lại lao động là hình thức hoạt động kinh doanh chủ yếu của DN
là trường hợp DN tuyển dụng lao động không nhằm mục đích sử dụng mà nhằm
mục đích cho DN khác thuê lại để thu lợi nhuận. Điều này có nghĩa DN cho thuê
lao động thu lợi nhuận chính từ việc cho thuê lao động và đây là hoạt động kinh
doanh chủ yếu của DN. DN cho thuê lao động tuyển dụng và ký HĐLĐ với
NLĐ nhưng sau khi tuyển dụng, NLĐ được chuyển đến làm việc tại DN khác,
NLĐ vẫn duy trì quan hệ lao động với DN cho thuê lao động nhưng chịu sự
giám sát, quản lý, điều hành trực tiếp từ DN thuê lại lao động. Vì mục tiêu chính
của DN cho thuê lao động là tuyển dụng NLĐ để cho thuê lại nên các DN này
không cần phải có nhà xưởng, thiết bị và cũng không cần phải đầu tư cho những
hoạt động này mà vẫn có thể có một số lượng lớn lao động.
Dấu hiệu phân biệt hoạt động cho thuê lại lao động trong trường hợp này
với hoạt động môi giới, giới thiệu việc làm chính là HĐLĐ. Đối với hoạt động
cho thuê lao động, DN cho thuê lại lao động là người trực tiếp ký HĐLĐ với
NLĐ và chịu trách nhiệm đối với mọi quyền lợi của NLĐ, song NLĐ lại làm
việc tại DN thuê lại và chịu sự quản lý, điều hành của DN thuê lại. Còn hoạt
động môi giới, DN môi giới chỉ đóng vai trò trung gian, tìm kiếm và tuyển chọn
lao động trên cơ sở nhu cầu của DN sử dụng và NLĐ không ký HĐLĐ với DN
môi giới mà ký HĐLĐ với chính DN mà mình sẽ làm việc.
Lợi nhuận thu được từ cho thuê lại lao động là doanh thu chính của DN
cho thuê lại lao động nên quyền lợi của NLĐ có thể không được đảm bảo, sẽ

18


×