I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
V TH BCH HNG
TRáCH NHIệM HìNH Sự ĐốI VớI CáC TộI PHạM
Về CHứC Vụ TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
V TH BCH HNG
TRáCH NHIệM HìNH Sự ĐốI VớI CáC TộI PHạM
Về CHứC Vụ TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: TS. Lấ LAN CHI
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Bích Hằng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ ............... 8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các
tội phạm về chức vụ ......................................................................... 8
1.1.1.
Khái niệm trách nhiệm hình sự.......................................................... 8
1.1.2.
Khái niệm tội phạm về chức vụ và trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm về chức vụ .................................................................. 13
1.1.3.
Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ ....... 15
1.2.
Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
chức vụ ............................................................................................ 20
1.3.
Khái quát quá trình phát triển các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm chức vụ .................................................................................. 27
1.3.1.
Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ........................ 27
1.3.2.
Giai đoạn từ Cách ma ̣ng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ................................................ 32
1.4.
Những quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ tại một số quốc gia khu vực ASEAN.............. 38
Chương 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM
VỀ CHỨC VỤ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ......................................................... 42
2.1.
Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
trong Bộ luật hình sự năm 1999 ................................................... 42
2.1.1.
Khái quát các tội phạm về chức vụ trong Bộ luật hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) .................................................. 42
2.1.2.
Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ trong
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) ................. 44
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm
1999 về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức
vụ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ....................................................... 56
2.2.1.
Thực tiễn xét xử các tội phạm về chức vụ trên phạm vi cả
nước và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ................................................... 56
2.2.2.
Những tồn tại trong thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với các tội phạm về chức vụ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ .................. 63
2.2.3.
Nguyên nhân của những tồn tại trong thực tiễn áp dụng trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ trên cả nước
nói chung và tại Phú Thọ nói riêng.................................................. 67
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ
CHỨC VỤ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ....... 71
3.1.
Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm về chức vụ và một số vấn đề
cần tiếp tục hoàn thiện .................................................................. 71
3.1.1.
Các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm về chức vụ ......................................... 71
3.1.2.
Các định hướng tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình
sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
chức vụ ............................................................................................. 75
3.1.3.
Một số đề xuất tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm về chức vụ .................................................................. 78
3.2.
Một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng quy định về trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ .......................... 80
3.2.1.
Giải pháp về nâng cao năng lực, quyết tâm chính trị của Tòa
án và các cơ quan bảo vệ pháp luật ................................................. 80
3.2.2.
Giải pháp về đảm bảo điều kiện tài chính cho hoạt động tố
tụng, bảo đảm điều kiện làm việc cho cán bộ tư pháp .................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
HĐXX:
Hội đồng xét xử
TAND:
Tòa án nhân dân
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Thống kê việc quy định hình phạt chính trong các tội
phạm về chức vụ
50
Bảng 2.2. Thống kê việc quy định hình phạt bổ sung trong các tội
phạm về chức vụ
52
Bảng 2.3. Tình hình xét xử các tội phạm về chức vụ giai đoạn 2011
– 2015 trên phạm vi cả nước
57
Bảng 2.4. Số lượng án chức vụ trong tổng số án được xét xét xử
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ 2011 đến 2015
61
Bảng 2.5. Các hình phạt chính được áp dụng đối với tội phạm về
chức vụ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2011 đến 2015
62
Bảng 2.6. Các hình phạt bổ sung được áp dụng đối với tội phạm về
chức vụ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2011 đến 2015
62
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Các tội phạm về chức vụ là các hành vi lệch chuẩn phát sinh từ
những đối tượng là người có chức vụ, quyền hạn nhất định, là biểu hiện tha
hoá của một bộ phận các quan chức được giao các thẩm quyền nhất định về
quản lý Nhà nước đối với những ngành, lĩnh vực, địa phương nhất định,
ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động của bộ máy nhà nước, gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, xã hội, xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những người phạm tội này cần
phải bị áp dụng các loại, mức trách nhiệm hình sự thích đáng, như một sự
trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước, một sự răn đe cần thiết để có thể
ngăn chặn, khắc phục và giảm thiểu đến mức thấp nhất hậu quả xảy ra hoặc
đe dọa sẽ xảy ra, đồng thời làm trong sạch bộ máy nhà nước, lấy lại uy tín
của nhà nước đối với xã hội.
Trong những năm vừa qua do tác động của nhiều nguyên nhân, tình hình
tội phạm nói chung, tình hình tội phạm về chức vụ nói riêng diễn ra tương đối
nghiêm trọng và phức tạp, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính
trị, xã hội. Theo báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính
phủ, trong năm 2015, mặc dù các tội phạm về tham nhũng có xu hướng giảm
theo xu hướng của tình hình tội phạm (tổng thể), nhưng giá trị tài sản thiệt hại,
thất thoát gây ra cho Nhà nước, cho xã hội lại có xu hướng tăng. Điều này một
phần xuất phát từ hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm về chức vụ chưa
cao, “một bộ phận” cán bộ, công chức bị tha hóa, biến chất có xu hướng lan
rộng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi hơn. Mặt khác, từ phương diện pháp
lý, thực trạng trên còn có phần do pháp luật hình sự hiện hành còn tồn tại
những hạn chế nhất định trong các quy định đối với một số tội phạm về chức
1
vụ, dẫn đến sự chưa thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Quy định
về trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội phạm này còn nhiều bất cập. Mức hình
phạt chưa thật sự nghiêm khắc và nhân văn, chưa đủ sức răn đe; hình phạt tiền,
biện pháp tịch thu tài sản… còn hạn chế dẫn tới khó thi hành, khó thu hồi cho
ngân sách Nhà nước, còn tồn tại nhiều bất cập về kỹ thuật lập pháp dẫn tới việc
chưa phân hóa hợp lý trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp phạm tội.
Quá trình áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự cũng thể hiện những
nhận thức chưa đúng về miễn trách nhiệm hình sự, về áp dụng án treo… dẫn
tới bức xúc trong dư luận xã hội. Những vấn đề trên đòi hỏi khoa học pháp lý
hình sự phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện lý luận, từ đó đưa ra các cơ sở
khoa học để cơ quan lập pháp tội phạm hóa kịp thời, hợp lý các vi phạm pháp
luật của người có chức vụ và thiết kế các dạng, mức trách nhiệm hình sự tương
ứng với tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đủ sức răn đe, giáo dục và
phòng ngừa tội phạm.
Vì vậy, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ nói chung và trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ, trong sự so sánh với cả nước, có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn
thiện lý luận và lập pháp hình sự. Do đó, học viên lựa chọn vấn đề: “Trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ trong luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)” làm đề tài luận văn thạc
sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ mặc dù không
phải là vấn đề mới, nhưng vẫn mang tính thời sự và ít nhiều được nghiên cứu
trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Dưới góc độ các công trình nghiên cứu
như luận án, luận văn, sách chuyên khảo, giáo trình, tạp chí đã được công bố
mà học viên tiếp cận được thì có thể đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan
đến đề tài như sau:
2
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về trách nhiệm hình sự và trách
nhiệm hình sự đối với một số nhóm tội, tội phạm cụ thể trong BLHS, điển
hình là:
Luận án tiến sĩ luật học "Chế định trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam" của Phạm Mạnh Hùng (2004) đã đưa ra khái niệm trách nhiệm
hình sự, mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự với miễn trách nhiệm hình sự;
cơ sở của trách nhiệm hình sự...; luận án tiến sĩ luật học "Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam" của
Trịnh Tiến Việt (2008) nghiên cứu những vấn đề lý luận về miễn trách nhiệm
hình sự; các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam và
thực tiễn áp dụng...
Luận án tiến sĩ luật học "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu" của Nguyễn Ngọc Chí (2000), luận án tiến sĩ luật học "Trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm về ma túy" của Phạm Minh Tuyên (2006), luận
án tiến sĩ luật học "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Văn Nam (2008),
luận án tiến sĩ luật học "Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi
trường" của Dương Thanh An (2011)…: các luận án này đã đưa ra khái niệm,
đặc điểm chính sách và cơ sở trách nhiệm hình sự, các hình thức trách nhiệm
hình sự đối với các nhóm tội phạm tương ứng.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu tội phạm về chức vụ nói chung và
một số tội phạm cụ thể trong nhóm tội phạm này nói riêng, bao gồm:
(i) Các luận án, luận văn: Luận án tiến sĩ luật học “Các Tội phạm về
tham nhũng trong Luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn Đạt (2012); Luận
văn thạc sĩ luật học “Tội tham ô tài sản trong bộ luật hình sự Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Quang Sơn (2007);
3
(ii) Bài nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành: “Trách nhiệm hình
sự đối với các tội phạm về chức vụ từ những quy định của pháp luật hình sự
hiện hành đến thực tiễn áp dụng” của Nguyễn Ngọc Tính (Tạp chí Nghề
Luật, số 1/2016, tr. 31-37); “Một số ý kiến góp ý đối với phần các tội phạm về
chức vụ trong Dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)” của Hoàng Đình Thanh
(Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2015, tr. 55 – 60); “Một số ý kiến đóng
góp về chương XXIII các tội phạm về chức vụ trong dự thảo Bộ Luật hình sự
(sửa đổi)” của Trương Thế Nguyễn, Tạp chí Thanh tra, số 9/2015, tr. 35-36);
“Góp phần hoàn thiện một số quy định đối với các tội phạm về chức vụ trong
Bộ luật hình sự năm 1999” của Nguyễn Ngọc Tính (Tạp chí Kiểm sát, số
22/2015, tr. 23-29, 42); “Các tội đưa và nhận hối lộ của Luật hình sự Hoa Kỳ
trong sự so sánh với Luật hình sự Việt Nam” của Trần Hữu Tráng, (Tạp chí
Luật học, số 12/2010, tr.51-60)…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã góp phần làm rõ
được các vấn đề về cấu thành tội phạm các tội phạm về chức vụ, khát quát
được một số nét lịch sử lập pháp và thực tiễn áp dụng trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, các công trình này chưa làm nổi bật được các vấn đề liên quan đến
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, với tư cách là hậu quả
pháp lý bất lợi áp dụng đối với người có hành vi phạm tội thuộc nhóm các tội
phạm về chức vụ… từ đó, chưa đánh giá các quy định của BLHS năm 1999
về vấn đề này, phát hiện tồn tại, bất cập, qua đó kiến giải hoàn thiện pháp luật
và các vấn đề hữu quan trong thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn những vấn đề lý
luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, trên
cơ sở đó đề xuất những giải pháp cho việc tiếp tục hoàn thiện và bảo đảm áp
4
dụng quy định của BLHS Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
1) Làm rõ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ;
2) Phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
chức vụ;
3) Hệ thống hóa lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay và rút ra những so sánh, đánh giá;
4) Nghiên cứu quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội về chức
vụ trong BLHS một số nước ASEAN và rút ra những nhận xét, kinh nghiệm
lập pháp đối với Việt Nam;
5) Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử và thực tiễn áp
dụng quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ (2011
– 2015) trên phạm vi cả nước và địa bàn tỉnh Phú Thọ, để trên cơ sở đó chỉ ra
những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản;
6) Đề xuất tiếp tục sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS Việt Nam năm
2015 đối với các tội phạm về chức vụ và trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ, cũng như các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy
định tương ứng đó.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề trách nhiệm hình sự đối
với các tội phạm về chức vụ.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về chức vụ, đặc biệt qua thực tiễn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn 5
năm từ 2011-2015.
Luận văn cũng tìm hiểu, so sánh pháp luật nước ngoài nhưng chỉ giới
hạn trong phạm vi một số nước ASEAN để so sánh, tìm ra những điểm
tương đồng và những điểm khác biệt giữa pháp luật nước ta và các trong
khu vực, từ đó, đề xuất những vấn đề cần điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn
nữa các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm về chức vụ.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng Mác – Lê nin, trên cơ sở đó, sử dụng những phương pháp
nghiên cứu truyền thống như phân tích, so sánh, thống kê xã hội học nhằm
làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp so sánh, đối chiếu với các
quy định về vấn đề tương tự trong pháp luật Việt Nam với pháp luật một số
nước trên thế giới cũng được sử dụng, từ đó phân tích, tổng hợp và đưa ra
kiến nghị để hoàn thiện những quy định của BLHS đối vấn để trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm về chức vụ.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp nhất định về lý luận và thực tiễn qua một
số điểm mới sau:
- Nêu và phân tích khái niệm, đặc điểm, cơ sở của trách nhiệm hình sự
đối với các tội phạm về chức vụ;
- Khái quát quá trình phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ và so sánh với
các tội phạm về chức vụ tại một số quốc gia trong khu vực.
6
- Phân tích những bất cập còn tồn tại trong BLHS năm 1999, năm 2015
và các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các
tội về chức vụ.
- Phân tích các vấn đề thực tiễn liên quan đến áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với các tội phạm về chức vụ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Đưa ra giải pháp hoàn thiện thiện quy định của pháp luật hình sự cũng
như bảo đảm cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự các tội phạm về chức vụ.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ;
Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ trong
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn áp dụng;
Chương 3: Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ và một số giải pháp
bảo đảm áp dụng.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trong khoa học xã hội, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu là nghĩa vụ
tất yếu phải hoàn thành hoặc việc gánh chịu hậu quả của hành vi gây ra hay vì
một nguyên nhân nào đó. Cụ thể, theo Từ điển tiếng Việt, “trách nhiệm” được
hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất trách nhiệm là “phần việc được giao cho
hoặc coi như được giao cho, phải đảm bảo làm tròn, nếu kết quả không tốt thì
phải gánh chịu phần hậu quả” hay còn được hiểu là nghĩa vụ, bổn phận của một
người trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước. Nghĩa thứ hai, trách
nhiệm là “sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn,
nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả” hay có thể hiểu trách nhiệm là hậu
quả bất lợi mà một người phải gánh chịu trước người khác, trước xã hội hoặc
Nhà nước do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó [15, tr.102].
Trách nhiệm pháp lý, trong đó có trách nhiệm hình sự, được dùng theo nghĩa
thứ hai. Trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà
nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật,
trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những
biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định ở phần chế tài trong các quy
định pháp luật và bao gồm bốn loại: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm vật chất và trách nhiệm kỷ luật nhà nước. Trong đó, trách
nhiệm hình sự là hình thức trách nhiệm mà ở đó người phạm tội sẽ phải chịu
hậu quả pháp lý bất lợi với mức độ nghiêm khắc nhất là hình phạt. Dưới góc
8
độ khoa học pháp lý, khái niệm trách nhiệm hình sự được các nhà nghiên cứu
tiếp cận dưới một số góc độ sau:
Theo GS.TSKH. Đào Trí Úc:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể
hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình trước nhà nước [45, tr.41].
Theo GS. TS. Đỗ Ngọc Quang:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách
nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án
áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
mà người đó đã thực hiện [22, tr.14].
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS. Lê Thị Sơn có quan điểm:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm
nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình
sự, chịu sự kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự
(hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích [29, tr.126].
GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội
một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự
quy định [5, tr. 122].
TS. Trịnh Tiến Việt có quan điểm:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý và là
hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện
bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước do BLHS quy định đối với người phạm tội [49, tr.224].
9
Như vậy, về bản chất, các quan điểm nói trên đều thống nhất khẳng
định: (i) Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý; (ii) Trách
nhiệm hình sự gắn liền với việc thực hiện hành vi phạm tội và (iii) Trách
nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã
gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước nhà nước.
Bên cạnh đó, để hiểu đúng thuật ngữ trách nhiệm hình sự, từ đó làm cơ
sở cho việc nhận thức đúng về trách nhiệm hình sự đối với một nhóm tội cụ
thể, trong đó có trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, cần
phân biệt khái niệm này với khái niệm nghĩa vụ pháp lý hình sự. Về bản chất,
nghĩa vụ pháp lý hình sự và trách nhiệm pháp lý hình sự là khác nhau. Khi đề
cập đến nghĩa vụ pháp lý của một người là đề cập đến khả năng người đó có
thể phải chịu trách nhiệm pháp lý, còn khi nói đến trách nhiệm pháp lý hình
sự của một người chính là nói đến việc buộc phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý
của người đó. Trách nhiệm hình sự, với tính cách là một dạng của trách nhiệm
pháp lý, không phải là nghĩa vụ mà một người có thể phải chịu hậu quả pháp
lý bất lợi do việc người đó thực hiện tội phạm mà chính là việc phải chịu hậu
quả pháp lý bất lợi của người phạm tội trước Nhà nước trong tình trạng bị
cưỡng chế do việc người đó đã thực hiện tội phạm. Thời điểm người phạm tội
thực hiện tội phạm là thời điểm bắt đầu phát sinh mối quan hệ pháp luật hình
sự giữa Nhà nước và người phạm tội. Từ khi đó, Nhà nước có quyền áp dụng
các biện pháp cưỡng chế cần thiết, có quyền buộc người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự. Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu các biện pháp
cưỡng chế, chịu trách nhiệm hình sự do Nhà nước áp dụng. Nhưng nghĩa vụ
phải chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội sẽ không được thực hiện
trên thực tế nếu tội phạm không bị phát hiện, tội phạm đã hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật hình sự. Người phạm tội có thể phải chịu trách nhiệm
10
hình sự và có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Giống với người phải chịu
trách nhiệm hình sự, người được miễn trách nhiệm hình sự là người đã thực
hiện tội phạm, nghĩa là đã thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của một
cấu thành tội phạm được luật hình sự quy định. Từ thời điểm thực hiện tội
phạm, người phạm tội có nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi là trách
nhiệm hình sự, nhưng vì có những căn cứ để được miễn trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật hình sự, người đó lại được miễn trách nhiệm hình sự.
Đối với người được miễn trách nhiệm hình sự, nghĩa vụ phải chịu hậu quả bất
lợi đã không trở thành hậu quả bất lợi thực tế mà người đó phải chịu. Như
vậy, trách nhiệm hình sự chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội nhưng
không có nghĩa người phạm tội nào cũng đều phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong nhiều trường hợp, theo quy định của pháp luật hình sự, người phạm tội
không bị buộc phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, không thể đồng nhất
nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm hình sự với trách nhiệm hình sự mà một người
phải chịu trên thực tế do việc thực hiện tội phạm.
Mặt khác, trong các loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm pháp lý hình
sự là loại trách nhiệm pháp lý mà ở đó người phạm tội phải chịu hậu quả pháp
lý bất lợi, nghiêm khắc nhất, khi so sánh với các loại trách nhiệm pháp lý
khác, bao gồm: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm vật chất và trách nhiệm
kỷ luật nhà nước, thì giữa chúng có những điểm giống và khác nhau. Cụ thể:
Trách nhiệm hình sự giống với các dạng trách nhiệm pháp lý khác ở chỗ
chúng đều là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi vi phạm một hoặc
nhiều quy định của ngành luật tương ứng; được xác định bằng một trình tự
nhất định do ngành luật tương ứng quy định; được đảm bảo thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trong một văn bản của cơ quan tương ứng
có thẩm quyền nhân danh nhà nước; chỉ do nhà nước mà đại diện là cơ quan
(người) tương ứng có thẩm quyền áp dụng đối với người bị coi là có lỗi và có
11
năng lực chịu trách nhiệm pháp lý được quy định trong ngành luật tương ứng;
có các mức độ nặng hoặc nhẹ khác nhau tương ứng với tính chất và mức độ vi
phạm cũng như các tình tiết cụ thể của vụ việc và nhân thân người vi phạm.
Sự khác nhau của trách nhiệm hình sự với các dạng trách nhiệm pháp
lý khác: Thứ nhất, về cơ sở phát sinh: trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh khi có
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm;
trong khi đó, các dạng trách nhiệm pháp lý khác phát sinh khi có việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm đến một hoặc nhiều quy định của
ngành luật tương ứng. Thứ hai, về hậu quả pháp lý của việc áp dụng trách
nhiệm pháp lý tương ứng: đối với trách nhiệm hình sự, chủ thể của hành vi vi
phạm bị xử lý bằng chế tài pháp lý hình sự khác nhau và còn phải mang án
tích trong một thời gian nhất định (nếu bị áp dụng hình phạt); ở các dạng trách
nhiệm pháp lý khác, chủ thể của hành vi vi phạm bị xử lý bằng một hoặc
nhiều chế tài pháp lý khác nhau do ngành luật tương ứng quy định và một số
hạn chế nhất định về quyền. Thứ ba, mức độ nghiêm khắc của dạng trách
nhiệm pháp lý tương ứng: trách nhiệm hình sự là nghiêm khắc nhất so với tất
cả các dạng trách nhiệm pháp lý khác vì tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm bao giờ cũng cao hơn cả; các dạng pháp lý khác thông thường ít nghiêm
khắc hơn trách nhiệm hình sự vì tính nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp
luật phi hình sự bao giờ cũng nhỏ hơn so với tội phạm. Thứ tư, về chủ thể có
thẩm quyền áp dụng: chỉ có Nhà nước mà đại diện là cơ quan tư pháp hình sự
có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể; các dạng trách
nhiệm pháp lý khác do nhà nước mà đại diện là cơ quan có thẩm quyền được
quy định trong từng ngành luật tương ứng. Thứ năm, về đối tượng bị áp dụng
dạng trách nhiệm pháp lý tương ứng: trách nhiệm hình sự chủ yếu áp dụng
đối với thể nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm, pháp luật của một số quốc gia cũng quy định pháp nhân là đối
12
tượng bị áp dụng trách nhiệm hình sự nhưng chỉ với một số loại tội danh nhất
định; với các dạng trách nhiệm pháp lý khác thì ngoài thể nhân còn có thể là
pháp nhân, có năng lực và có lỗi trong việc thực hiện hành vi vi phạm luật.
Thứ sáu, về trình tự xác định và văn bản mà trong đó thực hiện dạng trách
nhiệm pháp lý tương ứng: quá trình áp dụng trách nhiệm hình sự được xác
định theo các thủ tục luật định của Bộ luật trách nhiệm hình sự và chủ yếu
trong các bản án kết tội áp dụng hình phạt; các dạng trách nhiệm pháp lý khác
được xác định tùy theo các quy định của ngành luật tương ứng và phụ thuộc
vào từng trường hợp cụ thể là văn bản của cơ quan (người) có thẩm quyền xử
lý hành vi vi phạm của từng ngành luật phi hình sự.
Từ việc làm rõ một số vấn đề lý luận nêu trên đó có thể hiểu “Trách nhiệm
hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, mà người phạm tội phải gánh chịu hậu
quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước, do người đó thực hiện tội phạm, được thể
hiện bằng việc các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng hình phạt và
một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định”.
1.1.2. Khái niệm tội phạm về chức vụ và trách nhiệm hình sự đối với
tội phạm về chức vụ
Nói một cách khái quát thì các tội phạm về chức vụ là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do những người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Các
tội phạm về chức vụ trực tiếp xâm hại sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội, cũng có thể xâm hại đến quan hệ sở hữu Nhà nước
và xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân. Trong đó,
hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức năng,
nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm thực
hiện chức năng và mục đích đã đề ra. Có thể nói, những hoạt động đúng đắn
13
của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do các tội phạm về chức vụ gây ra - chính
là những quy định của pháp luật hoặc quy chế, điều lệ buộc phải làm mà
không làm, cấm không được làm thì lại làm. Trong nhóm tội phạm về chức
vụ, những hành vi do người có chức vụ (là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng
lương) được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất
định trong khi thực hiện nhiệm vụ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để
vụ lợi là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội và cần nghiêm trị bằng những hình
thức và mức độ trách nhiệm hình sự thích đáng.
Cũng giống như các tội phạm khác, người thực hiện các hành vi phạm
tội thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ cũng phải gánh chịu hậu quả pháp lý
bất lợi đó là bị áp dụng các hình thức của trách nhiệm hình sự như hình phạt,
biện pháp tư pháp, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo, miễn
chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích… tương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như khi
có những căn cứ luật định.
Từ các phân tích tội phạm về chức vụ và khái niệm trách nhiệm hình sự
như trên, chúng tôi đưa ra khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về chức vụ như sau: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ là
một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội
phải gánh chịu trước Nhà nước, do việc người đó thực hiện tội phạm xâm
phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, được thể hiện bằng việc
các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng hình phạt và một số biện
pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định”.
Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ được thể hiện
trong sự tác động mang tính cưỡng chế của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự nhất định theo quy định của
14
BLHS. Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ được quy định
trong BLHS là căn cứ pháp lý quan trọng để áp dụng trong xử lý các tội phạm
về chức vụ, với các ý nghĩa như sau: Thứ nhất, tạo cơ sở cho việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, thực hiện nguyên tắc
"chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự". Thứ hai, bảo đảm pháp chế và xử lý thống nhất, công
minh nghiêm minh, đúng pháp luật các tội phạm về chức vụ. Thứ ba, bảo đảm
nguyên tắc công bằng, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không
thoát khỏi trách nhiệm và sự tương xứng của trách nhiệm đối với hành vi
phạm tội, dù người thực hiện hành vi phạm tội có quyền cao, chức trọng đến
đâu, thành tích, cống hiến trước đó to lớn đến đâu. Thứ tư, răn đe những
người có chức vụ có ý định phạm tội, những người có chức vụ “chưa bị lộ”
trong việc từ bỏ ý định phạm tội, cổ vũ, động viên nhân dân tin tưởng vào sự
nghiêm minh, công bằng của pháp luật để tố giác tham nhũng, đấu tranh
phòng chống tội phạm về chức vụ.
1.1.3. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
Là một dạng của trách nhiệm pháp lý nói chung, trách nhiệm hình sự
nói riêng, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ có những đặc
điểm chung của trách nhiệm hình sự. Cũng như trách nhiệm hình sự tương
ứng đối với các loại tội phạm khác, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về chức vụ mang đặc điểm của cái riêng trong cái chung như sau:
1.1.3.1. Đặc điểm chung
Thứ nhất, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ là hậu
quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm về chức vụ. Một người khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự, khi đó trách
nhiệm hình sự sẽ phát sinh đối với họ qua tiến trình truy cứu trách nhiệm hình
sự. Nói cách khác khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
15
coi là tội phạm, thì đồng thời trách nhiệm hình sự được đặt ra để giải quyết
hậu quả của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người thực hiện
tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự, có thể đưa đến hậu quả bất lợi và
nghiêm trọng - khi hình phạt được áp dụng đối với họ, có thể họ bị hạn chế
hoặc tước bỏ quyền, lợi ích, thậm chí có thể bị tước bỏ cả tính mạng.
Thứ hai, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ luôn
luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên
với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là
Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội. Nhà nước có quyền truy tố, xét xử
và buộc người phạm tội phải chịu hình phạt nhất định tương xứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Thứ ba, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ được xác
định bằng một trình tự đặc biệt bởi các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền, việc thực hiện trình tự đó phải do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Khi một công dân thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì chỉ có một số
cơ quan được pháp luật quy định rõ ràng với các chức năng và nhiệm vụ của
mình mới có quyền tiến hành những thủ tục nhất định để áp dụng trách nhiệm
hình sự. Cụ thể các cơ quan này được Bộ luật tố tụng quy định rất cụ thể - Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Bản thân các cơ quan này cũng không
phải là có "siêu quyền", mà phụ thuộc vào từng giai đoạn giải quyết vụ án
hình sự có những quyền tương ứng, bản thân các cơ quan này cũng có sự phụ
thuộc, kiểm chế, giám sát nhau.
Thứ tư, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ được thể
hiện chủ yếu trong bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, bằng
việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước do luật hình sự quy định. Đặc điểm này của trách nhiệm hình
sự đã được Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự khẳng định: không ai bị coi
16
là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
1.1.3.2. Đặc điểm riêng
Đối với tội phạm về chức vụ, trách nhiệm hình sự có các đặc điểm
riêng khá rõ nét sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ thường
thể hiện chính sách hình sự nghiêm trị, kiên quyết đấu tranh với loại tội phạm
làm tha hóa, mục rỗng bộ máy Nhà nước. Trong số các loại hình phạt, hình
phạt phổ biến nhất là hình phạt tù có thời hạn - hình phạt tước quyền tự do
của người phạm tội, buộc họ phải cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất
định, cá biệt có tội phạm phải áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình. Đây
là những điểm chung về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm về chức vụ
trong pháp luật Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới.
Thứ hai, việc phân hóa các loại hình phạt chính trong hệ thống hình
phạt có sự phân biệt giữa các tội phạm tham nhũng với các tội phạm về chức
vụ khác. Cụ thể:
- Đối với các tội phạm về tham nhũng, một số tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng như tội Tham ô tài sản, tội Nhận hối lộ hình phạt chính được quy định
là tù có thời hạn, tù chung thân, thậm chí tử hình. Trong BLHS năm 1999,
hình phạt tù có thời hạn ở khung cơ bản có mức khởi điểm thường tối thiểu là
một năm, khung tăng nặng có mức tối đa là hai mươi năm. Hình phạt chính
nhẹ nhất được áp dụng là cải tạo không giam giữ. Hình phạt trong khung cơ
bản thường không thiết kế theo phương thức lựa chọn giữa hình phạt nhẹ hơn
(như cải tạo không giam giữ) và tù có thời hạn, mà thường thiết kế theo
phương thức bắt buộc (tù có thời hạn).
- Đối với các tội phạm về chức vụ khác, không cần thiết áp dụng các
loại hình phạt chính đặc biệt nghiêm khắc như tù chung thân, tử hình. Hình
17