Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 72 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

BùI LAN ANH

HìNH Sự HóA TRáCH NHIệM CủA PHáP NHÂN Đối
với các tội phạm về chức vụ trong luật hình
sự việt nam

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2015


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

bùi lan anh

Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối
với các tội phạm về chức vụ trong luật hình
sự việt nam
Chuyên ngành

: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 60 38 01 04

luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Đào Lệ Thu

Hà nội - 2015


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Bộ luật hình sự(BLHS) là một đạo luật lớn, quan trọng, có tính đặc thù
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Sau 15 năm thi hành, BLHS năm 1999 đã
có những đóng góp quan trọng, thể hiện khá toàn diện chính sách hình sự của
Đảng, Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, trước yêu cầu thượng tôn pháp luật, đẩy mạnh cải cách tư pháp,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là để phù
hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013 thì việc phải sửa đổi, bổ sung BLHS
năm 1999 là rất cần thiết.
Năm định hướng lớn trong sửa đổi BLHS lần này là thể chế hóa chủ
trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân; thể chế hóa về mặt hình
sự chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy sự phát
triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường hợp tác
quốc tế; hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự; đổi mới tư duy về tội phạm và
hình phạt, về cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS), khắc phục những hạn chế
trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình
hình mới. Trong đó, đáng chú ý là sẽ sửa đổi theo hướng hình sự hóa trách
nhiệm của pháp nhân.
TNHS của pháp nhân không phải là vấn đề mới mà đây là vấn đề đã

được ghi nhận trong pháp luật hình sự quốc gia cũng như các văn bản pháp
luật quốc tế. Xét ở góc độ pháp luật quốc gia, vấn đề TNHS của pháp nhân đã
được quy định trong pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới, như Anh,


Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ,
Thụy Sĩ, Tây Ban Nha và gần đây, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu như Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia, v.v.... Trong khu
vực Châu Á, một số quốc gia cũng đã ghi nhận TNHS của pháp nhân như
Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Trung Quốc… Dưới góc độ pháp luật quốc
tế, TNHS pháp nhân đã được khẳng định và nhấn mạnh trong nhiều Công ước
của Liên Hợp quốcnhư Công ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố, Công
ước quốc về chống tham nhũng, Công ước về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia…
Ở Việt Nam, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được đưa ra thảo luận và
nghiên cứu chính thức trong quá trình xây dựng BLHS năm 1999. Tuy nhiên,
tại thời điểm này, vấn đề TNHS của pháp nhân chưa được nghiên cứu sâu về
mặt lý luận và thực tiễn, do vậy, vấn đề này vẫn tiếp tục được nghiên cứu.
Năm 2009, khi sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, vấn đề TNHS của
pháp nhân một lần nữa được đưa ra nghiên cứu, thảo luận để quy định bổ
sung vào BLHS. Nhưng do đây là lần sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS, chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung một số vấn đề thật sự cấp bách nhất,
bức xúc nhất của thực tiễn tại thời điểm đó để tháo gỡ một số khó khăn,
vướng mắc lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạmnên vấn đề
TNHS của pháp nhân được thống nhất để lại tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng cả
về mặt lý luận và thực tiễn cho lần sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện BLHS.
Đến thời điểm hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đã đến lúc cần
bổ sung chế định TNHS của pháp nhân để xử lý đối với các trường hợp tổ
chức kinh tế (pháp nhân) vì chạy theo lợi ích cục bộ, đã thực hiện nhiều hành
vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế,

gây hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội, cho nền kinh tế nhưng chỉ xử lý
hình sự đối với cá nhân mà trong nhiều trường hợp việc xác định trách nhiệm


cá nhân là rất khó khăn. Trong khi đó, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp chỉ bị xử
lý bằng các chế tài hành chính, kinh tế, dân sự, không đảm bảo tính răn đe,
phòng ngừa. Vì vậy, cần nghiên cứu khả năng bổ sung quy định TNHS của
pháp nhân vào BLHS.
Trong những năm gần đây ở nước ta thì các tội phạm về chức vụ cũng
có những diễn biến phức tạp. Để khắc phục và đẩy lùi tình trạng tham nhũng
đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, nâng
cao ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị,
các cán bộ, công chức và mỗi công dân về công tác phòng, chống tham
nhũng; để đấu tranh chống những biểu biện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ,
công chức cũng như những hành vi tiếp tay cho tiêu cực là điều kiện tiên
quyết để duy trì sự trong sạch, vững mạnh của bộ máy nhà nước; để đảm bảo
hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, Nhà nước Việt Nam thì việc
bổ sung quy định TNHS của pháp nhân đối với một số loại tội trong đó có các
tội phạm về chức vụ là cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn các pháp nhân ngày càng thực hiện những hành
vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm và vì vấn đề TNHS của pháp nhân là
một vấn đề không mới và đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề này trên
nhiều bình diện chung nên tác giả luận văn quyết định lựa chọn nghiên cứu
vấn đề đối với một nhóm tội phạm cụ thể. Và đề tài mà tác giả lựa chọn để
nghiên cứu là: “Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội
phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói việc nghiên cứu vấn đề TNHS của pháp nhân trong thời gian
gần đây đã được các tác giả đặc biệt quan tâm. Cho đến nay đã có nhiều công
trình khoa học, các bài viết đề cập và nghiên cứu đến vấn đề TNHS của pháp

nhân.


Năm 2011, Tiến sỹ Cao Thị Oanh đã chủ nhiệm công trình nghiên cứu
khoa học cấp bộ với đề tài “Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc áp dụng TNHS đối với tổ chức” (Viện khoa học pháp lý); trong công
trình nghiên cứu này có một số bài viết của các tác giả như: “Quy định về
TNHS của tổ chức ở Trung Quốc” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà; “TNHS của
pháp nhân tại Mỹ” của tác giả Nguyễn Khắc Hải; “Cơ sở thực tiễn của việc
thiết lập chế định TNHS đơn vị pháp nhân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Anh Tuấn; “TNHS của pháp nhân trong luật hình sự một số nước
theo truyền thống Common Law”; “TNHS của pháp nhân theo luật hình sự
một số nước theo truyền thống châu Âu lục địa” của tác giả Trịnh Quốc
Toản…
Một số bài viết về vấn đề TNHS của pháp nhân được đăng trên các báo,
tạp chí như bài viết: “TNHS của pháp nhân theo pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới và lựa chọn cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tất Thành
trên tạp chí Tòa án nhân dân số 9/2013; “TNHS của pháp nhân theo luật hình
sự một số nước trên thế giới và sự cần thiết phải quy định TNHS pháp nhân
trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Lực trên tạp chí Khoa
học pháp lý; “TNHS của pháp nhân và mô hình lý luận của nó trong luật hình
sự Việt Nam tương lai” của tác giả Trịnh Quốc Toản trên tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 5/2006; “Vấn đề TNHS của pháp nhân”của tác giả Nguyễn Quý
Công trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2010, “Đề xuất, kiến nghị, sửa
đổi, bổ sung một số quy định tại phần chung của BLHS” của tác giả Dương
Văn Thắng trên tạp chí Kiểm sát số 16/2014…
Ngoài ra còn có một số cuốn sách tham khảo cũng nghiên cứu vấn đề
này như cuốn:”TNHS của pháp nhân trong Pháp luật hình sự” của tác giả
Trịnh Quốc Toản - nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật; “chuyên đề về
Luật hình sự (kỷ yếu hội thảo khoa học do nhà pháp luật Việt – Pháp phối hợp



với vụ pháp luật hình sự - hành chính, tổ chức từ ngày 5-7 tháng 10 năm 1995
tại Hà Nội)” – Bộ tư pháp, viện nghiên cứu khoa học pháp lý; “Báo cáo đánh
giá quốc gia của Việt Nam (2012), “Đánh giá thực hiện Công ước Liên hợp
quốc về Chống tham nhũng của Việt Nam trong chu trình đánh giá 2011 –
2012 đối với các Điều từ 15-42, chương III “Hình sự hóa và thực thi pháp
luật” và các Điều từ 44-50, chương IV “Hợp tác quốc tế” do Li-băng và Italia
thực hiện”” – nhà xuất bản Lao động xã hội (2012); Luận văn thạc sĩ của tác
giả Nguyễn Hải Anh với đề tài “TNHS của pháp nhân – những vẫn đề lý luận
và thực tiễn” (2010)…
Những công trình nghiên cứu khoa học, những bài viết nói trên đã giới
thiệu được các quy định về TNHS pháp nhân ở một số nước, phân tích, so
sánh các quy định về TNHS của pháp nhân trong pháp luật hình sự một số
nước đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới để từ đó đưa
ra những quan điểm về việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân tại Việt
Nam. Tuy nhiên mỗi công trình chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định
nhưng chủ yếu là nghiên cứu vấn đề lý luận TNHS của pháp nhân mà chưa có
một công trình nghiên cứu nào tập trung phân tích và chỉ ra sự cần thiết phải
quy định TNHS của pháp nhân đối với nhóm tội phạm cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra những ý kiến đề xuất để hoàn thiện quy
định của luật hình sự Việt Nam về các tội phạm chức vụ, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Với mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
Thứ nhất: Đưa ra các quan điểm, cơ sở quy định TNHS của pháp nhân;
những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của các tội phạm về chức vụ để từ đó



chỉ ra sự cần thiết việc hình sự hóa TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm
về chức vụ.
Thứ hai: Trình bày nội dung của một số công ước quốc tế mà Việt Nam
là quốc gia thành viên và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới có quy
định vấn đề TNHS của pháp nhân nói chung và TNHS của pháp nhân đối với
các tội phạm tham nhũng nói riêng để từ đó tổng kết kinh nghiệm cho quá
trình lập pháp của Việt Nam.
Cuối cùng:Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của luật cũng như những
vướng mắc trong quá trình áp dụng luật hình sự Việt Nam đồng thời nghiên
cứu lý luận TNHS của pháp nhân, kinh nghiệm lập pháp và kinh nghiệm áp
dụng luật hình sự về vấn đề TNHS của pháp nhân đối với các tội về chức vụ
của một số quốc gia trên thế giới đưa ra một số kiến nghị cụ thể về TNHS của
pháp nhân đối với tội phạm về chức vụ trong luật hình sự Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học và những
quy định của luật hình sự Việt Nam, các quy định của luật hình sự một số
nước trên thế giới về vấn đề TNHS của pháp nhân đối các tội đưa hối hộ và
nhận hối lộ, các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc phê
chuẩn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Hiện nay vấn đề liên quan đến TNHS của pháp nhân nói chung và
TNHS của pháp nhân đối với các tội đưa hối lộ và nhận hối lộ nói riêng đang
được quan tâm. Tuy nhiên tác giả chỉ thực hiện luận văn trong phạm vi những
vấn đề được nhìn nhận từ góc độ luật hình sự. Đề tài được tiếp cận và được
thực hiện dưới góc độ luật hình sự và so sánh luật, chủ yếu trên cơ sở những
quy định hiện hành của luật hình sự Việt Nam và một số công ước quốc tế
cũng như luật pháp của một số quốc gia có quy định vấn đề TNHS của pháp
nhân đối với các tội phạm đưa hối lộ và nhận hối lộ.


5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng
cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng
VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của
Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học
điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân
tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp
các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm ba chương:
- Chương 1:Những vấn đề về TNHS của pháp nhân và cáctội phạm về
chức vụtrong Luật hình sự Việt Nam.
- Chương 2:Những đòi hỏi của việc quy địnhTNHS của pháp nhân
đối với các tội phạm chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam.
- Chương 3: Kiến nghị hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với
các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰCỦA PHÁP
NHÂN VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.


NHỮNG VẤN ĐỀVỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN

1.1.1. Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
TNHS của pháp nhân là một vấn đề không mới trong khoa học pháp lý
hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm
pháp lý của pháp nhân mới chỉ được quy định trong lĩnh vực dân sự, kinh tế,
hành chính. Trong lĩnh vực hình sự, trách nhiệm của pháp nhân vẫn chưa
được quy định. Từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, khoa học hình sự nước
ta mới đưa ra những luận chứng chủ yếu cho sự điều chỉnh về mặt luật pháp
chế định TNHS của pháp nhân. Tuy chỉ có một số tác giả nghiên cứu về vấn
đề này song đã xuất hiện những quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này
mà tựu chung lại là hai luồng quan điểm cơ bản. Đó là quan điểm ủng hộ việc
thiết lập chế định TNHS nhiệm hình sự của pháp nhân và quan điểm phản đối
việc thiết lập chế định này. Tất cả đều đưa ra những lập luận và lý lẽ riêng để
chứng minh và bảo vệ quan điểm của mình.
Quan điểm cho rằng chủ thể của tội phạm chỉ có thể là thể nhân chiếm
ưu thế và tồn tại trong một thời gian dài. Những nhà hình sự học theo quan
điểm này cho rằng việc thiết lập TNHS của pháp nhân đã vi phạm một nguyên
tắc cơ bản của Luật hình sự là nguyên tắc lỗi. Theo cách hiểu truyền thống từ
trước đến nay, lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của người đó đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội, bị Luật hình sự cấm và thái độ đối với hậu quả do hành
vi đó gây ra. Do đó lỗi trong pháp luật hình sự về cơ bản chỉ có ở cá nhân
người phạm tội. Ngay cả trong trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng


phạm thì mỗi người tham gia với một vai trò khác nhau, họ có thể là người tổ
chức, người giúp sức, người thực hành, người xúi giục nên tính chất, mức độ
tham gia của mỗi người là khác nhau vì vậy lỗi của họ là khác nhau. Lỗi trong
trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm chỉ đặt ra đối với mỗi người

phạm tội chứ không thể quy lỗi chung đối với nhóm đồng phạm đó[1, tr.7].
Không thể có lỗi của tập thể con người mặc dù có thể tập thể con người đó có
những quan điểm chung về một số vấn đề như trường hợp đồng phạm hay
đồng phạm có tổ chức[8, tr. 26]. Còn pháp nhân là do con người lập ra và hoạt
động của nó chỉ có thể được thực hiện thông qua những con người cụ thể nên
nó không thể và không bao giờ có lỗi. Pháp nhân chỉ là một thực thể giả tưởng
của pháp luật, nó chỉ là cấu trúc pháp lý được thiết lập nhằm phục vụ các lợi
ích cá nhân của những thành viên pháp nhân. Các nghị quyết, các quyết định
của pháp nhân chỉ là kết quả của con số cộng các ý chí cá nhân của các thành
viên pháp nhân chứ không phải tự sự mong muốn của chính pháp nhân đó [30,
tr. 52].Do vậy không có lỗi nào có thể quy kết cho pháp nhân và theo logic
của sự vật và phép biện chứng của triết học - không có lỗi hình sự thì không
có TNHS. Trái lại những quan điểm của những nhà hình sự học theo học
thuyết truyền thống phản đối việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân,
nhưng người ủng hộ thiết lập chế định TNHS của pháp nhân đã đưa ra lập
luận phản bác lại những quan điểm trên. Họ cho rằng pháp nhân không phải là
một trìu tượng pháp lý thuần túy mà nó có những đặc tính không đổi được
thừa nhận chung, nó có sự tồn tại thực tế trong mối quan hệ với các thành viên
của pháp nhân và tổ chức trên thực tế. Ý chí của pháp nhân hoàn toàn độc lập
với ý chí của các thành viên trong pháp nhân. Trong điều lệ cũng như trong
các văn bản của pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, về hoạt động của
pháp nhân và pháp nhân có thể tự do tìm kiếm lợi ích riêng của bản thân độc
lập với lợi ích cá nhân tạo lên nó [30, tr. 54]. Pháp nhân bao gồm các cá nhân


được hình thành bởi những lợi ích tập trung và được tổ chức thông qua các
cấu trúc pháp lý xác định. Trong mỗi pháp nhân, những định hướng chủ đạo
thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn
toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên pháp nhân mà
pháp nhân hoàn toàn có ý chí riêng của mình, có mong muốn riêng của mình,

được xử sự tự do và hưởng các quyền tự chủ của chủ thể và vì vậy, nó cũng có
điều kiện để có lỗi khi thực hiện tội phạm. Pháp nhân có thể được so sánh với
con người. Denning LJ, một thẩm phán nổi tiếng người Anh trong một phiên
tòa xét xử tranh chấp giữa hai công ty tại Anh năm 1957 đã có một nhận định
mà sau này thường được dẫn chứng để nói về tư cách pháp nhân: “Một công
ty dưới góc độ nào đó giống như cơ thể con người. Nó có bộ não, có hệ thần
kinh trung ương kiểm tra những gì nó làm. Nó cũng có tay để cầm công cụ và
hành động theo mệnh lệnh của hệ thần kinh trung ương” [40, tr. 2]. Nếu lỗi
của thể nhân là sự tự do ý chí của chủ thể, tự do lựa chọn hành vi trái pháp
luật, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn
hành vi của mình thì pháp nhân cũng vậy, nó cũng có tự do khi lựa chọn hành
vi của nó. Do đó những người theo quan điểm ủng hộ TNHS của pháp nhân
khẳng định lại việc quy kết TNHS của pháp nhân là trên cơ sở lỗi chứ không
phải quy tội khách quan.
Những người theo học thuyết truyền thống chống lại TNHS của pháp
nhân ngoài việc đưa ra quan điểm việc thiết lập chế định TNHS của pháp
nhân vi phạm nguyên tắc lỗi trong luật hình sự thì theo họ, nó còn vi phạm
một nguyên tắc nữa của luật hình sự đó là nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi khi tòa án quyết định hình phạt đối
với người phạm tội thì trong từng vụ án cụ thể phải căn cứ vào hành vi, sự
tham gia cụ thể của họ vào tội phạm bị truy cứu, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS, các yếu tố nhân thân của người phạm tội để đưa ra một bản án phù


hợp đối với từng người phạm tội. Mỗi người phạm tội sẽ có hình phạt thỏa
đáng. Trong khi một tội phạm được thực hiện trong khuôn khổ hoạt động của
pháp nhân, thì hoặc là toàn bộ các thành viên của pháp nhân đã phạm tội cần
phải bị trừng trị có sự phân biệt và tương xứng với lỗi của từng người hoặc là
chỉ trừng trị một hoặc một số người trong pháp nhân đã liên hiệp hành động
phạm tội. Sẽ là đúng, công bằng nếu trừng trị những người đó; sẽ là không

công bằng nếu lại trừng trị tất cả những thành viên khác trong pháp nhân chỉ
vì lý do họ thuộc về một tập thể hoặc là họ phụ thuộc vào nó [18, tr. 12]. Như
vậy, rõ ràng trong cả hai trường hợp đều không có nhu cầu trừng trị vào pháp
nhân. Theo Thomas Hobbes, cái giá thực sự khi áp dụng TNHS, xét đến cùng,
chính các pháp nhân không phải chịu mà là những cá nhân cụ thể trong pháp
nhân như người góp cổ phần, cổ đông, người lao động… phải chịu. Như vậy
chế định TNHS của pháp nhân không thể chấp nhận được về phương diện
pháp lý cũng như đạo đức [30, tr. 53] Về quan điểm cho rằng việc quy kết
TNHS và áp dụng hình phạt với pháp nhân sẽ không công bằng và gây hại cho
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt thì theo quan điểm của hình sự học hiện đại,
những người ủng hộ việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân lý giả rằng:
Chế tài hình sự buộc phải áp dụng trực tiếp và chỉ đối với chính bản thân chủ
thể phạm tội, tức là đòi hỏi việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những pháp nhân
khi các thực thể này phạm tội. Công bằng không có nghĩa là phải trừng trị các
cá nhân này hay cá nhân khác mà công bằng chính là buộc chủ thể thực hiện
tội phạm phải chịu hình phạt. Không có lý lẽ công bằng nào lại buộc cá nhân
những người cấp dưới vốn chẳng có quyền hành gì và các nhà quản lý có
trách nhiệm thành những người phải hứng chịu hậu quả thay cho pháp nhân
phạm tội [18, tr. 18]. Cũng không có sự công bằng nào về cùng một hành vi
phạm tội lại có những cách đối xử khác nhau. Đối với pháp nhân phạm tội
cùng loại thì xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm


hành chính. Còn đối với cá nhân những người lãnh đạo, người đại diện của
pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân
lại bị trừng trị bằng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nhiều. Như vậy bằng
việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân là thể hiện nguyên tắc công bằng và
bình đẳng. Pháp nhân phạm tội thì pháp nhân phải là chủ thể đứng ra chịu
TNHS. Nếu pháp nhân phạm tội mà bắt thành viên của pháp nhân phạm tội
chịu TNHS còn pháp nhân chỉ bị xử lý chế tài phi hình sự là sự không công

bằng. Bản án kết tội đối với một pháp nhân khác với bản án có thể xảy ra của
các thành viên pháp nhân, nó không nhằm vào cá nhân các thành viên của
pháp nhân mà chính là pháp nhân – chủ thể chịu TNHS.
Tiếp nữa những người theo học thuyết truyền thống không chỉ chống lại
TNHS của pháp nhân bằng lý lẽ là pháp nhân không có khả năng phạm tội mà
họ còn cho rằng các chế tài hình sự nói chung không thể áp dụng được cho
pháp nhân và nếu có hình phạt nào áp dụng thì cũng không cần thiết và cũng
không có hiệu quả. Những hình phạt đặc trưng, truyền thống và mang lại hiệu
quả trong luật hình sự như tử hình, phạt tù…thị lại không thể áp dụng được
cho pháp nhân. “Người ta có thể bắt giam như thế nào đối với một thực thể
mà bản chất của nó là vô hình?” [18. Tr. 13]. Làm thể nào có thể tước mạng
sống của một chủ thể giả tưởng mà bản thân của nó là thiếu sự tồn tại của thực
thể hữu hình
Như vậy một khi hình phạt không thể được áp dụng thì tất nhiên mục
đích của hình phạt cũng không được đặt ra. Một số hình phạt khác mặc dù có
khả năng áp dụng được cho pháp nhân như phạt tiền, tịch thu tài sản, tước một
số quyền… song nếu áp dụng những hình phạt này sẽ tác động cả những cá
nhân là thành viên của pháp nhân không có lỗi, không thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Điều này là sự bất công bằng giữa các thành viên trong pháp
nhân, gây phá sản cho pháp nhân, làm ảnh hưởng thu nhập, đời sống của họ,


dẫn đến bất bình đối với pháp luật, ảnh hưởng xã hội. Lúc này mặc dù có thể
áp dụng hình phạt đối với pháp nhân song mục đích của hình phạt không đạt
được. Mặt khác trong hệ thống pháp luật, trong từng ngành luật tương ứng
như luật hành chính, luật dân sự… đã có chế tài pháp lý phi hình sự như chế
tài phạt tiền, cấm hoạt động nhất định, giải thể pháp nhân… vì vậy họ cho
rằng nếu các chế tài ấy được xây dựng lại một cách khoa học và phù hợp với
thực tiễn thì cũng có thể áp dụng đối với pháp nhân chứ không nhất thiết phải
ghi nhận các chế tài ấy trong pháp luật hình sự. Quan điểm cho rằng các pháp

nhân về bản chất là những thực thể vô hình nên không thể áp dụng hình phạt
đối với nó, một số hình phạt trong hệ thống hình phạt nước ta rất đa dạng, một
số hình phạt như tử hình hay các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền tự do
thân thể không thể áp dụng được với pháp nhân song với sự đa dạng trong hệ
thống hình phạt rất nhiều hình phạt có thể áp dụng đối với pháp nhân mà tác
động đến những quyền và tài sản mà pháp nhân có. Những hình phạt này đang
dần dần phát triển phù hợp với bản chất pháp nhân phạm tội và mục đích của
hình phạt đã đạt được. Mặc dù đúng là những hình phạt này đã có trong các
chế tài pháp lý phi hình sự song do tính chất phi hình sự mà những chế tài này
không đạt được hiệu quả cao khi áp dụng. Trên thực tế đã chứng minh điều đó
khi các vụ việc do pháp nhân thực hiện gây thiệt hại cho xã hội tăng nhanh cả
về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng.
Tóm lại trong khoa học pháp lý hiện nay vấn đề có nên quy định TNHS
của pháp nhân hay không còn là vấn đề đang được tranh cãi giữa các nhà
nghiên cứu pháp lý. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua khi mà Ban soạn thảo
Dựa án BLHS sửa đổi đã tiến hành phiên họp và nhận được nhiều ý kiến trái
chiều. Tuy nhiên đa số các ý kiến đều tán thành việc quy định TNHS của pháp
nhân đối với một nhóm tội, trong đó có các tội phạm về chức vụ. Tác giả cũng
ủng hộ quan điểm thiết lập chế độ TNHS của pháp nhân đối với một nhóm tội


phạm trong đó có các tội phạm về chức vụ bởi vì việc thiết lập TNHS của
pháp nhân không vướng bất kỳ nguyên tác nào của luật hình sự, đồng thời còn
góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là các
tội phạm về chức vụ trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Cơ sởcủa việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
*Cơ sở lý luận của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân
Như chúng ta đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi,
trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Dựa vào khái niêm tội phạm này

chúng ta có thể đưa ra những cơ sở lý giải đối với chủ thể của tội phạm là
pháp nhân giống như những người ủng hộ quan điểm thiết lập chế định TNHS
của pháp nhân lập luận.
Trước hết có thể khẳng định pháp nhân là một thực thể có thật. Pháp
nhân có những đặc tính không đổi được thừa nhận chung, có sự tồn tại thực tế
của nó trong mối quan hệ với các thành viên của pháp nhân. Thực tế pháp luật
đã ghi nhận nó trên phương diện pháp lý. Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 của
Việt Nam quy định pháp nhân được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh chính mình tham gia vào quan hệ xã hội một cách
độc lập.
Cũng như thể nhân, pháp nhân cũng có hành vi của mình. Tuy nhiên
hành vi của pháp nhân khác với thể nhân, hành vi của pháp nhân được thực
hiện thông qua người đại diện, người lãnh đạo của pháp nhân. Trong các điều
lệ, văn bản về pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, hoạt động của pháp
nhân và đó chính là hành vi của pháp nhân. Theo quy định của pháp luật, quy
chế, điều lệ của pháp nhân thì người lãnh đạo, đại diện được thay mặt pháp
nhân ra các quyết định, thực hiện các hành vi thuộc thẩm quyền của pháp


nhân, vì lợi ích của pháp nhân. Với hậu quả có lợi cũng như bất lợi phát sinh
từ hành vi theo sự lựa chọn trên cơ sở ý chí của người đại diện, người lãnh
đạo đều do pháp nhân thụ hưởng hoặc gánh chịu. Những hoạt động của pháp
nhân thường là những hành vi có lợi cho pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân,
lợi ích của xã hội nhưng cá biệt cũng có những hoạt động vì lợi ích của mình
mà pháp nhân có thể gây thiệt hại cho xã hội ở những mức độ khác nhau và
việc gây thiệt hại ở mức độ đáng kể là rất có thể xảy ra. Vì vậy pháp nhân có
thể có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Mặt khác, các pháp nhân mặc dù bao gồm các cá nhân nhưng được hình
thành bởi những lợi ích tập trung và được pháp luật thông qua các cấu trúc

pháp lý xác định. Pháp nhân có thể tự quyết định một cách tự do và theo đuổi
những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân
tạo nên pháp nhân đó. Trong các pháp nhân, những định hướng chủ đạo thể
hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn toàn
giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên tập đoàn. Pháp nhân
hoàn toàn có ý chí của riêng mình bởi vì nó sinh ra, tồn tại và phát triển bằng
sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của thành viên của mình. Vì vậy pháp nhân
là một thực thể có ý chí, có mong muốn riêng, được xử sự tự do và hưởng
quyền tự chủ của chủ thể và có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân. Vì
vậy nó có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi và đương nhiên có thể
bị xử lý về hình sự. Như đã phân tích ở trên, lỗi trong luật hình sự là thể hiện
tự do ý chí của chủ thể (Tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây thiêt hại
cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn hành vi hợp pháp)
thì pháp nhân cũng hoàn toàn tự do khi lựa chọn hành vi của mình. Vì vậy
việc quy kết TNHS cho pháp nhân là hoàn toàn hợp lý trên cơ sở lỗi chứ
không phải quy tội khách quan. Như vậy hành vi của pháp nhân hoàn toàn có


thể đáp ứng các đặc điểm của tội phạm theo quy định của BLHS Việt Nam
hiện hành.
Cuối cùng, việc áp dụng hình phạt cho pháp nhân hoàn toàn có khả
năng thực thi. Hình phạt là biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội và pháp nhân cũng có quyền và lợi ích nhất định, nên về lý
thuyết, việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp nhân phạm tội là
điều có thể. Và khi chúng ta tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp
nhân tức là chúng ta đã đạt được mục đích trừng trị, răn đe cũng như phòng
ngừa của hình phạt. Do đó có thể khẳng định hoàn toàn có thể quy kết TNHS
đối với pháp nhân.
Như vậy có thể khẳng định về mặt lý luận, khoa học pháp lý hình sự
hiện đại đã giải quyết cơ bản TNHS của pháp nhân. Việc thiết lập chế định

TNHS của pháp nhân không vi phạm bất kỳ dấu hiệu nào của tội phạm cũng
như nguyên tắc của Luật hình sự. Ngày nay, việc thừa nhận TNHS của pháp
nhân là xu hướng phát triển chung trong pháp luật hình sự của nhiều nước và
chúng ta hoàn toàn có thể quy định chế định này trong luật hình sự Việt Nam.
*Cơ sở thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân
Qua thực tế thấy rằng, quan điểm coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm
đã có từ lâu và hiện nay nó đã được chính thức thừa nhận ở một số quốc gia
trong đó có những quốc gia từ trước tới nay không thừa nhận mà thậm chí còn
phê phán. TNHS của pháp nhân đã được ghi nhận và trở thành nguyên tắc cơ
bản trong Luật hình sự của mỗi nước theo truyền thống Án lệnhư Anh, Mỹ,
Canada, Australia, New Zealand…Ở châu Âu lục địa, chế định TNHS cũng đã
được thừa nhận trong pháp luật hình sự nhiều quốc gia như Pháp, Hà Lan, Bỉ,
Thụy Sĩ, Tây Ban Nha… Vấn đề TNHS của pháp nhân đã được điều chỉnh về


mặt lập pháp không chỉ ở các nước theo truyền thống Common Law, châu Âu
lục địa mà còn được thừa nhận ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Singapo,
đặc biệt là Trung Quốc – một nước láng giềng của Việt Nam trong thời gian
trước còn phản đối việc chấp nhận TNHS của pháp nhân.
Không chỉ được ghi nhận trong pháp luật hình sự các quốc gia mà vấn
đề TNHS của pháp nhân đã chính thức được khuyến nghị trong nhiều văn bản
quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Công ước của liên hiệp quốc về chống
tham nhũng 2003, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia… Mặc dù quy định thiết lập TNHS của pháp nhân chỉ là quy
định mang tính chất khuyến nghị song trong quyết định phê duyệt thực hiện
các Công ước này, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu nghiên cứu bổ sung pháp
nhân là chủ thể của hành vi tham nhũng. Có thể thấy xu hướng thừa nhận
TNHS của pháp nhân đã ngày càng phổ biến trong pháp luật các quốc gia và
là một xu hướng hợp thời đại. Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét, bổ sung chế

định này trong pháp luật quốc gia.
Ở Việt Nam, nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự cho thấy trước khi
ban hành BLHS, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được thiết lập.Trong thời kỳ
phong kiến, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được đề cập trong Quốc triều
hình luật, Điều 62 chương Tạp luật có quy định: “Những trang trại ven biển
mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ, thì bị xử biếm 3 tư,
phải phạt gấp ba tang vật để sung công, lấy một phần thưởng cho người tố
giác. Người chủ trang trại ấy mất chức giám trang”. Trước các mạng tháng
Tám năm 1945, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được quy định trong pháp
luật của chế độ thực dân phong kiến thời kỳ trước cách mạng tháng Tám như
Điều 12 Dụ số 45.1088 ngày 03/5/1945 về trừng trị các vi phạm luật lệ hối
đoái, quy định: “Đối với trường hợp vi phạm luật lệ hối đoái thì không những
giám đốc, quản trị viên, quản lý của pháp nhân bị truy tố mà chính bản thân


pháp nhân cũng có thể bị truy tố và bị phạt bạc”. Sau cách mạng tháng Tám
năm 1945, chính quyền chế độ cũ ở vùng tạm chiến của thực dân Pháp và ở
miền Nam Việt Nam dưới chế độ Sài Gòn sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954
cũng đã ban hành một số văn bản quy định TNHS của pháp nhân như: Điều
33 Dụ số 10 ngày 23/6/1950, Điều 26 Dụ số 33 ngày 16/11/1952… đặc biệt
trong BLHS ngày 20/12/1972 của chính quyền Sài Gòn cũ chính thức quy
định TNHS của pháp nhân là nguyên tắc chung trong luật hình sự. Điều 8 bộ
luật này quy định “Luật hình chi phối mọi cá nhân và pháp nhân cứ trú trên
lãnh thổ Việt Nam và mọi sự kiện xảy ra trên lãnh thổ này, kể cả không phận
và hải phận”. Điều 69 quy định “Cá nhân và pháp nhân đều có thể bị truy cứu
TNHS” và Điều 71 quy định “Pháp nhân có thể bị xử phạt giải tán, phạt vạ và
tịch thu tài sản”. Trong hai lần pháp điển hóa BLHS năm 1985 và 1999, mặc
dù trong kiến giải lập pháp của các tác giả được đưa ra tại Điều 2 BLHS 1985
quy định “Cơ sở của TNHS” với nội dung “Cơ quan, tổ chức, đơn vị (sau đây
gọi là tổ chức) phải chịu TNHS về hành vi phạm tội do đại diện của mình thực

hiện vì lợi ích của tổ chức đó”. Nhưng sau đó trong dự thảo luật lần thứ XI
(10/1998) thì kiến giải lập pháp này bị các nhà làm luật Việt Nam loại bỏ. Và
BLHS hiện hành vẫn chưa chấp nhận nguyên tắc TNHS pháp nhân bên cạnh
nguyên tắc TNHS cá nhân.
Một thực tiễn đáng buồn là các vi phạm pháp luật có tính chất tội phạm
do pháp nhân thực hiện ở nước ta trong những năm gần đây tăng rất nhanh.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn đề trên nhưng nguyên nhân căn bản và sâu
sa nhất đó là sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường. Việt Nam
đang tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với những chính sách kinh tế thông thoáng, hội nhập kinh tế quốc
tế, gia nhập WTO nhằm mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của nhà nước ta đã
tạo điều kiện phát triển mọi mặt, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế. Tuy


nhiên bên cạnh những yếu tố tích cực đó đã xuất hiện những hành vi có tính
chất tội phạm ngày càng gia tăng cả về quy mô và mức độ nguy hiểm không
chỉ do cá nhân mà còn do tổ chức, pháp nhân thực hiện. Những vụ gây thiệt
hại đáng kể do pháp nhân gây ra không còn là cá biệt mà đã trở thành hiện
tượng phổ biến. Với chế tài pháp lý hiện nay thì việc chỉ xử lý TNHS đối với
người đại diện của pháp nhân còn bản thân pháp nhân sẽ chỉ chịu trách nhiệm
dân sự hay trách nhiệm hành chính. Chính điều này là nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng các pháp nhân ngày càng phạm tội nhiều hơn. Việc áp dụng trách
nhiệm dân sự hay trách nhiệm hành chính đối với pháp nhân phạm tội không
còn đạt hiệu quả trong việc ngăn chặn pháp nhân có những hành vi gây thiệt
hại, hậu quả pháp lý mà pháp nhân phải gánh chịu không đủ nghiêm khắc để
phòng ngừa tái phạm. Thêm vào đó việc chỉ truy cứu TNHS đối với cá nhân
những người lãnh đạo, người đại diện trong những trường hợp này là thiếu
công bằng và không hợp lý. Các cá nhân được đó chỉ sử dụng các biện pháp
điều hành cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ được giao, họ không được làm
trái các quyết định đó. Một khi những biện pháp đó mà đem lại lợi ích cho

pháp nhân thì tất cả những thành viên của pháp nhân được hưởng còn khi
những biện pháp mà họ áp dụng vi phạm pháp luật thì chỉ mình bản thân họ
gánh chịu trách nhiệm. Mặt khác việc truy cứu TNHS cá nhân trong trường
hợp này không thể ngăn chặn được pháp nhân tiếp tục thực hiện hành vi trái
pháp luật bởi bị khi cá nhân những người đại diện của pháp nhân này bị truy
cứu TNHSthì sẽ có cá nhân khác thay thế và tiếp tục thực hiện hành vi tương
tự vì mục đích của pháp nhân.
Từ những cơ sở trên đòi hỏi phải quy định TNHS của pháp nhân. Chỉ
có TNHS với tính nghiêm khắc của các chế tài mới đủ sức răn đe và có khả
năng phòng ngừa hành vi tiếp tục phạm tội của pháp nhân đồng thời, việc áp
dụng TNHS đối với pháp nhân mới tương xứng và phù hợp với mức độ nguy


hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại do pháp nhân thực hiện. Và một lần
nữa khẳng định rằng trong điều kiện xã hội hiện nay thật sự cần thiết phải quy
định TNHS đối với pháp nhân.
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ HÌNH SỰ CƠ BẢN CỦA CÁC TỘI
PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.2.1.Sơ lƣợc lịch sử lập pháp hình sự nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về các tội phạm chức vụ
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật hình sự về các tội phạm chức vụ.
Năm 1946, Sắc lệnh số 223/SL được ban hành ngày 17/11 quy định đưa
hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc phù lạm, biển thủ công
quỹ. Sắc lệnh này tuy chưa mô tả hành vi phạm tội và quy định hình phạt còn
cứng nhắc nhưng đã thể hiện sự phân hóa trong xử lý đối với người tự thú, tố
giác đồng bọn. Sắc lệnh là văn bản quy phạm pháp luật hình sự đầu tiên của
nhà nước ta quy định tội phạm về chức vụ. Năm 1948, Sắc lệnh số 200/SL
ngày 7/8 về trưng tập công chức có quy định tội đào nhiệm. Năm 1956, Sắc

lệnh số 267/SL ngày 15/6 quy định trừng trị những âm mưu và hành động phá
hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực
hiện chính sách, kế hoạch nhà nước quy định các tội phạm về chức vụ gồm:
tội không làm hoặc làm sai công vụ mình phụ trách và tội thiếu tinh thần trách
nhiệm làm thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã,
của nhân dân. Năm 1976, Sắc lệnh số 03 được Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành ngày 15 tháng 3 quy định thêm tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn và quy định tội đưa và nhận hối lộ. Năm 1981,
pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ được ban hành ngày 20 tháng 5. Pháp lệnh
này thay thế các văn bản pháp luật hình sự trước đó về các tội hối lộ. Lần đầu
tiên trong pháp lệnh, tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ được quy định tại điều


luật độc lập, các dấu hiệu pháp lí được điều luật mô tả, các tình tiết tăng nặng
và tăng nặng đặc biệt được quy định trong những điều khoản riêng. Pháp lệnh
này loại bỏ được những hạn chế của những văn bản pháp luật hình sự trước
đây và giúp cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt được thuận lợi,
chính xác. [32, tr. 358-360]
Năm 1985, BLHS đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được ban hành ngày 27 tháng 6. Kế thừa kinh nghiệm lập pháp hình
sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm những năm trước đây,
BLHS năm 1985 đã dành một chương quy định tội phạm chức vụ. Tuy nhiên,
do những quy định của BLHS năm 1985 về các tội phạm về chức vụ còn
nhiều điểm chưa được hướng dẫn và thực tiễn xét xử nhiều trường hợp phạm
tội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng
BLHS để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Các quy định của BLHS năm 1999 đối với các tội phạm về tham nhũng,
các tội phạm khác về chức vụ đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh được thực
trạng công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian qua,
giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt là việc xét xử loại tội phạm này sẽ

thuận lợi hơn trước đây.
BLHS năm 1999 đi vào cuộc sống đã phát huy vai trò, tác dụng tích cực
và trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm,
qua đó góp phần bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;
từng bước đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ và lợi ích hợp pháp của
công dân, của tổ chức; thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu
cầu hội nhập quốc tế, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong những năm vừa
qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ chương, biện pháp nhằm ngăn chặn
và đẩy lùi tệ tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc


đấu tranh chống tham nhũng chưa đem lại hiệu quả, tình trạng tham nhũng
vẫn rất nghiêm trọng, vẫn là một trong những nguy cơ làm suy yếu chế độ xã
hội chủ nghĩa, trực tiếp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước ta. Ngoài những hành vi tham nhũng thì đi liền với nó là những hành vi
có liên quan đến tham nhũng hoặc có liên quan đến chức vụ, quyền hạn.
1.2.2.Khái niệm các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt
Nam hiện hành
Khái niệm tội phạm về chức vụ được các nhà làm luật quy định tại một
điều riêng biệt trong BLHS năm 1999. Điều 277 quy định: “Các tội phạm về
chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức
do những người có chức vụ thực hiện khi thực hiện công vụ”. Ngoài ra điều
luật cũng giải thích thêm: “Những người có chức vụ nói trên đây là những
người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có
hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.
Nếu căn cứ vào những quy định trên thì các tội phạm về chức vụ quy
định từ Điều 278 đến Điều 291 BLHS có một số trường hợp không thỏa mãn
khái niệm mà Điều 277 quy định như: tội đưa hối lộ quy định tại Điều 289, tội

làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 290 BLHS, không chỉ người có chức vụ
thực hiện mà còn bao gồm cả những người không có chức vụ thực hiện, mặc
dù hành vi của họ cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức. Ngoài các tội phạm quy định tại Chương XXI BLHS ra, còn nhiều tội
phạm khác quy định ở các Chương khác cũng do người có chức vụ thực hiện
và cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, nhưng
lại không phải là tội phạm về chức vụ.
Việc đưa ta một khái niệm về các tội phạm về chức vụ thật chính xác,
thật đặc trưng cho loại tội phạm này về lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn


đề phải tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên chúng ta không nên quá câu lệ vào
khái niệm hay định nghĩa về loại tội phạm này, vi khi đã là luật thì trước hết
mọi cơ quan, tổ chức và mọi người phải tuân theo. Vấn đề quan trọng là cần
hiểu và nắm chắc các dấu hiệu pháp lý đối với các tội phạm quy định tại
chương XXI BLHS. [36, tr. 50]
BLHS hiện hành nước ta quy định tội phạm về chức vụ tại chương XXI,
trong đó mục A quy định các tội phạm về tham nhũng (từ điều 278 đến Điều
284), mục B quy định các tội khác về chức vụ (từ Điều 285 đến Điều 291).
Ngoài các tội phạm được quy định tại chương XXI, các chương khác của
BLHS 1999 cũng quy định các tội phạm khác về chức vụ, như tội thiếu trách
nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội cố
ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
(Điều 165).
1.2.3. Những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của tội đƣa hối lộ và
nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm về chức vụ được quy định từ Điều 278 đến Điều 291 Bộ
luật hình sự. Tuy nhiên khi nghiên cứu vun đề trách nhiệm hình sự của pháp
nhân đối với các tội phạm về chức vụ, tác giả sẽ nghiên cứu và đề xuất vấn đề
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hai tội đưa hối lộ và nhận hối

lộ.Chính vì vậy tác giả sẽ chỉ ra những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của
hai tội đưa hối lộ và nhận hối lộ (gọi chung là các tội phạm về hối lộ) như sau:
Trước hết về chủ thể của tộinhận hối lộ: Theo quan điểm truyền thống
của luật hình sự Việt Nam, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể
là chủ thể của tội này. Cũng theo các hiểu được thừa nhận chung trong Luật
hình sự Việt Nam, người có chức vụ, quyền hạn là người được giao phụ trách
một công vụ nhất định trong các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức và khi thi
hành công vụ đó người này có một quyền năng nhất định trong mối quan hệ


×