Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Quy Hoạch Phát Triển Ngành Thương Mại Tỉnh Vĩnh Phúc Đến Năm 2020, Tầm Nhìn Đến Năm 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.68 MB, 101 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

QUY HOẠCH
PHÁT TRIỂN NGÀNH THƯƠNG MẠI TỈNH
VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN
NĂM 2030

Năm 2011
MỞ ĐẦU
1


Trong những năm vừa qua, nhất là là từ khi thực hiện chính sách mở cửa,
nền kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân trên
17%/năm - vào loại nhanh nhất so với cả nước. Cùng với những thành tựu
chung của nền kinh tế, ngành thương mại Vĩnh Phúc đã được đầu tư và có
những bước tăng trưởng đáng kể, hàng năm đóng góp hơn 10% vào GDP của
tỉnh. Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại được cải thiện từng bước, các loại
hình tổ chức thương mại mới đã hình thành, các kênh phân phối hàng hóa công
nghiệp và nông sản đã được định hình góp phần hỗ trợ sản xuất và nâng cao
chất lượng cuộc đời sống người dân trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, trong những năm tới, sẽ có nhiều nhân tố mới tác động đến
phát triển ngành thương mại Vĩnh Phúc, đó là: tỉnh Vĩnh Phúc sẽ được định
hướng phát triển thành thành phố Vĩnh Phúc vào cuối những năm 2020 đầu
những năm 2030 của Thế kỷ XXI, cơ cấu kinh tế của tỉnh sẽ được tích cực
chuyển đổi theo hướng tiên tiến hơn thể hiện trong các chỉ tiêu phát triển kinh
tế xã hội của “Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh phúc đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030”, sự thay đổi về địa giới hành chính (huyện Mê
Linh sát nhập vào Hà Nội, tách huyện Lập Thạch thành 2 huyện Lập Thạch và
Sông Lô….).
Tác động của những yếu tố này đòi hỏi ngành thương mại Vĩnh Phúc phải


có sự phát triển tương xứng. Một mặt, phải triệt để khai thác lợi ích thương mại
từ tiềm năng, lợi thế của tỉnh, mặt khác, phải tận dụng được những cơ hội từ
những yếu tố phát triển mới để hỗ trợ và tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển
của các ngành khác, từ đó nâng cao hơn nữa vai trò của ngành thương mại
không chỉ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, mà còn đối với
sự phát triển của vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng Sông Hồng
và các vùng khác trong cả nước.
Để thực hiện được những yêu cầu trên đây, trong giai đoạn tới, ngành
thương mại Vĩnh Phúc phải đạt được sự phát triển phù hợp về quy mô, cấu trúc
của hệ thống phân phối hàng hoá, sự phân bố hài hoà của các loại hình tổ chức
thương mại với phương thức kinh doanh tiên tiến, hiện đại đồng thời phải có
những cải cách về chính sách và cơ chế quản lý thương mại.
Những yêu cầu phát triển trong tương lai của tỉnh Vĩnh Phúc đòi hỏi phải
xây dựng Quy hoạch phát triển ngành thương mại tỉnh Vĩnh Phúc với tầm nhìn
đến năm 2030 nhằm khai thác các lợi thế phát triển, thích ứng với tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời kỳ này.
Mục tiêu của quy hoạch phát triển ngành thương mại tỉnh Vĩnh Phúc:
- Định hướng phát triển ngành thương mại Vĩnh Phúc trên cơ sở phát huy
các lợi thế phát triển, thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phù
hợp với các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời
kỳ đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030.
2


- Làm căn cứ pháp lý để lập kế hoạch và quản lý đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng ngành thương mại Vĩnh Phúc.
Những căn cứ để xây dựng quy hoạch ngành thương mại tỉnh Vĩnh Phúc:
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm
2020, tầm nhìn đến 2030.

- Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế, các ngành thuộc kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội khác trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và 2030 đã
được phê duyệt.
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các huyện, thị xã và thành
phố trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XV.
- Quyết định số 19/2007/QĐ-BCT ngày 31/12/2007 của Bộ Công Thương
Phê duyệt qui hoạch phát triển một số kết cấu hạ tầng thương mại chủ yếu
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và định hướng đến 2020.
- Quyết định số 012/2007/QĐ-BCT ngày 26/12/2007 của Bộ Công
Thương Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới chợ trên phạm vi
toàn quốc đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Quyết định 27/2007/QĐ-TTg, ngày 15/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án phát triển thương mại trong nước đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020.
- Quyết định 156/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng chính phủ
về phê duyệt đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010.
- Nghị quyết 54 – NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội
và đảm bảo an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020.
- Quyết định 145/2004/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về phương
hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Các Văn bản của Đảng và Nhà nước, Chính phủ về phát triển thương mại
của cả nước, vùng kinh tế.
- Niên giám thống kê, kết quả điều tra, khảo sát và hệ thống số liệu, tài liệu
liên quan.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: hoạt động thương mại và dịch vụ thương mại tại tỉnh Vĩnh
Phúc trong quan hệ với hoạt động kinh tế - thương mại của vùng Kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng và cả nước, với tiến trình hội nhập
kinh tế thế giới và khu vực…..
3


Phạm vi:
- Thời gian: nghiên cứu thực trạng từ năm 1997-2009, thời gian qui hoạch
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
- Không gian: Qui hoạch theo không gian hành chính của tỉnh Vĩnh Phúc
Các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu:
−Đánh giá các điều kiện, yếu tố phát triển ngành thương mại tỉnh Vĩnh Phúc.
−Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển ngành thương mại trên địa bàn tỉnh.
−Xây dựng những phương hướng chủ yếu phát triển ngành thương mại
tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm các mục tiêu phát triển, định hướng phát triển ngành,
định hướng phân bố các loại hình tổ chức thương mại trên địa bàn tỉnh đến năm
2020 và năm 2030.
Nội dung của dự án:
Phần thứ nhất:
Đánh giá các điều kiện, yếu tố phát triển ngành thương mại Vĩnh Phúc.
Phần thứ hai:
Thực trạng phát triển ngành thương mại tỉnh Vĩnh Phúc
Phần thứ ba:
Quy hoạch phát triển ngành thương mại tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030
Phần thứ tư:
Giải pháp và tổ chức thực hiện qui hoạch

Phần thứ nhất

4



CÁC ĐIỀU KIỆN, YẾU TỐ PHÁT TRIỂN NGÀNH THƯƠNG MẠI
TỈNH VĨNH PHÚC
1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT
TRIỂN NGÀNH THƯƠNG MẠI TỈNH VĨNH PHÚC
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Vĩnh Phúc nằm ở vùng cực Bắc châu thổ Sông Hồng, diện tích tự nhiên
hơn 1.231 km2, phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Đông và
phía Nam giáp Hà Nội, phía Tây giáp Phú Thọ, cách trung tâm thủ đô Hà Nội
50 km và sân bay quốc tế Nội Bài 25 km. Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính là
Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên, các huyện: Bình Xuyên, Lập Thạch,
Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc.
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng
sông Hồng và vùng lan toả Thủ đô, nằm trên quốc lộ 2A nối Việt Trì - Hà
Giang - Trung Quốc, Đường Cao tốc Hà Nội - Lào Cai…, nằm trên tuyến
đường sắt Hà Nội - Lào Cai, trục giao thông nối liền vùng trung du miền núi
phía Bắc với thủ đô Hà Nội. Vĩnh Phúc cũng là một trong các tỉnh thuộc tuyến
hành lang kinh tế Côn Minh – Hà Nội - Hải Phòng – cầu nối thúc đẩy tự do hóa
kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam – ASEAN và Trung Quốc.
Vị trí địa lý rất thuận lợi cho việc tạo lập quan hệ kinh tế với các trung tâm
kinh tế, công nghiệp, thương mại và các thành phố lớn… được tác động lôi kéo
của các vùng kinh tế quan trọng, đồng thời cũng tạo điều kiện để Vĩnh Phúc
khai thác các lợi ích thương mại, thúc đẩy phát triển giao thương với các tỉnh
trong nước và nước bạn Trung Quốc.
1.1.2. Điều kiện địa hình và tài nguyên thiên nhiên
Địa hình tỉnh Vĩnh Phúc thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam bao gồm
ba vùng sinh thái rõ rệt: đồng bằng, trung du và miền núi, cho phép phát triển
nhiều loại hình sản xuất. Vùng đồng bằng thích hợp trồng cây nông nghiệp, cây

ăn quả và hình thành các khu dân cư, khu đô thị. Vùng trung du thích hợp trồng
cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát triển trang trại và
khu công nghiệp. Vùng đồi núi thích hợp với phát triển lâm nghiệp, trồng cây
ăn quả, cây dược liệu, phát triển du lịch nghỉ dưỡng…
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, hệ thống sông, hồ
trên địa bàn tỉnh khá phong phú với hai con sông lớn chảy qua là Sông Hồng,
Sông Lô cùng các con sông nhỏ như sông Phó Đáy, sông Cà Lồ, sông Phan và
hệ thống hồ ao đem lại tiềm năng về vận tải và cung cấp nước tưới, tiêu.
Điều kiện địa hình, khí hậu phù hợp cho việc phát triển một nền kinh tế đa
dạng, tạo nguồn cung ứng phong phú cho ngành thương mại, thuận lợi cho phát
triển mạng lưới kết cấu hạ tầng thương mại.
5


Các nguồn tài nguyên thiên nhiên chủ yếu và quan trọng nhất của Vĩnh
Phúc là nguồn tài nguyên đất nông nghiệp, tài nguyên du lịch...
Đất đai: Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 123.176 ha, bao gồm hai
nhóm chính là đất phù sa và đất đồi núi, trong đó, diện tích đất nông nghiệp
chiếm 69,64%, đất phi nông nghiệp chiếm 27,99%, đất chưa sử dụng chiếm
2,37%. Quĩ đất nông nghiệp của tỉnh đang có xu hướng giảm dần, ngược lại,
đất phi nông nghiệp đang tăng nhanh, đặc biệt là quĩ đất dành cho phát triển các
lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ, khu dân cư…
Tài nguyên khoáng sản: Nhóm khoáng sản nhiên liệu bao gồm than
antraxit, than nâu, than bùn; nhóm khoáng sản kim loại bao gồm barit, đồng,
vàng, thiếc, sắt; nhóm vật liệu xây dựng bao gồm sét, cát sỏi, đá xây dựng... và
cao lanh. Nhìn chung, nguồn tài nguyên khoáng sản của tỉnh khá nghèo nàn,
chưa được điều tra kỹ và chưa phục vụ cho phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh
ngoại trừ một số ít loại có giá trị thương mại là đá xây dựng, cao lanh, than bùn
nhưng trữ lượng thấp và điều kiện khai thác còn hạn chế.
Tài nguyên du lịch: Vĩnh Phúc có tiềm năng phát triển du lịch với các

quần thể danh lam thắng cảnh như Vườn quốc gia Tam Đảo, Thác Bản Long,
Hồ Đại Lải, Đầm Vạc.., với nhiều lễ hội dân gian truyền thống và các di tích
lịch sử như Tây Thiên, Tháp Bình Sơn,... Quá trình khai thác các tiềm năng du
lịch của tỉnh sẽ tạo điều kiện cho ngành thương mại phát triển như cung ứng
trang thiết bị để xây dựng cơ sở vật chất du lịch, cung ứng hàng hóa cho nhu
cầu của khách du lịch.
1.2. Con người và nguồn nhân lực
- Dân số:
Dân số của tỉnh Vĩnh Phúc năm 2009 là 1.003.047 người, nhịp độ tăng dân
số trong thời kỳ 2006-2009 là 1,15%/năm. Dự kiến năm 2010, dân số sẽ tăng với
tốc độ chậm hơn, khoảng 1,12% so với năm 2009, đạt khoảng 1.012 nghìn người.
Mật độ dân số của Vĩnh Phúc tăng từ 767 người/km2 năm 2005 lên 801
người/km2 năm 2008 và 813 người/km2 năm 2009, thấp hơn so với mật độ
dân số bình quân chung của vùng KTTĐBB.
Các huyện vùng đồng bằng có mật độ dân số trung bình cao gấp hơn hai
lần so với các huyện trung du và miền núi. Dân cư tập trung đông nhất tại thành
phố Vĩnh Yên với 1.605 người/km2 và thấp nhất tại huyện Tam Đảo với 287
người/km2.
Đặc điểm này cần phải tính đến khi phân bố mạng lưới thương mại ở từng
địa bàn để tránh tình trạng quá tải ở khu vực đồng bằng, đô thị và khai thác
không hiệu quả ở khu vực nông thôn, miền núi.

6


Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội thời kỳ 1997- 2008 theo địa giới hành chính
mới tỉnh Vĩnh Phúc.

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, báo cáo QH đô thị và cả nước 2008


7


Cơ cấu lao động theo ngành nghề tỉnh Vĩnh Phúc

Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội thời kỳ 1997-2008 theo địa giới hành chính mới
tỉnh Vĩnh Phúc

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc và cả nước năm 2008

8


Cơ cấu dân số:
Với xuất phát điểm là một tỉnh nông nghiệp, dân số Vĩnh Phúc phân bố
chủ yếu ở vùng nông thôn. Cơ cấu dân số đang có sự chuyển dịch theo hướng
tăng dân số khu vực đô thị và tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh hơn trong những
năm gần đây. Tỉ lệ dân số đô thị tăng từ 11,84% năm 1997 lên 16,7% năm
2005 và 22,4% năm 2009. Dự kiến dân số đô thị sẽ đạt tỉ lệ 25% năm 2010.
Mặc dù vậy, tốc độ đô thị hoá ở Vĩnh Phúc diễn ra còn chậm so với nhịp
độ chung của cả nước và của vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Tỷ lệ dân số đô
thị của cả nước năm 2008 là 28,11%, của vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ năm
2008 là 33,19%. Đồng thời, cơ cấu dân số đô thị cũng khá lạc hậu so với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch lao động trong các ngành kinh tế.
Điều này đòi hỏi cấu trúc hệ thống phân phối hàng hóa và mạng lưới kết cấu hạ
tầng thương mại phải đa dạng và linh hoạt, đặc biệt là ở khu vực nông thôn để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho một bộ phận không nhỏ người lao động phi
nông nghiệp hiện còn đang sinh sống ở khu vực nông thôn.
- Lao động
Dân số trong độ tuổi lao động của Vĩnh Phúc đạt tỉ lệ khá cao, chiếm trên

70% dân số toàn tỉnh năm 2009. Trong những năm tới, lực lượng lao động sẽ ngày
càng dồi dào do tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động đang có xu hướng tăng lên.
Về cơ cấu lao động theo lĩnh vực kinh tế: sự phát triển nhanh chóng của
các ngành công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn tỉnh đã kéo theo sự gia tăng lao
động trong các lĩnh vực này, đồng thời sự chuyển dịch lao động từ khu vực
nông - lâm - thuỷ sản sang các ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ thương
mại đã tạo nên sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu lao động trong các ngành kinh
tế của tỉnh. Trong giai đoạn 1997-2008, tỉ trọng lao động trong các ngành dịch
vụ, thương mại tăng từ 5,52% năm 1997 lên 21,34% năm 2008, ngành công
nghiệp - xây dựng tăng từ 8,04% lên 26,68%. Trong khi đó, lao động trong
ngành nông - lâm nghiệp – thủy sản giảm từ 86,44% xuống 51,97%.
Chất lượng lao động: người dân Vĩnh Phúc có trình độ học vấn khá cao,
có truyền thống hiếu học, cầu thị với những thành tích tốt về giáo dục như tỉ lệ
học sinh đỗ đại học, cao đẳng, phổ cập trung học cơ sở… Đồng thời, vấn đề
nâng cao chất lượng lao động đang được chú trọng, đặc biệt là công tác giáo
dục chuyên nghiệp và giáo dục thường xuyên. Lao động đã qua đào tạo trong
các ngành kinh tế năm 2008 chiếm 42,9% tổng số lao động toàn tỉnh, đến năm
2010 dự kiến đạt 51,2%.
Như vậy, nguồn lao động dồi dào, lao động trong độ tuổi ngày càng tăng,
xu hướng chuyển dịch lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh đang tạo thuận
lợi để ngành thương mại thu hút lao động một cách dễ dàng hơn. Vấn đề quan
trọng là tiếp tục nâng cao chất lượng, đặc biệt là tính chuyên nghiệp của đội
ngũ lao động để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của các ngành kinh tế nói
chung, ngành thương mại nói riêng.
9


1.3. Thu nhập và mức sống dân cư
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê về Mức sống dân cư các năm
2004-2006-2008, tỉnh Vĩnh Phúc có nhịp độ tăng thu nhập bình quân đầu người

cao hơn so với cả nước. Do vậy, sự chênh lệch so với cả nước đã thu hẹp lại.
Năm 2004, thu nhập bình quân đầu người một tháng của Vĩnh Phúc chỉ bằng
83,4% thu nhập bình quân đầu người của cả nước nhưng năm 2008 đã tăng lên
87,6%.
Nếu xét riêng lao động khu vực Nhà nước, xu hướng trên cũng diễn ra
tương tự, làm giảm khoảng cách về thu nhập của lao động khu vực nhà nước
tỉnh Vĩnh Phúc so với cả nước từ 69,4% năm 2004 lên 99,8% năm 2009.
Điều này cho thấy, thu nhập bình quân của dân cư Vĩnh Phúc được cải
thiện với tốc độ nhanh, đồng thời tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh cũng đã giảm từ
12,6% (theo chuẩn nghèo mới) năm 2006 xuống còn khoảng 10,4% năm 2008.
Tuy nhiên, về mức tuyệt đối, thu nhập bình quân của dân cư nói chung và thu
nhập của lao động trong khu vực nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc còn thấp
so với cả nước và và thấp hơn nữa so với Vùng Đồng bằng Sông Hồng. Có thể
thấy rằng, mức tăng thu nhập của dân cư trên địa bàn tỉnh những năm qua hoàn
toàn chưa tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng GDP bình
quân hàng năm. Sự hạn chế về thu nhập sẽ kéo theo hạn chế về khả năng chi tiêu
và là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng tới sự phát triển của các hoạt
động thương mại, thị trường trên địa bàn tỉnh.
Thu nhập và mức sống của người dân nông thôn: Năm 2009, tỉ lệ dân số nông
thôn Vĩnh Phúc vẫn chiếm 77,6% dân số toàn tỉnh. Tuy nhiên, trong cơ cấu thu
nhập của dân cư, phần thu từ các hoạt động nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chỉ chiếm
khoảng 28,0-30%. Đối với các khu vực thuần nông, không có hoạt động gì khác
ngoài sản xuất nông nghiệp thì thu nhập thường ở mức thấp. Thu nhập bình quân
của một nhân khẩu ở nông thôn chỉ bằng 63,5% một nhân khẩu ở thành thị.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, chi tiêu trung bình chiếm
khoảng trên 80% thu nhập hàng tháng của người dân, tại địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc, phần chi tiêu chiếm 86,5% thu nhập. Ở vùng nông thôn của tỉnh, tỉ lệ chi
tiêu trong thu nhập thấp hơn trung bình, chỉ chiếm 81,6%.
Rõ ràng là khi thu nhập thấp thì khả năng chi tiêu của người dân nông thôn
sẽ bị hạn chế hơn nhiều nên sức mua thấp và do đó làm hạn chế qui mô của

nguồn cung từ trong và ngoài tỉnh đến thị trường khu vực nông thôn Vĩnh
Phúc, đặc biệt là các loại hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao.
Trong cơ cấu chi tiêu của người dân Vĩnh Phúc, chi cho đời sống chiếm tới
86,7% tổng số chi tiêu bình quân đầu người, trong đó, mức chi lớn nhất là dành cho
mua thực phẩm, chiếm 20,7%, tiếp theo lần lượt là các khoản chi cho đi lại và bưu
điện, lương thực... Nếu so sánh cơ cấu chi tiêu của dân cư hiện nay với giai đoạn
1997-1998, có thể thấy xu hướng giảm tỉ lệ các khoản chi cho ăn, mặc, uống, ngược
lại là xu hướng tăng các khoản chi mua sắm đồ dùng lâu bền, đi lại và bưu điện, y
tế, giáo dục, nhà, điện, nước, vệ sinh... Tuy nhiên, hiện nay, mức chi tiêu cho đời
10


sống thiết yếu hàng ngày (lương thực, thực phẩm, may mặc, đồ dùng gia đình) vẫn
chiếm 57,4% tổng số chi tiêu hàng tháng của người dân.
Tóm lại, đi liền với thu nhập bình quân đầu người tăng lên là sự thay đổi về cơ
cấu tiêu dùng, thay đổi về số lượng, chất lượng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ... Mặt
khác, những chênh lệch về mức sống cũng dẫn đến sự khác biệt về nhu cầu hàng
hoá và dịch vụ giữa các địa bàn, các vùng trong tỉnh. Những thay đổi đáng kể về
tiêu dùng sẽ diễn ra trước tiên ở khu vực đô thị, hay tại các khu vực có nhiều hộ dân
cư phi nông nghiệp. Ở khu vực nông thôn, khả năng tiêu dùng vẫn chủ yếu tập
trung ở các nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Như vậy, việc tổ chức hệ thống phân phối
hàng hóa và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, các loại hình tổ chức thương mại
và phương thức kinh doanh cần được hình thành từng bước gắn với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và quá trình nâng cao mức sống, nâng cao trình độ tiêu dùng
của người dân.
2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI VĨNH PHÚC
2.1 . Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kể từ khi tái lập tỉnh, nền kinh tế Vĩnh Phúc luôn đạt tốc độ tăng bình
quân hàng năm cao hơn nhiều so với mức bình quân của cả nước, là một trong

những tỉnh có mức tăng cao trong vùng KTTĐBB.
Một số chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001 – 2010

TT
1
1.1
1.2
1.3
2
1.1
1.2
1.3
3
3.1
3.2

Chỉ tiêu

2000

GO, tỷ đồng (giá ss1994)
Tổng số
7.928
NLN, thuỷ sản
1.294
CN, XD
5.552
Dịch vụ
1.082
GDP, tỷ đồng (giá ss1994)

Tổng số
2.791
NLN, thuỷ sản
868
CN, XD
1.127
Dịch vụ
796
GDP bình quân/người
Giá ss (Tr.đ/ng)
2,98
Giá hh (Tr.đ/ng)
3,83

Tăng bình quân
’01-‘05 ‘06-‘10 ‘01-‘10

2005

2009

2010

19.335
1.816
15.443
2.076

41.298
2.286

35.000
4.013

47.371
2.452
40.285
4.634

19,52
7,01
22,70
13,92

19,63
6,19
21,14
17,42

19,57
6,60
21,92
15,66

5.618
1.183
2.904
1.531

10.214
1.358

6.013
2.843

11.517
1.444
6.806
3.267

15,02
6,40
20,84
13,96

15,44
4,07
18,57
16,37

15,23
5,23
19,70
15,16

5,69
8,99

10,21
24,20

11,38

28,50

Nguồn: Niên giám Thống kê; Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
Trong giai đoạn 1998-2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Vĩnh
Phúc đạt 18,22%/năm, giai đoạn 2001-2005 đạt 15,02% và giai đoạn 20062008 đạt tốc độ tăng cao đạt 20,05%. Tính chung cả giai đoạn 1998-2008, nền

11


kinh tế Vĩnh Phúc đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 17,22%/năm.
Dự kiến trong giai đoạn 2001-2010 sẽ đạt tốc độ tăng 15,23%/năm.
Năm 2008 mặc dù chịu ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế trên thế giới cũng như những biến động của nền kinh
tế trong nước như: lạm phát tăng cao vào đầu năm và có biểu hiện giảm phát
vào cuối năm, thiên tai, dịch bệnh xảy ra, đặc biệt là trận mưa lũ lịch sử vào
cuối năm 2008, kinh tế trên địa bàn tỉnh tuy không đạt kế hoạch đề ra nhưng
vẫn tăng trưởng cao hơn so với cả nước. GDP trên địa bàn năm 2008 (giá so
sánh 1994) tăng 17,76% so với năm 2007 (cả nước là 6,23%), trong đó khu vực
công nghiệp – xây dựng tăng 20,02%, khu vực dịch vụ tăng 18,38%, khu vực
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 7,96%.
Năm 2009, khủng hoảng tài chính thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ tới tăng
trưởng kinh tế của cả nước, trong đó có Vĩnh Phúc. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế
giảm xuống còn khoảng 5,36%, sau đó tăng trở lại với nhịp độ khoảng 12,76%
vào năm 2010.
Tính chung cả giai đoạn 2001-2010, GDP Vĩnh Phúc tăng trưởng bình
quân 15,23%/năm, trong đó: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 5,23%/năm; công
nghiệp, xây dựng tăng 19,7%/năm; dịch vụ tăng 15,16%/năm. Nhìn chung, tốc
độ tăng trưởng luôn đạt mức cao trong số các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và
Vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc, cao hơn nhiều so với tốc độ trung bình của
cả nước.

Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định trong cả giai đoạn đã làm cho GDP
bình quân đầu người của Vĩnh Phúc tăng nhanh chóng, đuổi kịp và vượt so với
mức chung của cả nước, từ tỷ lệ 53,5% so với cả nước năm 1997, 85,1% năm
2000, vượt lên đạt 121,1% vào năm 2005 và 127,0% năm 2008. Vĩnh Phúc
đứng thứ 6 trong số 63 tỉnh, thành phố về giá trị GDP bình quân đầu người năm
2008. Nếu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng này trong những năm tới, Vĩnh Phúc
sẽ trở thành một trong những tỉnh có tiềm lực kinh tế phát triển của đất nước.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. GDP của lĩnh vực công
nghiệp - xây dựng tăng với tốc độ nhanh đã làm cho tỉ trọng ngành công nghiệp
–xây dựng trong GDP tăng từ 18,58% năm 1997 lên 58,34% năm 2008, ngược
lại, là sự giảm tương ứng của lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và dịch vụ. Do vậy,
có thể nói, sự phát triển của ngành công nghiệp giữ vai trò chủ yếu trong tăng
trưởng kinh tế của Vĩnh Phúc, trong giai đoạn này Vĩnh Phúc đã nhanh chóng
chuyển từ kinh tế nông nghiệp là chủ yếu sang kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên
khu vực dịch vụ phát triển chậm. Năm 2008, cơ cấu GDP của Vĩnh Phúc theo
các lĩnh vực sản xuất như sau: nông nghiệp chiếm 17,71%, công nghiệp và xây
dựng chiếm 58,34%, dịch vụ chiếm 23,95%; số liệu tương ứng của cả nước là
22,10%, 39,73%, 38,17%.

12


Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội thời kỳ 1997- 2008 theo địa giới hành chính
mới tỉnh Vĩnh Phúc; Niên giám thống kê cả nước năm 2008.

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc và cả nước năm 2008

Nhìn chung, tình hình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vĩnh
Phúc trong giai đoạn vừa qua khá ổn định và vững chắc, có thể làm tiền đề tốt
cho sự phát triển của nền kinh tế trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đóng

góp nhỏ bé của lĩnh vực dịch vụ trong GDP đã thể hiện những hạn chế về phát
triển thị trường hàng hóa và dịch vụ, hạn chế về qui mô và tính phong phú, đa
dạng của nhu cầu sử dụng dịch vụ lưu thông phân phối trên địa bàn tỉnh.

13


Về tình hình thu chi ngân sách: Trong những năm gần đây, thu ngân sách
của tỉnh có tốc độ tăng nhanh, 33,25%/năm trong giai đoạn 2002-2008, đạt
8.965,2 tỉ đồng vào năm 2008. Trong cơ cấu nguồn thu, phần thu trên địa bàn là
chủ yếu, riêng thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt tốc độ tăng rất
nhanh, năm 2008 gấp 30,6 lần năm 2002 và chiếm 61,3% tổng thu ngân sách
trên địa bàn. Kể từ năm 2006, Vĩnh Phúc đã không cần trợ cấp ngân sách từ
trung ương.
Việc cải thiện rõ rệt về nguồn thu ngân sách đã tạo điều kiện thuận lợi cho
chi ngân sách để đầu tư vào các ngành, lĩnh vực kinh tế của tỉnh. Khả năng chi
ngân sách của Vĩnh Phúc là khá lớn và cơ cấu nguồn chi khá cân đối và hợp lý.
Chi cho đầu tư phát triển đang có xu hướng tăng và chiếm khoảng 43,87%
trong tổng chi năm 2008. Nếu xu hướng này tiếp tục diễn ra sẽ tạo điều kiện
tăng nguồn chi cho đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và các
nguồn lực xã hội khác…. Đây là điều kiện thuận lợi để ngành thương mại phát
triển mạng lưới kết cấu hạ tầng thương mại và đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn cho lực lượng lao động của ngành.
2.2. Sự phát triển của các ngành kinh tế chủ yếu
Ngành công nghiệp:
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp (GO) tăng với nhịp độ bình quân hơn
39,7%/năm trong giai đoạn 1998 – 2008. Công nghiệp phát triển mạnh là yếu
tố chính làm cho nền kinh tế Vĩnh Phúc đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh
trong những năm qua.
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước luôn giữ được nhịp độ tăng trưởng ổn

định, khoảng 35,6%/năm trong cả thời kỳ 1998-2008 nên tỉ trọng trong tổng giá
trị sản lượng công nghiệp toàn tỉnh của khu vực này đã tăng từ 6,9% năm 2001
lên 11,06% năm 2008. Đây là một dấu hiệu tốt cho thấy những cố gắng đi lên
từ nội lực để đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài đạt mức tăng trưởng cao, 43,6%/năm và là khu vực có đóng góp
chủ yếu trong giá trị sản xuất công nghiệp với tỉ trọng 82-87% trong cả giai
đoạn. Khu vực kinh tế Nhà nước có nhịp độ tăng chậm hơn nên tỉ trọng của khu
vực kinh tế Nhà nước đã giảm từ 8,5% năm 1998 xuống chỉ còn hơn 1% năm
2008.
- Về cơ cấu các ngành công nghiệp: ngành công nghiệp chế biến (chế tác)
giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỉ trọng trên 99,8% trong tổng giá trị sản xuất toàn
ngành năm 2008 và là ngành tạo ra nguồn thu ngân sách lớn nhất của tỉnh. Do
thực hiện chính sách mở cửa nên Vĩnh Phúc đã thu hút đầu tư nước ngoài xây
dựng các cơ sở công nghiệp có qui mô lớn, hoạt động hiệu quả, đặc biệt là
ngành chế tạo và lắp ráp ô tô (Toyota), xe máy (Honda).
Một số ngành công nghiệp khác như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến
nông sản thực phẩm, cơ khí, may mặc, giày da cũng khá phát triển nhờ khai
thác tốt lợi thế về vị trí, nguồn lợi tự nhiên và nguồn nhân lực dồi dào... Các

14


ngành công nghệp này chủ yếu do các doanh nghiệp trong nước có qui mô vừa
và nhỏ đảm nhiệm.
Ngành công nghiệp sản xuất, phân phối điện nước và ngành công nghiệp
khai thác chiếm tỉ trọng rất nhỏ, hầu như không đáng kể và vẫn đang có xu
hướng giảm.
Sản phẩm chính của doanh nghiệp FDI là ô tô với sản lượng năm 2008 là
31.935 chiếc, xe máy là 1.400,3 nghìn chiếc, thức ăn gia súc 127,4 nghìn
tấn.... Sản phẩm chủ yếu của các doanh nghiệp trong nước là gạch, đá, ngói,

bánh kẹo, rượu, thuốc kháng sinh, quần áo may sẵn, giày thể thao...
Các cơ sở công nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có qui mô sản xuất
khá lớn nhưng chủ yếu là lắp ráp nên giá trị gia tăng chưa cao. Tỉ lệ chi phí
trung gian trong GO công nghiệp năm 2007 là 82,45%.
Ngành công nghiệp được phân bố tập trung chủ yếu ở hai đô thị lớn của
tỉnh là thị xã Phúc Yên (chiếm 68,8% GO công nghiệp toàn tỉnh), thành phố
Vĩnh Yên và huyện Bình Xuyên.
Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong giai đoạn 1998-2008, giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản đạt mức tăng bình quân hàng năm là 16,02 %/năm (giá thực tế), trong đó
giai đoạn 2001-2008, đạt mức tăng bình quân hàng năm là 18,26%/năm.
Trong hơn 10 năm, cơ cấu giá trị sản xuất của ngành ít thay đổi, chỉ diễn
ra sự biến động nhẹ theo hướng tăng tỉ trọng ngành sản xuất nông nghiệp và
thủy sản, giảm tỉ trọng ngành lâm nghiệp. Ngành nông nghiệp luôn chiếm
khoảng 93-95% tổng giá trị sản xuất chung, ngành lâm nghiệp chiếm tỉ trọng
rất nhỏ, đến năm 2008 chỉ còn 1,05%.
+ Đối với sản xuất nông nghiệp:
Trong giai đoạn 1998-2008, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng với nhịp
độ cao hơn nhiều so với ngành trồng trọt và dịch vụ nông nghiệp. Tỉ trọng
ngành chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp đã tăng từ 18,3% năm 1997
lên 46,11% năm 2008, ngược lại ngành ngành dịch vụ nông nghiệp giảm từ
15,43% xuống còn 4,24% và ngành trồng trọt giảm từ 59,15% xuống còn
49,64%, chủ yếu là do giảm diện tích gieo trồng một số cây lương thực.
Tình hình sản xuất và sản lượng một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu của
Vĩnh Phúc:
Cây lương thực: Các loại cây lương thực chính của Vĩnh Phúc là lúa,
ngô. Trong giai đoạn 1997-2004, sản lượng lương thực tăng khá ổn định, tuy
nhiên trong những năm gần đây đang có chiều hướng suy giảm do giảm diện
tích. Sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người của Vĩnh Phúc năm
2008 đạt 366,72kg/người, thấp hơn so với mức bình quân của cả nước

(501,77kg/người). Vùng trồng lúa chính tập trung tại các huyện:Vĩnh Tường,
Lập Thạch, Yên Lạc.
15


Cây công nghiệp ngắn ngày: các cây trồng chính là đậu tương, lạc, mía có
giá trị kinh tế cao. Sản lượng và diện tích trồng mía, đậu tương đang suy giảm.
Cây thực phẩm: chủ yếu là các loại rau, đậu. Sản lượng rau hàng năm
khoảng 100 nghìn tấn và đang có xu hướng tăng. Sản lượng đậu khoảng 250300 tấn. Địa bàn sản xuất rau chính là Vĩnh Tường, Tam Dương.
Cây trồng lâu năm, cây ăn quả: diện tích các loại cây ăn quả tăng khá
nhanh, chủ yếu là do tăng diện tích trồng nhãn, vải, xoài, chuối. Năm 2007, sản
lượng cây ăn quả các loại khoảng trên 61 nghìn tấn, trong đó, riêng sản lượng
chuối chiếm 56,6%, vải chiếm 25,9%. Các huyện có diện tích và sản lượng cây ăn
quả lớn là Lập Thạch, Tam Dương, Tam Đảo, Sông Lô.
Chăn nuôi: đàn bò, đàn lợn và gia cầm tăng nhanh. Năm 2008, số lượng
đàn bò là 142,8 nghìn con, đàn lợn là 480 nghìn con, đàn gia cầm là 6.700
nghìn con. Số lượng đàn trâu là 26,71 nghìn con, giảm so với năm 2004. Các
huyện có số lượng đàn gia súc, gia cầm lớn là Lập Thạch, Vĩnh Tường, Tam
Dương.
+ Đối với sản xuất lâm nghiệp:
Giá trị sản xuất lâm nghiệp cả trong khai thác cũng như nuôi trồng đều có xu
hướng giảm. Riêng năm 2008, do công tác trồng và chăm sóc, bảo vệ rừng luôn
đảm bảo thường xuyên nên diện tích trồng rừng sản xuất tăng 41,6% so với năm
2007. Các sản phẩm chính từ khai thác rừng là gỗ, củi, tre, luồng, lá cọ.
+ Đối với sản xuất thuỷ sản:
Sự gia tăng của ngành sản xuất này trong giai đoạn vừa qua chủ yếu nhờ
lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản mang lại. Sản lượng nuôi trồng thủy sản năm
2008 đạt 13.252 tấn, tăng 11,94% so với năm 2007. Ngược lại, giá trị khai thác
thuỷ sản liên tục giảm trong bốn năm gần đây. Diện tích và sản lượng nuôi
trồng thủy sản (chủ yếu là cá) tập trung ở các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Lập

Thạch, Bình Xuyên.
Tóm lại, nhìn từ hiện trạng phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc có thể
thấy, các hàng hóa sản xuất chính trên địa bàn là lương thực (lúa, ngô, đậu
tương, lạc, mía), thực phẩm (rau, quả, cá, thịt gia súc, gia cầm), hàng công
nghiệp (ôtô, xe máy, quần áo, vật liệu xây dựng, bánh kẹo, thuốc chữa bệnh...).
Đây là những nguồn cung quan trọng cho tiêu dùng tại chỗ, tuy nhiên, do qui
mô và tính cạnh tranh của hàng hóa chưa cao nên không nhiều sản phẩm có khả
năng phát luồng qui mô lớn ra ngoài địa bàn (trừ các sản phẩm của doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài).
2.3. Điều kiện về cơ sở hạ tầng
- Giao thông vận tải:
Hệ thống giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc khá đa dạng bao gồm đường
bộ, đường sắt và đường sông.
16


+ Giao thông đường bộ: bao gồm 4 tuyến quốc lộ có tổng chiều dài 128
km, 12 tuyến tỉnh lộ có tổng chiều dài 302 km, các tuyến giao thông nông thôn
(đường huyện, xã, thôn xóm) có tổng chiều dài 3.410 km. Hệ thống quốc lộ,
tỉnh lộ hầu hết được rải nhựa hoặc bêtông xi măng, đạt tiêu chuẩn cấp IV và
cấp V. Riêng hệ thống giao thông nông thôn, chỉ có 32% đường đã được cứng
hoá lớp mặt (nhựa, bê tông xi măng, lát gạch), còn lại là đường cấp phối và
đường đất.
Nhìn chung, hệ thống giao thông đường bộ của Vĩnh Phúc hiện nay phân
bố khá đồng đều và hợp lý. Hệ thống đường bộ giữ vai trò quan trọng, chiếm
100% khối lượng hành khách và 42,9% khối lượng hàng hoá luân chuyển trên
địa bàn. Tuy nhiên, chất lượng đường và các tiêu chuẩn kỹ thuật còn thấp, khả
năng thông xe của các tuyến đường cửa ngõ ra vào tỉnh hiện tại còn hạn chế.
+ Giao thông đường sông chủ yếu dựa vào hai con sông lớn là sông Hồng
và sông Lô, đảm bảo lưu thông cho các phương tiện có trọng tải không quá 300

tấn. Hai con sông khác là sông Cà Lồ và sông Phó Đáy, thông tuyến trong mùa
mưa, tải trọng không quá 50 tấn. Trên địa bàn tỉnh có ba cảng sông là Chu
Phan, Vĩnh Thịnh trên sông Hồng, cảng Như Thuỵ trên sông Lô. Đây đều là
các cảng tạm, công suất bốc xếp thấp. Khối lượng hàng hoá vận tải đường sông
chiếm 57,1% tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển trên địa bàn.
+ Giao thông đường sắt: Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy qua 6
huyện với chiều dài 41km và 6 ga, có hai ga chính là Phúc Yên và Vĩnh Yên.
Các nhà ga xây dựng đã lâu nên đã xuống cấp.
Hệ thống giao thông trên địa bàn khá phát triển và đang được quan tâm
đầu tư đã tạo điều kiện nhất định để giao lưu kinh tế và thông thương hàng hóa
trong tỉnh và tới các địa phương khác. Tuy nhiên, những hạn chế về chất lượng
của hệ thống giao thông như tiêu chuẩn kỹ thuật đường bộ thấp, các nhà ga,
cảng sông lạc hậu, xuống cấp…. đã làm hạn chế năng lực khai thác các phương
tiện vận tải, chưa đáp ứng tốt cho nhu cầu vận chuyển hàng hoá ngày càng tăng
trên và qua địa bàn.
- Điện lực, bưu chính viễn thông
Mạng lưới cấp điện của tỉnh khá tốt do được cấp điện từ mạng lưới điện
quốc gia, do hệ thống truyên tải và phân phối được qui hoạch và đầu tư đồng
bộ. Nhìn chung, ngành điện lực đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất
và sinh hoạt của nhân dân. Đến nay 100% số xã, phường có điện lưới quốc gia,
100% hộ dân cư có điện. Tuy nhiên, để đảm bảo quá trình phát triển và mở
rộng sản xuất, mở rộng nhu cầu tiêu dùng của dân cư, vẫn cần lắp đặt thêm hệ
thống đường dây và trạm biến áp, nâng cấp và hiện đại hóa lưới điện,….
Giá trị sản xuất của ngành vận tải, bưu điện tăng nhanh với nhịp độ
33,35%/năm trong giai đoạn 2001-2008. Đến năm 2010, Vĩnh Phúc có 27 bưu
cục, 123 điểm bưu điện với bán kính phục vụ bình quân là 1,7 km/điểm và số
dân phục vụ bình quân là 7.062 người/bưu cục. Mạng viễn thông có công nghệ
17



hiện đại tương đương mức trung bình của khu vực với 100% số xã, phường đã
phủ sóng viễn thông. Mật độ điện thoại cố định đạt 10 máy/100 dân. Quá trình
phổ cập tin học trong học tập, sản xuất và quản lý phát triển khá nhanh. Nhìn
chung, hạ tầng viễn thông, thông tin của Vĩnh Phúc đã có bước phát triển
mạnh, đáp ứng nhu cầu sử dụng hiện tại và có khả năng cung cấp các dịch vụ
mới, hiện đại. Tuy nhiên, các chỉ tiêu về sử dụng dịch vụ viễn thông và Internet
trên địa bàn tỉnh vẫn ở mức thấp hơn so với cả nước.
3. TÁC ĐỘNG CỦA BỐI CẢNH BÊN NGOÀI ĐẾN PHÁT TRIỂN
NGÀNH THƯƠNG MẠI VĨNH PHÚC
3.1. Tác động của thị trường thế giới đến phát triển thương mại Vĩnh Phúc
3.1.1. Các xu hướng chủ yếu của thị trường quốc tế ảnh hưởng đến phát
triển thương mại Vĩnh Phúc.
- Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm xuất hiện
những xu thế mới trong phát triển thương mại của thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và
cuộc cách mạng sinh học sẽ tiếp tục phát triển theo chiều sâu, ngày càng trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có những tác động tích cực đến việc cơ
cấu lại nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của công nghệ thông tin với mạng
Internet toàn cầu, mạng liên lạc viễn thông là công cụ hữu hiệu nhất kết nối tất
cả các nền kinh tế. Đồng thời, tạo tiền đề cho phát triển các hình thức kinh
doanh hiện đại như thương mại điện tử,..., phát triển các liên kết thương mại và
mở rộng mạng lưới kinh doanh toàn cầu.
Gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, của nền kinh
tế tri thức là sự phát triển mạnh của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế thế giới
và trong mỗi nền kinh tế. Dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP của
các nước. Thời kỳ 2010-2020, dịch vụ có thể chiếm khoảng 80-85% GDP của
các nước phát triển, 52% GDP của các nước đang phát triển. Các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ điều chỉnh chiến lược đầu tư theo hướng: chuyển từ các ngành
chế tạo và ngành sơ chế sang các ngành dịch vụ. Trong khu vực dịch vụ, 6575% vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào các ngành tài chính, vận tải, viễn
thông và dịch vụ phân phối, kinh doanh. Do vậy, đến thời kỳ 2011-2020, dịch

vụ sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong các nền kinh tế, trong đó, dịch vụ
phân phối đóng một vị trí quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia.
- Tác động của toàn cầu hoá và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế làm xuất
hiện xu thế tập trung hoá và chuyên nghiệp hoá trong ngành thương mại.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do hoá thương mại sẽ
được đẩy mạnh, các dòng vốn, lao động, hàng hoá và dịch vụ ngày càng được
mở rộng. Xu hướng toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ và đi vào chiều sâu kéo theo
nó là xu thế tập trung hoá dẫn đến sự phát triển của các tập đoàn đa quốc gia và
xuyên quốc gia trong lĩnh vực phân phối. Sự xuất hiện của các tập đoàn sẽ làm
18


mở rộng và phát triển thị trường nội địa của các nước, đặc biệt đối với các nước
đang phát triển. Sự có mặt của những tập đoàn này tại các nước không chỉ tạo
nên sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ phân phối trong và
ngoài nước mà còn làm cho các dịch vụ cung cấp ngày càng đa dạng, phong
phú, thuận tiện và mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng.
Xu hướng này tác động mạnh đến cạnh tranh quốc tế giữa các tập đoàn
phân phối lớn của thế giới để mở rộng thị trường, chiếm giữ thị phần cũng như
giữa các tập đoàn này với các doanh nghiệp của các nước sở tại (nhất là các
nước đang phát triển như Việt Nam), buộc các doanh nghiệp trong nước phải
điều chỉnh chiến lược kinh doanh thích ứng với quá trình mở cửa thị trường
trong nước. Điều này cho thấy những thách thức của ngành thương mại trong
thời gian tới, đặc biệt trong việc phát triển dịch vụ phân phối chuyên nghiệp,
trong việc giải quyết những xung đột giữa các doanh nghiệp thương mại vừa và
nhỏ trong nước với các tập đoàn phân phối nước ngoài, trong việc tạo môi
trường cạnh tranh công bằng cho các nhà phân phối trên địa bàn tỉnh và bảo vệ
lợi ích của người tiêu dùng.
- Xu hướng phát triển của ngành dịch vụ phân phối thế giói có những đặc

trưng như: nhất thể hoá sản xuất- bán buôn- bán lẻ để tạo mạng lưới phân
phối rộng rãi, xuất hiện các doanh nghiệp thương mại lớn hoặc các hệ thống
siêu thị, đại siêu thị, trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại.
Các cửa hàng nhỏ truyền thống được thay thế bằng những cửa hàng bách
hoá lớn hơn, quy mô trung bình của một cửa hàng tăng lên cả về doanh thu và
lao động, mật độ phân bố cửa hàng bán lẻ giảm xuống. Hình thành hệ thống
kinh doanh chuỗi hoặc nhượng quyền của các công ty lớn hướng tới các phân
đoạn chuyên biệt hơn trên thị trường. Vai trò của bán buôn truyền thống suy
giảm, nhất là trên thị trường hàng tiêu dùng do các nhà sản xuất tự kiểm soát
việc phân phối hoặc các nhà bán lẻ mở rộng buôn bán tận gốc. Ngược lại, vai
trò của các nhà bán buôn hiện đại tăng lên, nhất là đối với việc cung cấp trọn
gói hàng tiêu dùng có giá trị cao, hàng vật liệu có số lượng lớn. Phương thức
quản lý phát triển theo hướng tự động hoá quá trình quản lý và xây dựng
thương hiệu cho doanh nghiệp và sản phẩm. Đi kèm với nó là phương thức
kinh doanh mới như thương mại điện tử, nhượng quyền thương mại, sàn giao
dịch hàng hoá sẽ giữ vai trò chủ đạo trong thời kỳ 2010-2020. Cạnh tranh chủ
yếu thông qua mở rộng quy mô, nâng cao trình độ chuyên nghiệp hoá và tiêu
chuẩn hoá mạng lưới phân phối ... để giảm chi phí.
Những xu hướng này sẽ có tác động và chi phối nhiều đến cơ cấu cũng
như tầm quan trọng của từng phân ngành trong ngành dịch vụ phân phối. Quá
trình phát triển ngành thương mại Vĩnh Phúc cần được định hướng phù hợp
theo những xu hướng phát triển ngành dịch vụ phân phối của thế giới để chủ
động hội nhập vào thị trường dịch vụ phân phối toàn cầu.

19


- Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ phân phối trong nước sẽ làm gia
tăng những tác động của thị trường phân phối thế giới đến sự phát triển của
ngành thương mại tĩnh Vĩnh Phúc.

Năm 2009, Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường dịch vụ phân phối theo
cam kết gia nhập WTO. Thị trường bán lẻ của Việt nam được coi là có sức hấp
dẫn hàng đầu thế giới nên sẽ là sức hút rất lớn đối với nhiều tập đoàn và công
ty thương mại lớn. Cùng với quá trình thực thi cam kết mở cửa thị trường dịch
vụ phân phối sẽ là sự xuất hiện ngày càng nhiều các nhà phân phối bán buôn,
bán lẻ hàng đầu thế giới tại Việt Nam, mở rộng và làm phong phú thị trường
nội địa của cả nước và của Vĩnh Phúc. Một mặt, vừa tạo thêm cơ hội để hợp
tác giữa các nhà phân phối trong nước với các đối tác này, vừa cải thiện cơ cấu
thương mại theo hướng hiện đại, làm cho các dịch vụ phân phối ngày càng đa
dạng, phong phú, thuận tiện và mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng nhưng
mặt khác sẽ tạo sức ép cạnh tranh gay gắt hơn. Cụ thể là, sẽ có các nguồn vốn
đầu tư nước ngoài vào phát triển các loại hình thương mại trong nước và của
tỉnh Vĩnh Phúc, đặc biệt là các loại hình hiện đại, qui mô lớn, nhưng sẽ gây
nhiều áp lực cho việc phát triển các loại hình thương mại truyền thống. Do vậy,
rất cần những định hướng phát triển và phân bố cơ cấu các loại hình thương
mại cùng với các giải pháp thích hợp nhằm khai thác những yếu tố thuận lợi và
khắc phục những tác động bất lợi từ những ảnh hưởng trên.
3.1.2. Khủng hoảng kinh tế tác động đến thị trường phân phối thế giới
và các quốc gia
- Biểu hiện rõ rệt nhất của khủng hoảng kinh tế (năm 2008 và các tháng
đầu năm 2009) là sự suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới, thậm chí là tăng
trưởng âm ở các cường quốc kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, EU. Hệ quả tiếp theo
là sự suy thoái, phá sản của các tập đoàn kinh tế lớn làm ảnh hưởng sâu rộng
đến hầu hết các quốc gia: cơ cấu lại đầu tư, thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động,
cắt giảm tiền lương… Tác động hạn chế đến hệ thống lưu thông phân phối thế
giới và từng quốc gia đã và sẽ xảy ra cả trên hai phương diện từ nguồn cung và
nguồn cầu. Cung giảm do thu hẹp sản xuất, cầu giảm do thu hẹp thu nhập và
sức mua làm hạn chế qui mô và cường độ của các kênh, luồng hàng hóa.
- Suy thoái kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng mạnh đến nước ta và Vĩnh Phúc.
Theo dự báo của IMF và WB, kinh tế Việt nam vẫn gặp không ít khó khăn và

tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới chỉ có thể đạt cao nhất khoảng 5-6%/năm,
đi cùng với điều đó là giảm tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa, giảm qui mô
xuất khẩu... Vĩnh Phúc là tỉnh mà khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai
trò quan trọng trong tăng trưởng ngành công nghiệp nói riêng, tăng trưởng kinh
tế nói chung, đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hóa rõ ràng sẽ
không tránh khỏi đà suy giảm chung của cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế
và các lĩnh vực, trong đó có ngành thương mại. Các hoạt động thương mại thị
trường trên địa bàn tỉnh sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp theo hướng hạn chế các
nguồn đầu tư mở rộng kinh doanh và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại.

20


3.2. Xu thế phát triển kinh tế, thương mại của cả nước, của vùng tác
động đến phát triển thương mại Vĩnh Phúc.
3.2.1. Định hướng phát triển kinh tế, thương mại của cả nước, của vùng
Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tác động đến phát triển thương mại tỉnh Vĩnh
Phúc
- Môi trường kinh tế trong nước:
+ Kinh tế phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao là cơ sở kinh
tế để phát triển ngành thương mại cả nước nói chung và ngành thương mại
Vĩnh Phúc nói riêng;
+ Hội nhập kinh tế của Việt Nam vào khu vực và thế giới ngày càng sâu
rộng, một mặt tạo sức ép cạnh tranh buộc các ngành sản xuất phải thực hiện và
tham gia vào phân công lao động xã hội, nhờ vậy mở rộng được nhu cầu sử
dụng dịch vụ phân phối hàng hoá của các ngành sản xuất, tạo cơ sở phát triển
cho ngành thương mại Vĩnh Phúc. Mặt khác, tạo khả năng thu hút đầu tư nước
ngoài vào phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ thương mại đặc biệt là xuất
khẩu, trung tâm thương mại, kho bán buôn, chợ bán buôn nông sản hiện đại,
sàn giao dịch, các dịch vụ logistics,...

+ Thể chế thị trường đang được xây dựng và hoàn thiện tạo thuận lợi cho
sự phát triển các hệ thống thị trường hàng hoá, tạo điều kiện để phát triển hệ
thống phân phối hàng hoá hiện đại trên địa bàn tỉnh.
+ Các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng đã được đầu tư phát triển khá
nhanh trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Trong đó, hệ thống đường giao thông, nhất là giao thông nông thôn đã phát
triển nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho giao lưu kinh tế, vận tải, vận
chuyển hàng hoá trong tỉnh và với các địa phương khác.
+ Các ngành dịch vụ tài chính, khoa học - công nghệ, ngân hàng, bưu
chính - viễn thông, vận tải... phát triển nhanh và chất lượng hơn sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các dòng lưu chuyển hàng hoá, tiền tệ, thông tin... trong các hệ
thống phân phối hàng hoá, nhờ vậy thúc đẩy nâng cao năng suất lao động và
giảm chi phí lưu thông, tạo giá trị gia tăng cao hơn cho ngành thương mại Vĩnh
Phúc.
- Định hướng phát triển thương mại cả nước tạo điều kiện thuận lợi cho
ngành thương mại Vĩnh Phúc thực hiện tốt các định hướng và mục tiêu phát
triển đến năm 2020 và năm 2030.
Các chiến lược và đề án phát triển thương mại nội địa và xuất khẩu hàng
hoá, hội nhập kinh tế quốc tế của Chính phủ đang được thực hiện, trong đó có
xác lập các quan điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển ngành
thương mại cả nước:
Mục tiêu chủ yếu phát triển thương mại của cả nước là: Xây dựng một
nền thương mại trong nước phát triển vững mạnh và hiện đại, dựa trên một cấu
21


trúc hợp lý các hệ thống và các kênh phân phối với sự tham gia của các thành
phần kinh tế và loại hình tổ chức, vận hành trong môi trường cạnh tranh có sự
quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước….phát huy vai trò và vị trí của thương
mại trong nước trong việc định hướng và thúc đẩy sản xuất phát triển, định

hướng và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng của nhân
dân, góp phần phát triển xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng
trưởng kinh tế; đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu
hẹp dần nhập siêu, phấn đấu tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế
biến có giá trị gia tăng cao, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới,
củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thị trường ổn định; phát triển
nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất
lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới.
+ Đóng góp của thương mại trong nước vào tổng sản phẩm trong nước
(GDP) của cả nền kinh tế đến 2010 đạt trên 200 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ trọng
14,5%), đến năm 2020 đạt gần 450 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ trọng khoảng
15%); Tốc độ tăng bình quân hàng năm (đã loại trừ yếu tố giá) của tổng mức
bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn từ nay đến năm 2010
khoảng 11%/năm, trong các giai đoạn tiếp theo trên 10%/năm. Đến năm 2010,
tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khoảng 800 nghìn
tỷ đồng và đến năm 2020 đạt khoảng 2.000 nghìn tỷ đồng;
+ Thời kỳ 2006-2010, dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt tốc
độ tăng bình quân hàng năm là 16%/năm, đạt 66,8 tỷ USD năm 2010 và 254,2
tỷ USD trong cả thời kỳ. Dự kiến tổng kim ngạch nhập khẩu có tốc độ tăng
trưởng bình quân là 14,5%/năm, đạt 73,5 tỷ USD năm 2010 và 286,5 tỷ USD
cả thời kỳ.
Quá trình thực hiện các chỉ tiêu phát triển ngành thương mại Việt Nam đến
năm 2020 sẽ tạo thuận lợi cho ngành thương mại Vĩnh Phúc thực hiện tốt
những định hướng đã được xác định trên cơ sở nâng cao vai trò, vị trí của
ngành thương mại đối với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng
dẫn các ngành sản xuất tham gia vào hệ thống thị trường, nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân.... Vì vậy, qui hoạch phát triển ngành thương mại Vĩnh
Phúc giai đoạn tới cần phải phù hợp với mục tiêu, định hướng và giải pháp phát
triển thương mại cả nước.
- Định hướng phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ và vùng Thủ đô Hà Nội tác động đến sự phát triển ngành thương
mại tỉnh Vĩnh Phúc
Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế- xã hội vùng Đồng bằng
sông Hồng và vùng Kinh tế trong điểm Bắc Bộ đã xác lập những nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của vùng đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 như sau:

22


+ Mục tiêu: Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội
hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát
huy tối đa các lợi thế về tài nguyên, nguồn nhân lực, trí tuệ của đội ngũ tri thức,
doanh nhân; tiếp tục khẳng định rõ vai trò của vùng kinh tế động lực, đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế của cả nước, thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác; phấn đấu
đạt mục tiêu cơ bản trở thành vùng công nghiệp trước năm 2020...
+ Nhiệm vụ chủ yếu: nhịp độ tăng GDP bình quân hàng năm đạt 1112%/năm (trong đó công nghiệp- xây dựng:14,3- 15,3%/năm, dịch vụ: 1011%/năm, nông - lâm - ngư nghiệp: 3,5- 4,0%/năm). Riêng vùng Kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân của vùng: xuất
khẩu tăng 9-10%/năm, chiếm 20-25% tổng giá trị xuất khẩu cả nước; tỷ trọng
GDP đạt khoảng 23-24% so với GDP cả nước vào năm 2010 và 26-27% vào
năm 2020; đến năm 2010, công nghiệp - xây dựng chiếm 42%, dịch vụ- 48%,
nông nghiệp - 10% trong tổng GDP.
+ Tập trung phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch để nhanh
chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hình thành các trung tâm thương mại,
khu du lịch... hiện đại, chất lượng cao, ngang tầm khu vực và quốc tế mà hạt
nhân là Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long - Quảng Ninh.
+ Đầu tư xây dựng hệ thống giao thông và kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát
triển đô thị và nông thôn văn minh, hiện đại.
Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 5 tháng 5 năm 2008 phê duyệt Qui
hoạch Vùng Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, theo đó,

mục tiêu phát triển của Vùng Thủ đô là :”Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của
Vùng Thủ đô nhằm phát triển Thủ đô Hà Nội có đủ chức năng và vị thế của
một trung tâm đô thị hiện đại trong khu vực…..Phát triển hài hòa nâng cao chất
lượng hệ thống đô thị trong vùng nhằm giảm sự tập trung vào Thủ đô Hà
Nội…”. Trong định hướng phát triển không gian vùng Thủ Đô, Vĩnh Yên được
lựa chọn phát triển thành đô thị cấp vùng, phát triển hệ thống dân cư, đô thị và
các dịch vụ hạ tầng xã hội. Vĩnh Phúc cũng được xác định là vùng đối trọng
phát triển phía Bắc - Đông Bắc, hình thành các khu công nghiệp đô thị. Phúc
Yên, Vĩnh Yên được đặt trong tổ chức không gian công nghiệp vùng Thủ Đô
với định hướng phát triển các ngành công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử.
Vùng du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng Tam Đảo và Tây Thiên được lựa chọn phát
triển thành trung tâm du lịch cấp quốc gia….
Là tỉnh nằm trong vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng
sông Hồng và vùng Thủ đô Hà Nội, Vĩnh Phúc có thể khai thác các lợi thế phát
triển ngành thương mại của tỉnh gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng kinh tế. Đó là: 1) Để đạt được mục
tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh với vai trò là Vùng kinh
tế động lực thì nhu cầu sử dụng dịch vụ phân phối chuyên nghiệp của các
ngành sản xuất trong vùng sẽ tăng cao ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu,
mặt khác, tạo nên quỹ hàng hoá có qui mô lớn, có sức cạnh tranh cao, tạo điều
23


kiện thuận lợi để ngành thương mại cung ứng các dịch vụ phân phối chuyên
nghiệp; 2) Thông qua liên kết chặt chẽ với các nhà sản xuất trong vùng, ngành
thương mại Vĩnh Phúc có khả năng tham gia vào các liên kết dọc, hình thành
chuỗi cung ứng có giá trị gia tăng cao và bền vững cho các sản phẩm có lợi thế
trong vùng.
3.2.2. Cạnh tranh và hợp tác trong phát triển thương mại của Vĩnh Phúc
với các địa phương và các vùng kinh tế

- Thị trường các tỉnh vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Vùng Kinh tế trọng
điềm Bắc Bộ bao gồm 7 tỉnh, thành phố, có vị trí và vai trò trọng yếu về chính
trị, kinh tế văn hoá, xã hội, đối ngoại và an ninh quốc phòng của cả nước. Dự
báo, tăng trưởng kinh tế của vùng trong giai đoạn 2011-2020 cao gấp 1,3-1,5
lần mức bình quân chung của cả nước.
Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ sẽ là thị trường cung ứng và tiêu thụ
hàng hoá lớn của cả nước và là cơ hội lớn cho các nhà sản xuất, phân phối nói
chung và của Vĩnh Phúc nói riêng. Trong vùng có Hà Nội, Hải Phòng là hai
thành phố lớn, hai trung tâm công nghiệp - thương mại - dịch vụ của cả nước.
Một số tỉnh khác có những đặc trưng khác biệt như: Quảng Ninh có thế mạnh
về phát triển ngành công nghiệp than và kinh tế biển, Hải Dương có ngành
công nghiệp sành sứ, Bắc Ninh có nhiều làng nghề truyền thống v.v...
Mặt khác, các tỉnh trong Vùng KTTĐBB có nhiều nét tương đồng với
Vĩnh Phúc với những lợi thế nổi trội về nhân lực và nguồn lao động, có tiềm
năng phát triển kinh tế công nghiệp, nông nghiệp và du lịch, dịch vụ... Đây
đồng thời là thị trường tiêu thụ và thị trường cung ứng vật phẩm hàng hoá có
khối lượng lớn và đa dạng. Do vậy, sự liên kết kinh tế của Vĩnh Phúc đối với
khu vực thị trường này là trao đổi nguồn nhân lực, thông tin kinh tế, triển khai
ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, các kinh
nghiệm phát triển thương mại dịch vụ, khai thác và bổ sung cho nhau các sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ thế mạnh của mỗi địa phương.
- Thị trường Hà Nội: Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hoá, khoa học, đầu mối giao lưu thương mại trong nước và quốc tế. Nghị quyết
15-NQ/TW của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội của Uỷ ban Thường
vụ quốc hội đã xác định xây dựng Hà Nội thành thủ đô hiện đại, có kết cấu hạ
tầng phát triển ngang tầm thủ đô các nước trong khu vực.
Theo Quyết định số 1878/QĐ–TTg ngày 22/12/2008 của Thủ tướng Chính
phủ về Phê duyệt nhiệm vụ Qui hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2050, dự báo dân số Hà Nội năm 2030 khoảng 10
triệu người, thu nhập bình quân đầu người năm 2020 khoảng 4000-4.700 USD,

nhu cầu sử dụng dịch vụ bán lẻ hiện đại từ 75-80%, tổng mức bán lẻ hàng hóa
từ 25-27 tỉ USD.
Hà Nội đã và sẽ là thị trường quan trọng của Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc có thể
mở rộng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác phát triển thương
24


mại, dịch vụ. Hà Nội là thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa sản xuất
trong tỉnh (nông sản, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, sản phẩm du lịch, dịch
vụ …), đồng thời cũng là thị trường cung ứng chính cho nhu cầu phát triển
thương mại và thị trường của tỉnh (lao động có kỹ năng, công nghệ và qui
trình kinh doanh tiên tiến, hàng tiêu dùng thông thường và cao cấp …). Hà Nội
là đối tác tiềm năng có thể kêu gọi đầu tư, liên doanh, liên kết để sản xuất chế
biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu.
-Thị trường các tỉnh miền núi trung du phía Bắc: Đây là khu vực thị
trường đang phát triển với nhiều tiềm năng mà Vĩnh Phúc có thể khai thác như:
thu hút nông sản, khoáng sản thô cho phát triển công nghiệp chế biến. Thông
qua phát triển các dịch vụ thương mại để làm cầu nối trung chuyển hàng hoá
giữa các tỉnh Miền núi trung du với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các địa
phương khác. Đồng thời, Vĩnh Phúc có thể tăng cường liên kết với các đối tác
ở một số tỉnh có biên giới, cửa khẩu như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang,
Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu…. để xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc và
Lào.
Nằm trên tuyến hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội – Hải Phòng – Quảng
Ninh, Vĩnh Phúc có thể tham gia vào từng khâu của quá trình lưu thông hàng
hóa, phát triển thương mại gắn với thị trường các địa phương trên tuyến hành
lang, với thị trường Trung Quốc và ASEAN.
- Thị trường các tỉnh phía Nam: Khu vực thị trường năng động, giàu tiềm
năng, có nhiều địa phương thuộc vùng động lực tăng trưởng của cả nước, trong
đó nổi bật là thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Tuy

có khoảng cách khá xa về địa lý nhưng với sự cải thiện năng lực giao thông của
đất nước, Vĩnh Phúc hoàn toàn có thể đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại
theo các hướng như thu hút đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng thương mại,
hiện đại hóa loại hình và phương thức kinh doanh, trao đổi các hàng hoá nông
sản đặc trưng của từng vùng miền, phát huy lợi thế trung chuyển hàng hóa của
Vĩnh Phúc, kết nối thị trường các tỉnh phía Nam với thị trường miền núi phía
Bắc và thị trường Trung Quốc.
3.3. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, định hướng phát triển các
ngành, lĩnh vực của tỉnh Vĩnh Phúc liên quan trực tiếp đến phát triển
thương mại.
Theo dự thảo Qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030, mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh là “Đến năm 2015, xây dựng tỉnh Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh có
yếu tố cơ bản của một tỉnh công nghiệp. Đến năm 2020 trở thành một tỉnh công
nghiệp, là một trong những trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du lịch của khu
vực và cả nước; nâng cao rõ rệt mức sống nhân dân…; tạo tiền đề cơ bản để
trở thành Thành phố Vĩnh Phúc trong giai đoạn tiếp theo…” Một số mục tiêu
phát triển cụ thể như sau:
25


×