Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ SAU đại HỌC, PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG VÀ THỂ CHẾ KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.19 KB, 32 trang )

PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ THỂ CHẾ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
* * *
I. Những vấn đề chung về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam
1.Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới
a. Từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ giản đơn
- Trước chủ nghĩa tư bản, lịch sử loài ngưòi đã trải qua ba phương thức
sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Mỗi phương
thức đó đều vận động trong sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng tất cả các phương
thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên.
Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế.
- Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp mang tính chất tự nhiên là
tiến lên sản xuất hàng hóa giản đơn. Điều kiện cho quá trình chuyển hóa này
là sự phát triển phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối của các chủ
thể kinh tế. Phân công lao động xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa. Chính sự
phát triển ngày càng sâu rộng của phân công lao động xã hội là nhân tố chủ
yếu dẫn đến hình thành thị trưòng trong nuớc. Qúa trình này làm nảy sinh
những khu vực chuyên môn hóa và dẫn dến sự trao đổi không những giữa sản
phẩm nông nghiệp với sản phẩm công nghiệp, mà cả giữa các sản phẩm nông
nghịêp với nhau.
- Sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp, sự hình thành những trung
tâm công nghiệp, sức hút của chúng đối với dân cư ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống nông thôn thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa phát triển.
- Những ngưòi sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự
nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác
nhau có hiệu quả hơn. Ngay trong một vùng, một địa phương những người
sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác



nhau. Mỗi ngưòi sản xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu
thế, đem sản phẩm của mình trao đổi lấy những sản phẩm cần thiết cho sản
xuất và đời sống của mình. Họ trở thành những ngưòi sản xuất hàng hoá. Trao
đổi, mua, bán, thị trường, tiền tệ ra đời và phát triển.
Sản xuất hàng hóa ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hóa nhỏ
giản đơn, nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại.
b. Từ kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ giản đơn đến sản xuất hàng hóa lớn
tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của nền kinh tế thị trưòng tư bản chủ nghĩa
- Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ giản
đơn, nhưng có đặc điểm cơ bản khác với kinh tế hàng hóa giản đơn. Ở đây,
người sản xuất trực tiếp là công nhân làm thuê, không phải là người sở hữu tư
liệu sản xuất, còn tư liệu sản xuất thuộc nhà tư bản, sản phẩm lao động do
những công nhân làm thuê tạo ra thuộc về chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời khi có hai điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, phải có sự tập trung một số tiền lớn vào trong tay một số ít
ngưòi đủ để lập ra các xí nghiệp
- Thứ hai, các ông chủ xí nghiệp phải tìm được ngưòi lao động làm thuê.
Đó là những người tự do sở hữu năng lực lao động của mình, có thể bán sức
lao động cho ngưòi cần mua trong quan hệ bình đẳng với nhau về mặt pháp
lý… Hai điều kiện ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đó đã
xuất hiện do sự phát triển của sản xuất hàng hóa giản đơn dưới tác động của
quy luật giá trị.
- Do tác động tự phát của quy luật giá trị, do sự biến động của giá cả và
cạnh tranh đã làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa và trong giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản. Kinh tế hàng hóa
giản đơn đẻ ra chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, nếu chỉ dưới tác động của quy luật giá trị thì cần có một thời
gian lịch sử lâu dài mới có thể tạo ra những điều kiện cho sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản.Trong thực tế, lịch sử ra đời của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã được đẩy nhanh nhờ quá trình tích lũy ban đầu của tư bản.



Trong quá trình này nhà nứớc tư sản đóng vai trò hết sức quan trọng, tạo ra
những tiền đề kinh tế chính trị làm bà đỡ cho sự ra đời và phát triển của nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
c. Các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
- Giai đoạn phát triển kinh tế thị trường sơ khai gắn liền với quá trình
tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản
Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản ra đời bằng việc kết hợp cả quá trình
phân hóa của những người sản xuất hàng hóa nhỏ giản đơn với sự can thiệp
của nhà nước tư sản vào các chính sách kinh tế với nông dân. Quá trình này
diễn ra ở các nước Tây Âu chủ yếu vào hồi thế kỷ XVI – XVIII. Tích lũy ban
đầu của tư bản là khởi điểm của sự thiết lập phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, là sự phát sinh của tư bản trong lịch sử mà thực chất của nó là việc xóa
bỏ chế độ tư hữu dựa trên lao động của chính bản thân.
- Giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do
Đây là thời kỳ phát triển tư do cạnh tranh của nền kinh tế thị trưòng tư
bản chủ nghĩa, chưa có sự can thiệp sâu của nhà nước vào các quá trình kinh
tế. Mọi sự vận động biến đổi của nền kinh tế diễn ra một cách tự nhiên dưới
tác động trực tiếp của các quy luật kinh tế thị trưòng. Nhà nước tư sản đóng
vai trò là người gác cửa, bảo vệ lợi ích cho các hoạt động kinh tế trong xã
hội.Trong thời kỳ này, lý thuyết về “ Bàn tay vô hình” của A.Đ. Smith được
thịnh hành và được coi là lý thuyết chủ đạo của nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa.
- Giai đoạn phát triển kinh tế thị trường hiện đại có sự can thiệp của
nhà nước
Sự ra đời của các tổ chức độc quyền và sự thâm nhập ngày càng sâu
của các tổ chức độc quyền vào các hoạt động của nhà nước, đồng thời tính
chất xã hội hóa ngày càng cao của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa những
năm đầu thế kỷ XX đòi hỏi cần có sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt

động kinh tế. Nhà nước tư sản không còn đứng ngoài quá trình kinh tế mà
đã đóng vai trò trực tiếp can thiệp vào nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế thị


trường tư bản chủ nghĩa. John Maynrd Keynes - nhà kinh tế học người
Anh đã đề xướng lý thuyết “ bàn tay hữu hình”, nhấn mạnh vai trò điều
tiết kinh tế của nhà nước. Với lý thuyết này, J.M. Keyns được coi như
kiến trúc sư của thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa- giai đoạn độc
quyền nhà nước. Tuy nhiên, những năm sau này, do quá trình quốc hữu
hóa được đẩy mạnh ở nhiều nước, làm cho khu vực kinh tế nhà nước tăng
nhanh cùng với sự can thiệp quá sâu vào kinh tế của nhà nước và khu vực
doanh nghiệp nhà nước đã ảnh hưởng đến lợi ích của các tập đoàn tư bản
độc quyền, học thuyết này đã bị công kích từ nhiều phía. Để thích ứng với
hoàn cảnh, học thuyết Keynes mới đã ra đời.
d. Các con đường phát triển kinh tế thị trường trên thế giới
- Phát triển kinh tế thị trường theo con đường tuần tự cổ điển của các
nước Âu - Mỹ. Ở đây, kinh tế thị trưòng phải lần lượt trải qua tất cả các giai
đoạn nhất định( 3 giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản từ hiệp tác giản
đơn đến công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí)và do đó thời gian
kéo dài hàng trăm năm, thậm chí mấy trăm năm. Con đường này là con đường
của những nước đi tiên phong trong quá trình công nghiệp hóa, bắt buộc phải
tự xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ của chính mình. Ngày nay hoàn
cảnh không cho phép và cũng không bắt buộc phải lặp lại con đường phát
triển kinh tế thị trường tuần tự.
- Phát triển kinh tế thị trường theo con đường rút ngắn cổ điển của Nhật
Bản
Bí quyết con đường này là ở chỗ biết khai thác lợi thế của người đi sau và
phát huy nội lực để tranh thủ tối đa ngoại lực là vốn liếng, công nghệ và tri
thức phương Tây. Nhà nước Nhật chủ động tạo dựng môi trường thể chế thuận
lợi kết hợp với việc đề ra một hệ thống cơ chế, chính sách và sử dụng công cụ

điều tiết linh hoạt, mềm dẻo. Công thức nổi tiếng của người Nhật là: kỹ thuật
và cơ chế thị trường phương Tây kết hợp với tinh thần Nhật Bản và văn hóa
Khổng giáo phương Đông.


- Con đường phát triển rút ngắn hiện đại của các nước và lãnh thổ Châu
Á -NICs cách chúng ta chưa lâu.
Đây hoàn toàn là sản phẩm của thời đại mới. Nó một mặt, vừa hội tụ
được ưu điểm của con đưòng phát triển rút ngắn cổ điển; mặt khác lại biết
phát huy vai trò điều tiết mạnh và thông minh của nhà nước; đặc biệt, đã sử
dụng triệt để xu hướng toàn cầu hóa vừa mới xuất hiện nhằm tranh thủ tối đa
tư bản nước ngoài và mở cửa rộng rãi nền kinh tế.
Nhờ thế, các nước và lãnh thổ châu Á NICs trong những thập niên đầu nửa
sau thế kỷ XX chỉ cần khoảng thời gian 30 - 35 năm để từ tình trạng nông
nghiệp lạc hậu cất cánh trở thành những con rồng, con hổ hùng mạnh về kinh tế
ở khu vực, trong khi Nhật Bản hồi đầu thế kỷ XX tiến hành phát triển kinh tế thị
trường và công nghiệp hóa phải mất 50 - 60 năm; còn các nước Âu - Mỹ vào các
thế kỷ trước phải mất hàng trăm năm, thậm chí mấy trăm năm để trở thành nước
công nghiệp hóa và kinh tế thị trường. Như vậy, phát triển theo gia tốc tăng dần
và rút ngắn khoảng cách là một xu hướng có tính quy luật, đã được thực tiễn
kiểm chứng và đang ngày càng phát huy tác dụng. Theo quy luật này thì do tốc
độ phát triển khác nhau, các quốc gia có cùng xuất phát điểm như nhau sẽ về
đích khác nhau, hoặc một quốc gia đi sau có thể đuổi kịp và bứt phá vượt lên
trước. Các quốc gia cần so sánh không phải chỉ với quá khứ, mà điều chủ yếu là
biết đặt mình trong mối tương quan với thế giới bên ngoài. Nếu tốc độ phát triển
chậm hơn cũng có nghĩa rằng quốc gia đang tụt hậu một cách tương đối, sẽ ngày
càng gia tăng khoảng cách và rốt cuộc sẽ thất bại về phát triển.
2.Các mô hình chủ yếu, đặc trưng và xu hướng vận động của kinh tế
thị trường tư bản hiện đại
a. Các mô hình

- Mô hình kinh tế thị trường tự do( tiêu biểu là nền kinh tế thị trường của
Hoa Kỳ, Anh, Ôt-xtrây- li-a..). Đặc điểm của mô hình kinh tế thị trường tự do này:
+ Có một cơ chế thị trường tự do thuần khiết hơn so với các nền kinh
tế khác. Trong mô hình kinh tế thị trưòng này, các mối quan hệ kinh tế
đều được giải quyết thông qua thị trường là chính, còn sự can thiệp của


nhà nước là rất hãn hữu. Do đó, mọi sự bất cập và thất bại của nền kinh tế
đều do nguyên nhân chủ yếu từ sự trục trặc hay sự phát rtiển thiếu đồng
bộ của thị trưòng.
+ Trong mô hình này, thị trường lao động có tính linh hoạt cao và các
luật lệ về thị trường lao động đều thiên về bảo hộ người chủ tư bản hơn là
ngưòi lao động làm thuê.
- Mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội( tiêu biểu là Đức, Thụy Điển,
và các nước Bắc Âu khác). Đặc điểm của mô hình này:
+ Ra đời trong bối cảnh của nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai
và là kết quả của sự thỏa hiệp giữa 4 trường phái lớn theo đuổi những chủ
trương khác nhau về khôi phục nền kinh tế nước Đức thời hậu chiến.
Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình kinh
tế thị trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ sở
thị trường một cách hợp lý giữa các mặt kinh tế - xã hội và chính trị.
+ Coi các thị trưòng chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ
và coi luật pháp, nhà nước, đạo đức ..không hề kém quan trọng hơn so với các
chính sách kinh tế, tài chính.
+ Coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước và phúc lợi xã hội .
- Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển ( tiêu biểu là nền
kinh tế Pháp, Nhật bản)
+ Chức năng chủ yếu của nhà nước trong mô hình này là thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế dài hạn. Do đó, nhà nước phải chủ động thực hiện
chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ trên cơ sở những

thành tựu của công nghiệp hoá và tái công nghiệp hóa dựa vào tri thức, nhằm
thích ứng với sự biến động nhanh chóng của nhu cầu thị trường để luôn tạo ra
được lợi thế so sánh mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh, không thụ động chấp
nhận sự phân công lao động quốc tế dựa trên những lợi thế so sánh có sẵn.
+ Nhà nước không chỉ quan tâm đến luật chơi của nền kinh tế thị trường
mà còn đi sâu hướng dẫn, chỉ đạo, điều tiết cả phương hướng, nội dung của
hoạt động kinh tế nhằm thực hiện chức năng phát triển của nhà nước.


+ Cơ sở lý thuyết về chức năng phát triển của nhà nước là những phân
tích “ lợi thế so sánh động” của một nền kinh tế dựa vào tri thức.
+ Khu vực doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm vị trí quan trọng trong
nền kinh tế của các nước phát triển nền kinh tế theo mô hình này.
b. Các đặc trưng và xu hướng vận động
Bên cạnh những điểm khác biệt của mỗi mô hình như đã nêu trên, giữa 3
mô hình này cũng có những điểm tương đồng rất cơ bản:
- Cả 3 mô hình thể chế kinh tế thị trưòng nêu trên đều được xây dựng và
vận hành dựa trên 4 nguyên tắc cốt lõi là: sở hữu tư nhân, lợi ích cá nhân,
cạnh tranh thị trường và tự do dân chủ theo kiểu phương Tây.
- Những thể chế, chính sách trước đây bị coi là phi kinh tế như chính
sách giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ thì ngày nay trở thành những
chính sách phát triển hàng đầu, do giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ
trong những thập niên gần đây đã trở thành những động lực trọng yếu của
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Trên thực tế cả 3 mô hình này đều sử dụng rộng rãi sự điều tiết và quản
lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Tuy nhiên vai trò điều tiết và quản
lý vĩ mô của nhà nước luôn được thay đổi linh hoạt, theo những hình thức và
phương pháp phù hợp với diễn biến và yêu cầu khách quan của tình hình thực
tế.
Mỗi một mô hình kinh tế thị trường trên đây đều có những nét ưu việt

cùng những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Chưa có cơ sở nào chắc chắn
để khẳng định mô hình nào sẽ thắng thế lâu dài và có khả năng trở thành một
hình mẫu chung cho tất cả các nước khác nhau trên thế giới. Hầu hết các nước
đang phát triển đều thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường đã thu hút
được những thành công hay thất bại rất khác nhau: có một số nước thành
công, đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định như các nước công
nghiệp mới ở Đông Á( NICs) và các nền kinh tế công nghiệp hóa mới
( NIEs). Nhưng nhiều nước lại thất bại; kinh tế tăng trưởng chậm, luôn bị
khủng hoảng, thậm chí bị suy thoái như các nước ở châu Phi, và Mỹ La tinh.


Thực tế cho thấy, thực tiễn và lý luận về mô hình kinh tế thị trường hết
sức phong phú, đa dạng và phức tạp, không thể áp dụng máy móc mô hình
kinh tế thị trưòng của nước này cho nước khác. Nó luôn là bài toán đầy thách
thức đối với bất cứ nước nào muốn phát triển nền kinh tế thị trường. Do đó
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cần thực sự cầu thị, khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm
của các nước khác. Không nên rập khuôn, máy móc theo bất cứ mô hình
ngoại lai nào. Phải phát huy hiệu quả nội lực kết hợp thu hút các nguồn ngoại
lực, chủ động nghiên cứu tìm tòi để sáng tạo, quyết định và thực hiện mô hình
kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình.
3. Mô hình kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc
a. Quá trình hình thành kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc
sắc Trung Quốc
+ Từ hội nghị TW3 Khóa XI năm 1978, là bước ngoặt vĩ đại có ý nghĩa
sâu sắc, dấu mốc chuyển đổi tư duy từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Công cuộc cải cách bắt đầu từ nông
thôn bằng chế độ khoán hộ gia đình, mở rộng quyền tự chủ cho nông dân.
Năm 1982, Đại hội XII nhấn mạnh kết hợp chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác với thực tế cụ thể của Trung Quốc, đi con đường của mình, xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Đại hội nêu ra nguyên tắc

cải cách thể chế kinh tế là: “ kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là
phụ”
Năm 1984, công cuộc cải cách chuyển từ nông thôn ra thành thị. Hội
nghị TW 3 Khóa XII đã ra:“ Quyết nghị về cải cách thể chế kinh tế”, nêu rõ
kinh tế hàng hóa là giai đoạn không thể bỏ qua trong phát triển kinh tế -xã
hội. Kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là nền kinh tế hàng hóa có kế
hoạch trên cơ sở chế độ công hữu. Đây là một bước đột phá về lý luận với
quan niệm trước đó vẫn đối lập kinh tế hàng hóa với kinh tế kế hoạch.
Năm 1987, Đại hội XIII trình bày quan niệm về giai đoạn đầu của chủ
nghĩa xã hội một cách có hệ thống, khái quát hoàn chỉnh đường lối cơ bản của
Đảng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, chỉ ra thể chế kinh tế hàng


hóa có kế hoạch phải là thể chế thống nhất nội tại giữa kế hoạch và thị trường,
vai trò của kế hoạch và thị trường đều phủ khắp toàn xã hội, nêu rõ mô hình
quản lý kinh tế “nhà nước điều tiết thị trường, thị trường dẫn dắt doanh
nghiệp”, làm cho cuộc cải cách theo hướng thị trường lại tiến thêm một bước
quan trọng.
Sau hội nghị TW4 Khóa XIII, bổ sung và nhấn mạnh: Phải xây dựng thể
chế kinh tế và cơ chế vận hành mà kinh tế kế hoạch kết hợp với sự điều tiết
thị trưòng thích ứng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa có kế hoạch
+ Năm 1992 Sau khi thị sát phía Nam, Đặng Tiểu Bình đã có bài phát
biểu quan trọng, mở ra một trang mới về công cuộc cải cách kinh tế theo hưóng
thị trường ở Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “ Kế hoạch nhiều hơn
một chút hay thị trường nhiều hơn một chút không phải là sự khác biệt bản chất
giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Kinh tế kế hoạch không có nghĩa là
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị trường không
có nghĩa là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trưòng. Kế hoạch và
thị trường đều là biện pháp kinh tế. Những kết luận này đã mở ra một thời kỳ
mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng về đường lối cải cách, mở ra bước đột phá

hết sức quan trọng. Đại hội XIV( tháng 10 năm 1992)đã trình bày lý luận xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc của Đặng Tiếu Bình một cách
có hệ thống, chính thức xác định việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa là mục tiêu của cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc và đề ra
nguyên tắc con đưòng thực hiện mục tiêu này.
+ Sau Đại hội XIV, cuộc cải cách được triển khai toàn diện. Năm 1993,
Hội nghị TW 3 Khóa XIV thông qua “ Quyết định về một số vấn đề xây dựng
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, vạch ra bức tranh và khung cơ
bản của thể chế kinh tế thị truờng xã hội chủ nghĩa. Quyết định đó trở thành
cương lĩnh hành động chỉ đạo cuộc cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc.
+ Năm 1997, Đại hội XV xác định lý luận Đặng Tiểu Bình là tư tưởng
chỉ đạo của toàn Đảng, nêu ra cương lĩnh cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ


nghĩa xã hội, xác lập chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển.
+ Năm 2002, Đại hội XVI xác định tư tưởng quan trọng “Ba đại diện
cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng mao Trạch Đông và lý luận Đặng
Tiểu Bình là tư tưởng chỉ đạo cần phải kiên trì lâu dài của Đảng
b. Đặc trưng của kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc
- Xây dựng chế độ kinh tế đa sở hữu, lấy công hữu làm chủ thể, kinh tế
nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản của Trung Quốc
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế phi công hữu gồm các hình
thức cá thể và tư doanh… là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, có vai trò quan trọng khai thác và phát huy mọi tiềm năng của
nền kinh tế, giải phóng sức sản xuất xã hội.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với
sự điều hành vĩ mô của nhà nước. Mục tiêu chính của sự điều tiết vĩ mô là
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, tạo thêm việc làm, ổn định giá cả, gìn giữ cân
bằng thu chi quốc tế. Sự điều hành vĩ mô của Nhà nước chủ yếu áp dụng biện

pháp kinh tế và biện pháp pháp luật. Thị trường đóng vai trò cơ sở trong việc
phân phối tài nguyên và các nguồn lực.
- Xây dựng và hoàn thiện phương thức phân phối xã hội chủ nghĩa, lấy
phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại,
cho phép một bộ phận người và khu vực giàu có trước, lôi kéo, giúp đỡ những
ngưòi, khu vực giàu có sau, từng bước đi tới cùng giàu có. Huớng tới xóa bỏ
bóc lột, loại bỏ phân hóa hai đầu, mọi người cùng khá giả. Coi trọng hoàn
thiện hệ thống bảo đảm xã hội, nâng cao chất lượng sống của mọi người dân.
- Mở cửa với bên ngoài, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại,
tích cực tham gia hợp tác cạnh tranh quốc tế, nâng cao tiềm lực mọi mặt của
đất nước Trung Quốc. Đây là một quốc sách cơ bản lâu dài và là con đường
tất yếu trong tiến trình đẩy nhanh hiện đại hoá Trung Quốc.
4. Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam


a. Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam
- Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, trong đó quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng đều thực hiện thông qua thị
trường. Vì vậy, thị trường không chỉ là phương tiện, công cụ để phát triển
kinh tế- xã hội mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội không chỉ bao gồm
lực lượng sản xuất mà cả quan hệ sản xuất. Không có thị trường chung chung
tách rời khỏi hình thái kinh tế- xã hội, chính trị của một nước. Sự phân biệt
giữa các nền kinh tế thị trường khác nhau là căn cứ vào mục tiêu chính trị,
kinh tế, xã hội của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường đó.
- Kinh tế thị trường ở Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội đặc biệt
đang trong quá trình chuyển biến cách mạng từ nấc thang này sang nấc thang
kia vừa tuân thủ những quy luật của kinh tế thị trường, vừa bị chi phối bởi
những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. Đó là mô hình kinh tế tổng quát trong

thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trưòng. Là thể chế kết hợp giữa kinh tế
thị trường với tư cách là cái chung, cái phổ biến với cái đặc thù là định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong đó nhân tố kinh tế thị trường là động lực phát triển
sản xuất, còn nhân tố định hướng có vai trò chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển của
nền kinh tế theo những mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội đã được xác định,
quyết định đến bản chất kinh tế, chính trị, xã hội của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước có ý
nghĩa quyết định sự vận hành thành công của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò trung tâm
điều tiết vĩ mô; cơ chế thị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai
trò “trung gian” giữa doanh nghiệp và nhà nước. Sự thành công của nền kinh tế
không chỉ ở tăng trưởng kinh tế mà phải giải quyết tốt vấn đề lợi ích xã hội, thực
hiện hài hoà các lợi ích kinh tế và vấn đề xã hội, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc
phân phối của chủ nghĩa xã hội.


b. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam
- Đặc trưng về chế độ sở hữu
Từ khi đổi mới đến nay, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu
sắc, trong đó có sự chuyển biến về sở hữu. Sự chuyển biến này diễn ra theo
các hướng: Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển nhanh chóng dưới
mọi hình thức và ngày càng đóng góp vai trò quan trọng trong sự phát triển
chung của nền kinh tế; kinh tế hợp tác xã chuyển đổi hình thành mô hình hợp
tác xã kiểu mới; Quá trình sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước đã
giảm mạnh số lượng và quy mô sở hữu nhà nước, hình thành loại doanh
nghiệp theo chế độ cổ phần và tạo ra cơ cấu sở hữu đa dạng trong các doanh
nghiệp nhà nước.

Quá trình cải tổ chế độ công hữu thực chất là sở hữu nhà nước cùng với
quá trình phát triển kinh tế tư nhân, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã làm
hình thành kết cấu đa nguyên về sở hữu tài sản của các doanh nghiệp thuộc
các loại hình kinh tế này. Từ đó có thể rút ra đặc trưng sở hữu ở nước ta hiện
nay là: Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam không phải là cơ cấu thuần nhất công hữu hay tư hữu mà là
một cơ cấu nhị nguyên kết hợp giữa công hữu và tư hữu với nhiều hình thức
sở hữu đan xen, hỗn hợp. Kết cấu này phù hợp với trình độ phát triển đa dạng
của lực lượng sản xuất hiện có của nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập ở
nước ta hiện nay.
- Đặc trưng về kết cấu kinh tế
Trước đây, khi nghiên cưú kết cấu nền kinh tế ở nước ta thưòng dựa trên
tiêu chí về “ thành phần kinh tế”. Việc phân định các thành phần kinh tế thường
được xác định qua các kỳ Đại hội của Đảng. Theo quan điểm Đại hội X của
Đảng, nền kinh tế nứơc ta hiện nay cơ bản vẫn bao gồm các thành phần kinh tế:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân( bao gồm kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế cá thể và tiểu chủ), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, cơ sở của sự phân loại cũng như nội hàm


trong các thành phần kinh tế chưa mạch lạc rõ ràng. Điều đó dẫn đến khó xác
định cụ thể, đôi khi phân định chủ quan.
Một số ý kiến cho rằng, nền kinh tế nước ta nên phân chia theo hai khu
vực: khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Việc phân định
như vậy sẽ thích ứng với quan niệm sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự thống nhất hữu cơ giữa công hữu và
tư hữu.
Trong nền kinh tế thị trường, khi nói về khu vực kinh tế nhà nước
thường giới hạn các đơn vị, tổ chức kinh tế trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc
làm dịch vụ mà toàn bộ nguồn lực của đơn vị thuộc sở hữu nhà nước. Sự tồn

tại khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là yêu cầu khách quan, là bộ phận hữư cơ không thể thiếu trong nền
kinh tế. Nó giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công
cộng cho cộng đồng xã hội và là công cụ hữu hiệu giúp nhà nứoc thực hiện
chức năng ổn định, công bằng và hiệu quả cho nền kinh tế.
Để kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước thực sự
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cần điều chỉnh sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước phù hợp với lực
lượng sản xuất của nó trong nền kinh tế nhiều loại hình, bảo đảm vị trí chi
phối của khu vực này trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Mặt
khác, mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước là
phải xây dựng được cơ chế kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hưóng xã hội chủ nghĩa trong đó việc xác định địa vị pháp lý của doanh
nghiệp với tư cách là một chủ thể độc lâp, một pháp nhân trọn vẹn là vấn đề
cốt lõi, và tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh trở thành tiêu chuẩn quyết định đến
sự tồn vong của doanh nghiệp nhà nước.
- Đặc trưng về khu vực kinh tế tư nhân
Trong điều kiện kinh tế thị trường, căn cứ vào mô hình tổ chức sản xuất
kinh doanh cũng như vai trò của những mô hình này trong việc tạo ra sản


phẩm xã hội mà chia thành các loại hình kinh tế cá thể và doanh nghiệp tư
nhân.
Kinh tế cá thể là loại hình kinh tế hộ gia đình hay cá nhân hoạt động sản
xuất kinh doanh dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao
động của chính hộ hay cá nhân đó, việc thuê mướn lao dộng không có hoặc
không nhiều, không thường xuyên.
Loại hình doanh nghiệp tư nhân được tổ chức theo hình thức doanh
nghiệp trong kinh tế thị trường( như doanh nghiệp, công ty, tập đoàn…) hoạt
động dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thuê mướn lao

động với mục đích thu lợi nhuận và đạt được giá trị thặng dư. Với hình thức
tổ chức sản xuất này, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất tăng lên đáng
kể. Do đó, doanh nghiệp tư nhân là động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Những kết quả đạt được của khu vực kinh tế này khẳng
định rằng nó là động lực quan trọng phát triển nền kinh tế, là khu vực phù
hợp với lực lượng sản xuất đang lên trong nền kinh tế thị trường. Sự tồn tại
và hoạt động của khu vực này là cơ sở tạo nên cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là sản phẩm của quá trình đổi mới. Ở tất cả các khâu sản
xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều có mối quan hệ ràng buộc với kinh tế
nhà nước. Và do đó tính định hướng của kinh tế tư nhân tất yếu phải chịu sự
ràng buộc và khống chế của kiến trúc thượng tầng là nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Chính vì vậy, trong nền kinh tế đó các doanh nghiệp dù là sở hữu tư
nhân nhưng không thể mang tính chất tư bản chủ nghĩa như dưới chủ nghĩa
tư bản.
- Đặc trưng về phân phối
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Vì vậy, các tiền đề cơ chế, chủ thể, cũng như hình thức phân phối
của mô hình xã hội chủ nghĩa trước đây đã thay đổi.


Một là, trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại chế độ đa sở hữu với
nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh khác nhau. Vì vậy, chủ thể phân phối thu
nhập là đa nguyên hoá chứ không phải chỉ có một chủ thể phân phối thống
nhất là nhà nước như trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây.
Hai là, trong nền kinh tế thị trường nói chung và kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, việc phân bổ các nguồn lực phải tuân theo
cơ chế thị trường. Vì vậy, việc phân phối thu nhập cũng phải chịu sự điều tiết
của cơ chế thị trường. Theo cơ chế đó, phân phối thu nhập quốc dân được

thực hiện bằng hệ thống giá cả theo nguyên tắc trao đổi tương đương.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn tồn
tại sự khác biệt về năng lực, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, khả năng kinh
doanh và nguồn tài sản thừa kế dẫn đến sự chênh lệch trong thu nhập, phân
hoá trong đời sống. Vì vậy, cần có sự can thiệp của nhà nước vào phân phối
qua các chính s ách và hệ thống an sinh xã hội.
Từ các điều trình bày trên đây, có thể rút ra đặc trưng phân phối trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phân phối theo yếu tố
lao động và các yếu tố sản xuất dựa trên nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, phát huy truyền thống tương thân,
tương ái của cộng dồng dân cư nhằm điều hoà thu nhập giữa các giai tầng xã
hội.
c. Các điều kiện đảm bảo cho sự vận hành và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
+ Đổi mới nhận thức và phương thức lãnh đạo của Đảng
Thứ nhất, Đảng phải nâng cao bản lĩnh và trí tuệ, có cách nhìn biện
chứng về các quá trình kinh tế và xã hội hiện nay ở nước ta. Phải xem xét và
đánh giá cá quá trình này một cách khách quan, tránh võ đoán và duy ý chí,
lấy thực tiễn sinh động và sự phát triển tiến bộ làm tiêu chuẩn cao nhất để
kiểm nghiệm chân lý.
Thứ hai, Đảng phải thay đổi căn bản phương thức lãnh đạo và cầm
quyền theo kiểu tập trung cao độ, bao biện, làm thay chính quyền và bao


trùm lên chính quyền, chuyển sang quản lý đất nước theo pháp luật và xử lý
tốt mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền. Cần xây dựng nền chính trị dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa vai trò lãnh đạo
của Đảng, nhân dân làm chủ đất nước, chính quyền quản lý đất nước theo
pháp luật.
Thứ ba, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực hình thái ý thưc

và công tác tư tưởng. Nắm vững đặc điểm mới của hình thái ý thức, cải tiến
sự lãnh đạo tư tưởng phù hợp với hình thái ý thức mới của kinh tế thị trường,
mặt khác, tiến hành công tác tư tưởng phải thiết thực, đi sâu vào quần chúng,
không để kẻ địch lợi dụng để gieo rắc những luận điểm phản động.
Thứ tư, điều hoà tốt mối quan hệ lợi ích giữa các nhóm xã hội, tăng
cường sự thống nhất về mục tiêu, động lực và hành động cho toàn xã hội.
Thứ năm, Kiện toàn công tác cán bộ, quản lý con ngưòi sâu sát trong
tình hình mới. Cần tăng cường xây dựng, củng cố tổ chức đảng ở cơ sở vững
mạnh, gắn tổ chức đảng với quần chúng để tăng cường sức mạnh cho Đảng
trong điều kiện mới.
+ Nâng cao vai trò và hoàn thiện cơ chế quản lý nền kinh tế của Nhà
nuớc xã hội chủ nghĩa
Trong thời kỳ quá độ, khi hệ thống kinh tế thị trường và các quy luật thị
trường chưa hoạt động đầy đủ và chưa phát huy tác dụng thì sự điều khiển
của nhà nước có vai trò đặc biệt làm” bà đỡ” cho sự ra đời hệ thống thị
trường. Vì thế, Nhà nước có các nhóm chức năng chính sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp luật, thể chế, bảo đảm các điều kiện
cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của thị trường.
- Bổ sung, hiệu chỉnh tác động của cơ chế thị trường. Bản thân thị trường
không có cơ chế phân phối lại thu nhập và điều hoà lợi ích, do đó nhà nước
phải tham gia vào phân phối lại thu nhập theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
giảm bất bình đẳng và bảo đảm phúc lợi xã hội.
- Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý lớn nhất và tối cao có vai trò
điều khiển các quá trình kinh tế và giữ ổn định vĩ mô. Để thực hiện các chức


năng trên, nhất là chức năng quản lý và điều khiển nền kinh tế, nhà nưôc có
thể sử dụng các biện pháp hành chính, kinh tế.
+ Cải tạo và xây dựng hệ thống hạ tầng hiện đại, xây dựng thể chế và
phát triển đồng bộ các loại thị trưòng.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta đang
trong quá trình hình thành và tạo lập, trình độ phát triển còn rất thấp không chỉ
xét về các mặt phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, quy mô thị
trường và dung lượng trao đổi, mà cả các mối liên hệ thị trường còn yếu kém,
quan hệ phân công và hợp tác chưa phát triển, các loại thị tường chưa đồng bộ,
cả thị trường khu vực và bộ phận còn yếu và chưa gắn bó với nhau trong hệ
thống thị trường quốc tế. Vì vậy việc phát triển hệ thống hạ tầng hiện đại của
nền kinh tế thị trường, xây dựng thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và phát triển đồng bộ các loại thị trưòng được xem là nhiệm vụ trung tâm của
nền kinh tế thị trưòng ở nước ta hiện nay.
+ Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học- công nghệ
Cần tập trung tạo tiền đề mang tính đột phá cho sự phát triển lực lượng
sản xuất với tốc độ nhanh nhằm thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn và đi
tắt đón đầu. Để chiến lược đó thành công, phải tập trung giải quyết những vấn
đề có liên quan đến hai yếu tố chủ yếu nhất quyết định chất lượng và tốc độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao và trình độ khoa học - công nghệ.
II. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1. Những vấn đề chung về thể chế kinh tế và thể chế kinh tế thị
trưòng
a. Thể chế kinh tế
* Quan niệm về thể chế kinh tế
- Có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về thể chế kinh tế. Từ quan niệm
chung về thể chế, các nhà nghiên cứu có những cách lý giải khác nhau về thể
chế kinh tế.


Các nhà kinh tế học phương Tây và kinh tế học xã hội chủ nghĩa có cách
lý giải khác nhau về hàm nghĩa “ thể chế kinh tế”. Morris (Mỹ) coi thể chế
kinh tế là tập hợp những quy định và phương thức hành động của con người

theo những quy định đó”. Còn Bruce ( Mỹ) coi quyết sách là trung tâm của
thể chế kinh tế. Niubecgơ ( Đức) đồng tình với quan điểm của Bruce, nhưng
Ông nhấn mạnh, thể chế kinh tế là một cơ chế quyết sách được xã hội xác lập
trong ba lĩnh vực cơ bản: sản xuất, phân phối và tiêu dùng, gồm ba bộ phận:
cơ cấu quyết sách, cơ cấu thông tin và cơ cấu động lực. Khác với các quan
điểm trên, Kornai ( Hung ga ri) xuất phát từ góc độ điều tiết đã mô tả thể chế
kinh tế thành ba bộ phận: điều tiết hành chính, điều tiết thị truờng.Tuy nhiên
cách lý giảỉ này cũng chỉ trên bề mặt, chưa nêu được vì sao cách điều tiết này
nảy sinh trong cơ chế này còn cách điều tiết khác lại sinh ra cơ chế khác.
Cốc Thư Đường (Trung Quốc) trong tác phẩm “Lý luận mới về kinh tế
học xã hội chủ nghĩa” cho rằng: “ Trong quá trình vận hành kinh tế, quan hệ
lợi ích giữa ngưòi với người vừa nương tựa vào nhau cùng tồn tại lại vừa
xung đột lẫn nhau. Để giải quyết mâu thuẫn này, phải tạo ra một trật tự để giải
quyết các quan hệ lợi ích giữa người với ngưòi, để chuẩn mực hóa phương
thức nương tựa giữa người ta với nhau, giới hạn các lợi ích của mọi ngưòi. Vì
vậy thể chế kinh tế chính là những quy tắc về chuẩn mực hóa phương thức
hành vi của mọi ngưòi để giải quyết xung đột lợi ích giữa người với ngưòi và
các cơ chế nảy sinh từ các quy tắc đó”.Thể chế kinh tế và cơ chế vận hành
kinh tế là hai mặt của cùng một sự vật, trong đó thể chế kinh tế như là một bộ
khung và cơ chế vận hành kinh tế là phưong thức vận động trong bộ khung
đó.
Nhìn chung các nhà nghiên cứu kinh tế, xã hội đều thống nhất ở một
điểm là thể chế kinh tế là một hệ thống bao gồm các quy định về kinh tế của
nhà nước; các quy tắc xã hội mà nhà nước công nhận; các chủ thể kinh tế (nhà
nước,doanh nghiệp và hộ gia đình); các cơ chế, phương thức thực hiện các
quy định, quy tắc. Thể chế kinh tế với tư cách là một bộ khung chỉnh thể được


hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu và pháp luật, và chính những cơ sở này
quyết định cách thức đoạt lợi ích và hành vi kinh tế của con ngưòi.

* Nội dung của thể chế kinh tế
- Kế thừa chọn lọc những tư tưởng của các nhà nghiên cứu kinh tế trên
thế giới, các nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam đã đưa ra quan điểm riêng
mình về thể chế kinh tế và nội dung cấu thành của thể chế kinh tế như sau: thể
chế kinh tế ra đời và ngày càng hoàn thiện trên cơ sở sự phát triển của lực
lượng sản xuất, vai trò của nhà nước và nhận thức của con người tăng lên.
Thể chế kinh tế vừa là tiền đề cơ bản cho sự vận hành của nền kinh tế vừa là
điều kiện quan trọng cho tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Các yếu tố cơ bản cấu thành thể chế kinh tế bao gồm:
- Các quy tắc tạo thành luật chơi kinh tế : khung luật pháp về kinh tế; các
quy tắc, chuẩn mực xã hội hoặc liên quan đến kinh tế, kể cả quy tắc hay
chuẩn mực phi chính thức.
- Các chủ thể tham gia “trò chơi” kinh tế: các cơ quan, tổ chức nhà nước
về kinh tế; các doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư và
người dân.
- Cơ chế thực thi các“luật chơi”kinh tế: gồm cơ chế tự do cạnh tranh thị
trường; cơ chế phân cấp quản lý; cơ chế phối hợp; tham gia giám sát và giải
trình.1
b. Thể chế kinh tế thị trường
* Quan niệm về thể chế kinh tế thị trường
- Paul.A.Samuelson ( Mỹ): “Trong nền kinh tế hỗn hợp, thị trường và
chính phủ đều có vai trò rất quan trọng, điều hành một nền kinh tế không có
chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Để
duy trì một trật tự kinh tế mà cơ chế thị trường đã tạo ra, nhà nước trong nền
kinh tế thị trường đóng vai trò là một“đối trọng”đối với mặt trái của cơ chế
thị trường. Điều đó được biểu hiện thông qua các chức năng của chính phủ
trong nền kinh tế thị trường.
Đinh Văn Ân và Lê Xuân Bá, Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hưóng xa hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, H. 2006
1



Quan điểm của kinh tế học hiện đại cho rằng, trong nền kinh tê thị
trường chức năng đầu tiên mà bất cứ một chính phủ nào cũng phải coi trọng,
đó là thiết lập khung khổ pháp luật để mọi chủ thể kinh tế phải phục tùng.
Điều đó có nghĩa là nhà nước chứ không phải ai khác là người tạo ra luật
chơi- những quy tắc, những trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, hộ gia
đình, ngưòi tiêu dùng và cả chính phủ cũng phải tuân thủ. Khi những quy tắc,
những trò chơi kinh tế được tất cả các chủ thể của nền kinh tế nhận thức và
đồng tình thực thi thì một thể chế kinh tế thị trường xuất hiện.
- Như vậy, thể chế kinh tế thị trường là khái niệm dùng để chỉ một mô
hình kinh tế trong đó thị trường là công cụ, cách thức, biện pháp mà nhà
nứớc sử dụng nó để thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội đã được xác
định. Khái niệm này chỉ rõ:
+ Thể chế kinh tế thị trưòng gắn liền với kinh tế thị trường và là sản
phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường.
+ Nói tới thể chế kinh tế thị trường phải nói tới vai trò của Nhà nước
trực tiếp điều tiết thị trường bằng các công cụ kinh tế và phi kinh tế.
+ Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trưòng bằng luật pháp, thể chế kinh
tế thị trường buộc mọi chủ thể kinh tế vừa phải tuân theo mệnh lệnh của thị
trường, vừa chịu sự điều chỉnh của các chính sách kinh tế vĩ mô.
+ Phân biệt sự khác nhau giữa các thể chế kinh tế thị trưòng thông qua
các mục tiêu kinh tế - xã hội mà chính phủ đã xác định. Xét cho cùng bản chất
giai cấp của Nhà nước quy định sự khác nhau giữa các thể chế kinh tế thị
trường. Trên thực tế đang tồn tại hai kiểu thể chế kinh tế thị trường: thể chế
kinh tế thị trường tư bản chủ gnhĩa và thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Đây là những tiêu chí để phân biệt sự khác nhau giữa các nền kinh tế
thị trường; xác định chế độ xã hội của một nền kinh tế thị trường.
* Các thành tố cấu thành thể chế kinh tế thị trưòng
Thể chế kinh tế thị trường là một khái niệm rộng lớn bao gồm nhiều nội

dung khác nhau, cụ thể là:


- Các bộ quy tắc, luật lệ chế định các hành vi kinh tế diễn ra trên thị
trường - là bộ công cụ điều chỉnh hoạt động của các bên tham gia kinh tế thị
trường, tạo thành luật chơi kinh tế thị trường.
- Vị thế, vai trò, năng lực và phương thức tổ chức, vận hành của các chủ
thể tham gia kinh tế thị trường( như nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội, xã hội - nghề nghiệp, v.v..).
- Cơ chế, cách thức tổ chức thực hiện các luật lệ, quy tắc hoạt động thị
trường, nhằm đạt được mục tiêu, hay kết quả mà các bên tham gia thị trường
mong muốn.
2. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
a. Quan điểm tiếp cận
- Mỗi nền kinh tế thị trường đều có hệ thống thể chế riêng, đặc trưng chỉ
cho nền kinh tế đó. Ngay cả các nước có chung một chế độ xã hội và có cùng
trình độ phát triển kinh tế cũng có các hệ thống thể chế kinh tế không giống
nhau. Chính vì thế, để nền kinh tế Việt Nam thực sự trở thành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải xây dựng và đưa vào vận hành
một cách có hiệu quả hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. điều đó tức là, cần phải trang bị cho kinh tế thị trường ở Việt Nam
các mục tiêu và động lực xã hội mới, phù hợp với đặc trưng của định hướng
xa hội chủ nghĩa.
- Theo nghĩa đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam được hiểu là hệ thống các bộ quy tắc kinh tế thị trưòng, được vận
hành bởi các chủ thể kinh tế thị trưòng khác nhau, với các cơ chế, cách thức
được xác định rõ theo hưóng vừa đảm bảo phát triển đồng bộ các yế tố thị
trưòng, vừa đảm bảo công bằng xã hội và phát huy vai trò tích cực của Nhà
nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa trong hỗ trợ phát triển, trong đó:
+ Về mục tiêu và động lực: phải đạt được một xã hội “ dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính mục tiêu này quy định
phương tiện, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


+ Về sở hữu: phải chấp nhận đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế. Trong đó vai trò chủ đạo của chế độ sở hữu nhà nước phải
được bảo đảm, trước hết là với đất đai, tài nguyên và các tài sản công khác.
Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc thông qua việc nâng cao trình độ hiện đại của sức sản xuất và mức độ xã
hội hóa ngày càng cao của khu vực này. đồng thờ thể chế kinh tế phải bảo
đảm để khu vực kinh tế tư nhân được coi là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế ,
là khu vực kinh tế chủ yếu giaỉ quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, tạo sức ép thúc đẩy cạnh tranh, tăng chất lượng và hiệu quả đối với các
khu vực kinh tế khác.
+ Về phân bổ nguồn lực và phân phối: thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm các nguồn lực kinh tế được phân bổ chủ
yếu theo các nguyên tắc thị trưòng; sản phẩm và hàng hóa, vốn, lao động và
các nguồn lực khác được tự do lưu thông trên thị trường; các quy luật của nền
kinh tế thị trường như: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh,... được thể hiện và tuân thủ đầy đủ trong hoạt động và tương tác của
các thực thể kinh tế. Trong khi đó, mô hình phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể chế hóa theo hướng vừa
khuyến khích phát triển kinh tế, vừa bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trên
từng bước phát triển.
+ Hài hòa cơ chế tự do cạnh tranh thị trường với vai trò điều tiết kinh tế
của nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tự
do cạnh tranh thị trường phải trở thành cơ chế chủ yếu vận hành kinh tế, nhằm
đảm bảo phân bổ hợp lý các nguồn lực và các lợi ích, kích thích phát triển
tiềm năng kinh doanh, tăng hiệu quả và tăng năng suất lao động xã hội. Tuy
nhiên, điều đó không phủ nhận vai trò của nhân tố “nhà nước xã hội chủ

nghĩa” trong việc quản lý, hiệu chỉnh những sai lệch và thất bại của cơ chế thị
trường.
b. Quá trình hình thành hệ thống thể chế kinh tế thị trường Việt
Nam- những thành tựu ban đầu và tồn tại, hạn chế.


* Những thành tựu ban đầu
Về mặt lý luận
- Trước Hội nghị Trung ương 6 Khoá IV( tháng 8 năm 1979 ), nền kinh
tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Đây là cơ chế kinh tế
được hình thành ở Liên Xô trong những năm tiến hành công nghiệp hoá và
sau đó được áp dụng ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Khi nền kinh tế thế
giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng
những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, cơ chế kinh tế này đã
bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa
lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng, trong đó có Việt Nam.
- Từ sau Hội nghị Trung ương 6 Khoá IV đến trước Đại hội VI, dưới áp
lực của tình thế khách quan, nền kinh tế nước ta đã có cải tiến theo hướng thị
trường, chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng
bộ. Những bước cải tiến mới như như khoán ssản phẩm trong nông nghiệp,
theo chỉ thị 100 - CT/TW của Ban Bí thư khoá IV, bù giá vào lương ở Long
An, thực hiện Nghị định 25, 26 - CP của Chính phủ, Nghị quyết Trung ương 8
khoá V về giá - lương - tiền (1985)... là những căn cứ thực tế để Đảng ta đi tới
quyết định thay đổi cơ chế kinh tế tại Đại hội VI (1986 ).
- Từ Đại hội VI (1986) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII ( 2001 ) là thời kỳ
đổi mới toàn diện, cả cấu trúc và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội
dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhièu thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng xa hội chủ nghĩa.
- Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”, đề ra nhiệm vụ xây dựng
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ gnhĩa. Đây là bước
chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ , một cơ
chế quản lý sang nhận thức mới, coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là
cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


- Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một
bước nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Quan điểm về lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thống
nhất như là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt, chi phối của các nguyên tắc và
bản chất của chủ nghĩa xã hội.
* Trên thực tế
- Tư duy và chủ trương đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành
Hiến pháp, luật, cơ chế, chính sách, thay thế cho hệ thống luật pháp cũ, tạo
hành lang pháp lý mới cho kinh tế thị trưòng phát triển. Cơ chế thị truờng đã
cơ bản thay thế cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trước đây. Tính dân chủ và
công khai, minh bạch trong xây dựng và thực thi chính sách phát triển kinh tế,
xã hội ngày càng được nâng cao. Quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh đã
đi vào cuộc sống.
- Chế độ sở hữu được đổi mới về căn bản từ chủ yếu là sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể sang nhiều chế độ sở hữu, với nhiều thành phần kinh tế đan
xen hỗn hợp, xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Đổi mới
chế độ sở hữu đã tạo điều kiện thuận lợi cho khai tháccác tiềm năng trong
nước và nước ngoài, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta..
- Phân bổ nguồn lực quốc gia đã được chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa

tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trưòng là chủ yếu, lấy hiệu quả
kinh tế làm tiêu chí hàng đầu cho các quyết định đầu tư. Chế độ phân phối
dựa trên lao động đã được đổi mới theo hưóng đa dạng hóa, dựa trên sự đóng
góp kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp về vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất kinh doanh. Nhiều loại công cụ điều tiết quá trình phân
phối khác nhau đã dần được đưa vào áp dụng, đặc biệt là cá công cụ kinh tế
tài chính như thuế, ngân sách, tín dụng..


- Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế ngày càng
được xác định rõ hơn. Kinh tế hợp tác xã, nông lâm trường, trang trại và hộ
kinh doanh tiếp tục được đổi mới và hỗ trợ phát triển. Vai trò quan trọng của
kinh tế tư nhân và kinh tế đầu tư nước ngoài ngày càng được khẳng định.
- Từ chỗ hoàn toàn không thừa nhận, ngày nay, các loại hình thị trường
bước đầu được hình thành và từng bước phát triển, trở nên thống nhất và
thông suốt hơn trong nước, mở rộng ra khu vực và thế giới. Các hình thức
hoạt động và giao dịch thị trường dần dần được thể chế hóa và trở nên đa
dạng. Kết cấu hạ tầng cho các thị trường này bước đầu được đầu tư nâng cấp
hoặc xây dựng mới theo hướng văn minh, hiện đại và được vận hành ngày
càng hiệu quả hơn.
- Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã từng bước được gắn kết với tiến bộ
và công bằng xã hội, trong đó phát triển kinh tế được coi là điều kiện vật chất
để thực hiện chính sách xã hội và thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực
quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế, hạn chế những khuyết tật phát sinh
từ cơ chế thị trường.
- Từ chỗ tuyệt đối phủ nhận sự phân hóa giàu nghèo, đến nay chúng ta
đã thông qua các đổi mới về thể chế, các doanh nghiệp và ngưòi dân được
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo , coi
việc một bộ phận dân cư giàu lểntứoc là cần thiết cho sự phát triển.
- Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế từng bước được đổi mới chức

năng, nhiệm vụ, được sắp xếp, tổ chức theo tư duy mới, phù hợp hơn với cơ
chế thị trưòng. Chức năng quản lý nhà nứơc về kinh tế của các cơ quan nhà
nứơc, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước với chức năng kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước từng bước được tách bạch rõ ràng. Nhà
nước đã chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý
tổng thể các hoạt động của nenè kinh tế quốc dân, chuyển từ can thiệp trực
tiếp sang can thiệp gián tiếp vào nền kinh tế thông qua hệ thống pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.


×