Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Luận văn thạc sĩ Yếu tố khoa học trong lực lượng sản xuất với việc phát triển khoa học - công nghệ ở Thành Phố Đà Nẵng (full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.96 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG




PHẠM ĐỨC THỌ




YẾU TỐ KHOA HỌC TRONG LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG


LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





Đà Nẵng – Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG



PHẠM ĐỨC THỌ




YẾU TỐ KHOA HỌC TRONG LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80



LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG ANH HOÀNG



Đà Nẵng – Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn






Phạm Đức Thọ
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
5. Kết cấu của luận văn 6
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 7
CHƯƠNG 1: KHOA HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC TRONG
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 11
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 11
1.1.1. Các khái niệm về khoa học, công nghệ 11
1.1.2 Khái niệm lực lượng sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin 16
1.2. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ TRONG LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT 23
1.2.1. Khoa học - công nghệ trong sự phát triển của xã hội loài người 23
1.2.2. Vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất 26
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY33
2.1.TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG 33
2.1.1. Vị trí địa lý, kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng 33

2.1.2. Vị trí và lợi thế của khoa học - công nghệ ở thành phố Đà Nẵng 36
2.2. THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC- CÔNG
NGHỆ Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 38
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực khoa học - công nghệ ở thành phố Đà
Nẵng 38
2.2.2. Khoa học - công nghệ, nhu cầu tất yếu của sự phát triển thành phố
hiện đại 51
2.2.3. Nhận xét, đánh giá việc phát triển khoa học - công nghệ ở thành
phố Đà Nẵng 55
2.3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG 63
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 71
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ Ở THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG 72
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 72
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến phát triển khoa học –
công nghệ 72
3.1.2. Quan điểm cơ bản về phát triển khoa học và công nghệ của Đảng
và Nhà nước đến năm 2020 75
3.1.3. Quan điểm cơ bản phát triển khoa học và công nghệ của thành phố
Đà Nẵng 5 năm 2016- 2020 79
3.1.4. Định hướng phát triển khoa học – công nghệ ở thành phố Đà Nẵng
đến năm 2020 80
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC –
CÔNG NGHỆ Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY 82
3.2.1. Nhóm giải pháp đổi mới, đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao 82
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và

tăng cường sự quản lý của Nhà nước 89
3.2.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý, đổi mới tổ chức,
quản lý hoạt động khoa học và công nghệ 92
3.2.4. Nhóm giải pháp nghiên cứu và ứng dụng, phát triển chuyển giao
công nghệ phục vụ việc phát triển kinh tế - xã hội 95
3.2.5. Nhóm giải pháp hội nhập, giao lưu hợp tác nghiên cứu đào tạo
nguồn nhân lực, hội nghị, hội thảo, tư vấn, trao đổi, học hỏi chuyển giao, phát
triển chính sách công nghệ 97
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 100
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (Bản sao)

DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang

2.1 Biến đổi cơ cấu dân số, lao động và việc làm của Đà Nẵng 39
2.2 Lực lượng lao động ở Đà Nẵng giai đoạn 1997 – 2009 40
2.3 Lực lượng lao động phân theo trình độ giai đoạn 1997 - 2011 42
2.4 Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc thành phố Đà Nẵng
45
2.5 Chuyển đổi về chất lượng của công chức hành chính 46
2.6 Sự thay đổi về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
phường, xã
47

2.7 Cơ cấu nhân lực theo ngành nghề ở Đà Nẵng 1997 - 2011 49


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của nhân loại, chúng ta đã và đang chứng kiến
nhiều về sự thay đổi lớn trong toàn bộ đời sống xã hội, từ thay đổi lớn về kinh
tế, chính trị, xã hội cho đến nhận thức khoa học. Đặc biệt vào những thập niên
cuối của thế kỷ XX, sự phát triển hùng mạnh của các nước công nghiệp mới
(NICs) nói chung và Nhật Bản nói riêng, đó là một sự tăng trưởng về kinh tế
hết sức lớn mạnh, điều mà trong lịch sử chưa từng thấy. Điều đó đã đặt ra
nhiều câu hỏi nguyên nhân nào làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế ngạc
nhiên ấy?. Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời để giải thích về sự thay đổi lớn
mạnh đó. Tuy nhiên cách thay đổi phương thức sản xuất hay nói đúng hơn là
sự áp dụng khoa học vào lực lượng sản xuất để tạo ra một lượng tài sản khổng
lồ và giữ mức tăng trưởng là câu trả lời xứng đáng nhất để chứng minh cho sự
phát triển không ngừng của thế giới. Chính vì vậy khoa học đã và đang tác
động ngày càng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống nhân loại, mà kết quả
quan trọng nhất đó là tạo được bước ngoặt phát triển về chất của lực lượng
sản xuất. Vì vậy, khoa học chính là nguyên nhân đầu tiên tạo ra sự thay đổi,
thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của nhân loại. Điều đó đã chứng minh được
những dự báo của Mác: Khoa học- kỹ thuật sẽ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp - điều mà C.Mác đã phát biểu từ những năm giữa của thế kỷ XIX.
Toàn cầu hóa đang mở ra nhiều cơ hội cho tất cả các nước trên thế giới,
ở đó các nước đang được học hỏi và cạnh tranh nhau nhằm để tránh khỏi nguy
cơ tụt hậu. Trước sự phát triển không ngừng ấy, khoa học trở thành như một
kim chỉ nam tiểu biểu nhất mà các nước đều phải ứng dụng nó vào cho sự
phát triển chung của mình, bằng cách này hay cách khác mọi sự phát triển

2
chung của các nước, khoa học trở thành một nấc thang quan trọng không thể
thiếu cho sự phát triển chung của mọi quốc gia.
Nhìn từ mọi phương diện hay mức độ khác nhau, khoa học - công nghệ
đã có tầm ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển chung của mọi quốc gia trên
thế giới trong đó có Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - khi nước ta
đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Khoa
học - công nghệ được Đảng và Nhà nước ta chú trọng đầu tư phát triển một
cách chú trọng nhất, đó là yếu tố quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong các
kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến nay, vấn đề giáo dục - đào tạo;
khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu được Đảng ta nhấn mạnh và đưa
ra chính sách nâng cao dân trí để tiếp thu khoa học và công nghệ tiên tiến,
từng bước tiến vào hội nhập nền văn minh quốc tế. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Khoa học và công nghệ là động
lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Tại Đại hội IX, văn kiện Đại hội
Đảng ta lại khẳng định: “Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt”
việc phát triển khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp
hóa hiện đại hóa”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X Đảng ta đề cập vấn đề
khoa học công nghệ một cách sâu sắc hơn: “Phát triển mạnh khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức”. Đặc
biệt trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI gần đây vấn đề khoa
học và công nghệ được Đảng và Nhà nước ta đề cập một cách cụ thể sâu, sắc
trong từng chi tiết đó là:
“Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức”[26; tr.78].
3
Trong đó góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh

của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỉ lệ đóng
góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ ba
nhiệm vụ chủ yếu: Nâng cao năng lực khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế
quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng.
“Phát triển năng lực khoa học, công nghệ có trọng tâm, trọng điểm, tập
trung cho những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng bộ về cơ
sở vật chất, nguồn nhân lực. Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho
các nhiệm vụ, các sản phẩm khoa học, công nghệ trọng điểm quốc gia, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh
nghiệp cho đầu tư phát triển khoa học, công nghệ”[26; tr.218].
“Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học, công
nghệ, xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả của
khoa học, công nghệ. Chuyển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng sang cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ,
thị trường khoa học, công nghệ. Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà
nước; xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả các chương trình, đề tài
khoa học và công nghệ theo hướng phục vụ thiết thực mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, lấy hiệu quả ứng dụng làm thước đo chủ yếu đánh
giá chất lượng công trình. Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút,
trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học, công nghệ ”[26; tr.219].
Và cuối cùng là “đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng; phát triển đồng bộ
khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Khoa
học xã hội làm tốt nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo xu
hướng phát triển, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách
phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Hướng mạnh nghiên cứu, ứng dụng
khoa học, công nghệ phục vụ các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã
4
hội, đặc biệt là trong những ngành, những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn. Ưu
tiên phát triển công nghệ cao, đồng thời sử dụng hợp lý công nghệ sử dụng
nhiều lao động. Nhanh chóng hình thành một số cơ sở nghiên cứu - ứng dụng

mạnh, gắn với các doanh nghiệp chủ lực, đủ sức tiếp thu, cải tiến và sáng tạo
công nghệ mới. Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới công nghệ quốc
gia; có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đổi mới công nghệ. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu và phát triển
trong nước với tiếp nhận công nghệ nước ngoài”[26; tr.220].
Đà Nẵng là một trong những đô thị lớn của đất nước, là trung tâm kinh
tế, văn hóa, giáo dục, khoa học…của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Trong những năm gần đây, Đà Nẵng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nói chung, điều đó khẳng định được vị
thế vai trò của Đà Nẵng trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên, góp phần
cùng cả nước tạo tiền đề vững chắc để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên bên những thành tựu đáng biểu
dương ấy thì vấn đề phát triển và áp dụng khoa học - công nghệ vào phát triển
công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung ở Đà Nẵng còn
gặp nhiều khó khăn. Dù vậy chúng ta vẫn có thể khẳng định phát triển khoa
học - công nghệ góp phần vào nâng cao cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mục đích phát triển nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa và phát triển
kinh tế xã hội là cách tất yếu mà hiện nay không chỉ Đà Nẵng mà nhiều thành
phố tỉnh thành trong cả nước đều phải thực hiện. Do đó, vấn đề cấp thiết được
đặt ra hiện nay là phải nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc vấn đề yếu
tố khoa học trong lực lượng sản xuất, vai trò của khoa học - công nghệ trong
sự phát triển của lực lượng sản xuất; qua đó tìm ra những biện pháp, phương
hướng để phát triển khoa học - công nghệ ở thành phố Đà Nẵng góp phần vào
sự phát triển chung của thành phố.
5
Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề phát triển khoa học - công nghệ ở
thành phố Đà Nẵng là hết sức cần thiết, có tính cấp bách về ý nghĩa khoa học
và giá trị thực tiễn. Đó là lý do tôi chọn đề tài “ Yếu tố khoa học trong lực
lượng sản xuất với việc phát triển khoa học - công nghệ ở thành phố Đà
Nẵng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Từ sự phân tích vai trò của yếu tố khoa học trong lực lượng
sản xuất, luận văn đưa ra một số định hướng và xây dựng các giải pháp nhằm
phát triển khoa học - công nghệ ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của yếu tố khoa
học trong lực lượng sản xuất.
+ Phân tích tiềm năng, thực trạng và xu hướng phát triển khoa học -
công nghệ ở Đà Nẵng, đánh giá mặt đạt được, hạn chế và làm rõ nguyên
nhân.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển khoa học - công nghệ
ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển khoa học - công nghệ
ở thành phố Đà Nẵng, dưới góc độ triết học.
+ Những lý luận về yếu tố khoa học và học thuyết của triết học về lực
lượng sản xuất.
+ Các yếu tố trong mối quan hệ với sự phát triển khoa học - công nghệ
ở thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Tập trung nghiên cứu về vai trò của
yếu tố khoa học trong lực lượng sản xuất với việc phát triển khoa học - công
nghệ trên phạm vi thành phố Đà Nẵng hiện nay.
6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về lực lượng sản xuất. Chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển khoa học - công nghệ cùng các lý thuyết kinh tế liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân tích -
tổng hợp, diễn dịch – quy nạp, kết hợp lôgich và lịch sử, thống kê, so sánh,
tổng kết thực tiễn, kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã dự báo.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Là luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách, các quy hoạch,
kế hoạch và chương trình phát triển của thành phố.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm về việc
phát triển khoa học - công nghệ của Đà Nẵng.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn sẽ đóng góp vào việc phát
triển khoa học - công nghệ ở thành phố Đà Nẵng, góp phần vào công cuộc đổi
mới và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và
mục lục, luận văn gồm có 3 chương và 7 tiết:
Chương 1: Khoa học và vai trò khoa học trong lực lượng sản xuất.
Chương 2: Thực trạng và xu hướng phát triển của khoa học - công nghệ
ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để phát
triển khoa học - công nghệ ở thành phố Đà Nẵng.

7
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Do tầm quan trọng của yếu tố khoa học và công nghệ đã tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển của nhân loại. Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội, điều này đã làm cho
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước quan tâm sâu sắc. Đã có
một số công trình nghiên cứu, sách và bài báo, bài tham luận ở nhiều cuộc hội
thảo liên quan đến đề tài luận văn từ nhiều góc độ khác nhau.
- “Khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển bền vững” ( Bộ khoa học và công nghệ, cục thông tin khoa học và

công nghệ quốc gia, năm 2012), nội dung đã đề cập rất rõ bối cảnh và xu
hướng phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới, ngoài ra tác giả đã trình
bày về thực trạng phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam trong giai
đoạn 1996 - 2011. Từ đó đề ra các định hướng và gải pháp phát triển khoa học
và công nghệ đến năm 2020.
- “Khoa học và công nghệ thế giới – thách thức và vận hội mới” ( Bộ
khoa học và công nghệ, Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia,
năm 2005), nội dung công trình nghiên cứu đến các xu hướng phát triển khoa
học và công nghệ hiện nay, coi khoa học và công nghệ là động lực phát triển
của toàn thể nhận loại. Vô số các ngành công nghệ mới được tạo ra trong các
ngành công nghệ cao như “công nghệ nanô, công nghệ thông tin, công nghệ
vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới… lực lượng sản xuất
đã thực sự có bước phát triển nhảy vọt và đạt tới trình độ chưa từng có trong
lịch sử phát triển của nhân loại”.
- “Để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực then chốt của
sự phát triển kinh tế - xã hội” (Trần Đắc Hiến tạp chí triết học tháng 6/ 2012),
tác giả đã đưa ra những đánh giá khái quát về thành tựu cũng như hạn chế của
khoa học và công nghệ ở nước ta thời gian qua. Trên cở sở đó, luận giải một
8
số giải pháp cơ bản nhằm tạo ra sự phát triển mang tính đột phá của khoa học
và công nghệ, phát huy vai trò động lực của khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- “Để khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và động lực trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Hoàng Văn Phong, Bộ trưởng bộ
Khoa học công nghệ và môi trường tạp chí Cộng sản tháng 10/2003), nội
dung bài viết đã đề cập đến vai trò khoa học công nghệ là nền tảng, động lực
của công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, qua đó nêu ra một số giải pháp
để phát triển khoa học - công nghệ.
- “Vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất ở thành phố Đà Nẵng hiện nay” (Trương Thị Lan, năm 2014), nội

dung luận văn, tác giả đã trình bày về vai trò của khoa học - công nghệ đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất và vai trò của khoa học - công nghệ
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thành phố Đà Nẵng, qua đó tác
giả đã nêu ra một số giải pháp nhằm áp dụng khoa học - công nghệ để thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Đà Nẵng.
Bên cạnh đó có các công trình nghiên cứu như: “Vai trò của tri thức
khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay” (Trần Hồng Lưu, Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật năm 2009 ), đề cập
đến bản chất, cấu trúc tri thức khoa học, đồng thời làm rõ vai trò quan trọng
của tri thức khoa học trong đời sống xã hội và quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Việt Nam. Công trình nghiên cứu“Phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng” (Dương Anh
Hoàng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật năm 2012 ), tác giả đề cập rất rõ về
nội dung cơ bản về nguồn nhân lực, những đặc điểm của quá trình công
nghiệp hóa ở Đà Nẵng, đồng thời tác giả đưa ra giải pháp phát triển nguồn
nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng.
9
Đặc biệt, chủ trương của Đảng và Nhà nước về khoa học - công nghệ,
ban hành trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XI ngày
1.1.2012. Nghị quyết đã nêu rõ định hướng phát triển khoa học - công nghệ
đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Với việc phát triển và ứng dụng khoa học –
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất
để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó có: Luật khoa học
và công nghệ được kỳ họp thứ 7 Quốc Hội khóa X thông qua tháng 6 năm
2000 là bộ luật của Nhà nước Việt Nam về các vấn đề khoa học - công nghệ.
Đối với địa phương Đà Nẵng, tiếp cận bản báo cáo của Sở Khoa học và
công nghệ thành phố Đà Nẵng số 32/BC- SKHCN “Đánh giá tình hình hoạt
động khoa học và công nghệ 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng phát triển
5 năm 2016 – 2020”, báo cáo đã trình bày tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm
2011- 2015 và chiến lược phát triển khoa học công nghệ đến năm 2020, qua

đó báo cáo đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển khoa học công
nghệ 5 năm 2016- 2020. Và công trình: Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ
IX (nhiệm kỳ 2005 – 2010), thứ XX (nhiệm kỳ 2010 – 2015) của Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng; Báo cáo quy hoạch tổng thể ngành khoa học và công
nghệ thành phố Đà Nẵng đến năm 2020. Ngoài việc đánh giá tình hình và
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, các công trình này
đã đi sâu nghiên cứu sự tác động của khoa học – công nghệ dưới nhiều góc độ
và phương diện khác nhau. Tuy nhiên chưa làm rõ được sự thay đổi lớn về
chất của sự lực lượng sản xuất dưới tác động của khoa học và công nghệ.
Như vậy cho đến nay, do những góc độ khác nhau trong mục đích,
phương pháp tiếp cận, thời điểm nghiên cứu, chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu như luận văn này về đề tài “Yếu tố khoa học trong lực lượng
sản xuất với việc phát triển khoa học - công nghệ ở thành phố Đà Nẵng”
một cách có hệ thống cả về cơ sở lý luận thực tiễn, dưới góc độ triết học,
10
nhằm làm rõ lý luận về khoa học – công nghệ và học thuyết triết học Mác –
Lênin về lực lượng sản xuất, đặc biệt hơn, đề tài này còn làm rõ vai trò của
khoa học - công nghệ ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngoài ra, luận văn này còn đề xuất và phân tích những giải pháp cần thiết,
mang tính đặc thù, để phát triển khoa học và công nghệ của thành phố Đà
Nẵng trong giai đoạn hiện nay.
Trong luận văn này, tác giả đã kế thừa những thành quả nghiên cứu của
những công trình trong nước, đồng thời xây dựng hệ thống hóa những vấn đề
cơ bản về khoa học và công nghệ của thành phố. Từ đó đánh giá thực trạng và
làm rõ định hướng, phân tích sâu hệ thống nhóm giải pháp cơ bản để phát
triển khoa học - công nghệ của thành phố Đà Nẵng.

11
CHƯƠNG 1
KHOA HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC

TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.1. Các khái niệm về khoa học, công nghệ
* Khái niệm khoa học
Khái niệm khoa học đã xuất hiện từ rất sớm, đó là một quá trình nhằm
nghiên cứu, khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới…về tự nhiên
và xã hội. Trong lịch sử có rất nhiều quan niệm khác nhau về khoa học.
Trong từ điển Triết học, Nhà xuất bản Tiến bộ 1975 viết: “Khoa học -
lĩnh vực hoạt động nghiên cứu nhằm mục đích sản xuất ra những kiến thức
mới về tự nhiên, xã hội và tư duy bao gồm tất cả những điều kiện và những
yếu tố của sản xuất này” .
Trong từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa
Hà Nội 2002 viết: “Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư
duy được tích lũy trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể
hiện bằng khái niệm phán đoán, học thuyết”.
Ngoài ra, theo quan điểm triết học Mác - Lênin, khoa học được hiểu là
một hình thái ý thức xã hội.
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu một cách khái quát về khoa học:
Khoa học là một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động của
vật chất, những quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức này hình
thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Ngoài ra tùy vào mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận của từng ngành,
bộ môn khác nhau thì khái niệm khoa học cũng được tìm hiểu ở các góc độ
khác nhau:
12
- Xem xét khoa học là một hoạt động đặc thù.
Trước đây, hoạt động khoa học còn mang tính đơn lẻ, cá biệt của một
cá nhân hay một nhóm trong xã hội kém phát triển. Nhưng ngày nay khoa học
đã trở thành một hoạt động nghề nghiệp được xã hội hóa cao. Đó là một dạng

xã hội đặc biệt, hướng vào những việc tìm kiếm những điều chưa biết, là hoạt
động gian khổ, có nhiều rủi ro.
Trong xã hội phát triển hiện nay, hệ thống, mức độ phát triển khoa học
ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Khoa học đã trở thành một lĩnh
vực không thể thiếu trong đời sống xã hội, mà nó còn là điều kiện tiên quyết
giúp cho quá trình phát triển xã hội ngày một hiện đại hơn. Khoa học đã sáng
tạo ra các tri thức mới về quy luật của thế giới, về giải pháp, phương hướng
tác động vào thế giới khách quan, sáng tạo ra các sự vật mới, phục vụ vào
mục tiêu tồn tại và phát triển bản thân con người và xã hội loài người.
- Xem xét khoa học là một hệ thống tri thức của nhân loại về tự nhiên,
xã hội và con người.
Ngay từ khi xuất hiện, nhu cầu duy trì sự sống và nhận thức thế giới
xung quanh con người phải lao động chính vì thế sự hiểu biết của con người
về thế giới khách quan và về chính bản thân mình ngày càng phong phú nó trở
thành một hệ thống tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khoa học được xem xét với tư cách là hoạt động tinh thần của con
người hướng đến việc sản xuất tri thức về tự nhiên, xã hội và về chính bản
thân nhận thức. Nhưng mục tiêu là đạt tới chân lý, khám phá các quy luật
khách quan nhờ khái quát các sự kiện hiện thực trong mối liên hệ qua lại của
chúng, đoán nhận xu hướng phát triển của hiện thực trên những quy luật về
khám phá đó, chính vì vậy nó còn là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư
duy được đem lại bởi hoạt động nhận thức của con người.
13
Tóm lại trong quan niệm hiện nay, khoa học vừa là một loại hình hoạt
động tinh thần sáng tạo vừa là kết quả của hoạt động này. Với tính cách là
hoạt động tinh thần, khoa học là quá trình con người hướng vào việc sản xuất
ra tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy. Với tính cách kết quả của hoạt động
tinh thần, khoa học là tổng thể tri thức dưới dạng các khái niệm kết thành hệ
thống có tính toàn vẹn trên cơ sở những nguyên tắc xác định. Tập hợp những
thông tin rời rạc, lộn xộn mà chưa được tổ chức mức ở độ nhất định và chưa

có tính hệ thống, thì chưa phải là khoa học.
Trong mỗi bộ môn khoa học nó được thống nhất với nhau giữa các yếu
tố: Khách thể và chủ thể. Trong đó khách thể khoa học tức là đối tượng là cái
mà nhà khoa học nghiên cứu nhằm vạch ra tính chất, cấu trúc, xu hướng của
nó bao gồm hệ thống, phương pháp và thủ thuật chủ yếu do đối tượng quy
định. Còn chủ thể khoa học tức nhà khoa học là thành tố chủ yếu dưới các cấp
độ như cá nhân, nhóm hay là cộng đồng. Sự tồn tại của một khoa học được
thể hiện ở các phương diện: Một lĩnh vực hoạt động sản xuất tri thức của con
người ngày càng thâm nhập và trở thành yếu tố quan trọng của văn hóa; một
thiết chế xã hội cùng toàn bộ cơ sở hạ tầng của nó như tổ chức khoa học,
nguồn tài chính, thiết bị và phương tiên nghiên cứu; một quá trình nhận thức
mà kết quả của nó là những tri thức hợp nhất thành hệ thống hữu cơ đang phát
triển.
Một khoa học nó bao gồm năm tiêu chí sau: Thứ nhất, lý thuyết khoa
học là hệ thống tri thức dưới dạng phạm trù, khái niệm quy luật gồm bộ phận
riêng và bộ phận tiếp nhận từ tri thức khác; thứ hai, có một phương pháp luận
và lý thuyết về phương pháp và hệ thống phương pháp chỉ đạo việc lựa chọn,
xây dựng, sử dụng phương pháp gồm phương pháp luận riêng và phương
pháp luận tiếp nhận từ khoa học khác; thứ ba, có mục đích ứng dụng trực tiếp
hoặc gián tiếp, xác định hoặc chưa xác định; thứ tư, có một lịch sử nghiên
14
cứu, chính thức xuất hiện và đi vào phát triển song không phải khoa học nào
cũng thế; và thứ năm, có đối tượng nghiên cứu là những thuộc tính, yếu tố,
quan hệ bản chất của khách thể mà khoa học đó quan tâm phát hiện và cải
biến.
Như vậy với tính cách là lĩnh vực hoạt động tinh thần sản xuất ra hệ
thống các tri thức, khoa học có thể phân chia thành từng nhóm, ngành khác
nhau theo tiêu chí nhất định.
- Xem xét khoa học là một hình thái ý thức xã hội.
Khoa học được quy định bởi các yếu tố của tồn tại xã hội, đồng thời nó

có tác động mạnh mẽ trở lại đối với đời sống kinh tế xã hội và tồn tại xã hội
nói chung. Chẳng hạn như, sự thay đổi của khoa học chính là nguyên nhân
ban đầu của sự thay đổi về phương thức sản xuất trong một xã hội, mỗi thời
đại có một phương thức sản xuất đặc trưng nhất định, chính khoa học lại là
tiền đề tiên quyết cho phương thức đặc trưng của thời đại đó. Hay nói cách
khác thúc đẩy khoa học chính là thúc đẩy phương thức sản xuất mới tiến bộ
hơn.
Ngoài mối quan hệ biện chứng với tồn tại xã hội, khoa học còn có mối
quan hệ biện chứng với các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Chính khoa
học là tiền đề cơ sở cho việc hình thành và phát triển các hình thái ý thức xã
hội khác nhau đó. Ngược lại, chính các hình thái ý thức xã hội khác nhau đó
lại tác động ngược vào việc khám phá, truyền bá, ứng dụng các tri thức khoa
học vào sự phát triển chung của xã hội.
Ngoài ra xét về khoảng cách với thực tiễn xã hội hay là đối tượng và
phương pháp tri nhận tri thức thì có những cách đánh giá khác nhau qua các
cách nhìn nhận đó. Chẳng hạn như xét về khoảng cách với thực tiễn xã hội có
thể chia thành những khoa học lý thuyết nhằm vạch ra những quy luật và các
nguyên tắc cơ bản của hiện thực mà không định hướng trực tiếp vào xã hội.
15
Còn việc xét về đối tượng và phương pháp tri nhận tri thức chúng ta có thể
chia khoa học thành các khoa học về tự nhiên, các khoa học về xã hội, các
khoa học về nhận thức tư duy, các khoa học về công nghệ. Mỗi nhóm lại chia
thành các nhóm nhỏ để tiện trong việc thực hiện phương pháp tri nhận tri thức
trong khoa học.
* Khái niệm công nghệ
Công nghệ (có nguồn gốc từ technologia, hay τεχνολογια, trong tiếng
Hy Lạp; techne có nghĩa là thủ công và logia có nghĩa là “châm ngôn”) là một
thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và mưu mẹo của con người. Tùy vào
từng ngữ cảnh mà thuật ngữ công nghệ có thể hiểu được: Công cụ hoặc máy
móc giúp con người giải quyết các vấn đề; các kỹ thuật bao gồm các phương

pháp, vật liệu, công cụ và các tiến trình để giải quyết một vấn đề; các sản
phẩm được tạo ra phải hàng loạt và giống nhau; sản phẩm có chất lượng cao
và giá thành hạ.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thuật ngữ công nghệ, cụ thể:
Theo định nghĩa của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc
(UNIDO) viết: “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng
cách sử dụng các công trình nghiên cứu, và sử dụng nó có hệ thống, có
phương pháp. Công nghệ là sản phẩm tinh hoa của trí tuệ mà con người sáng
tạo ra cho xã hội và là công cụ chủ yếu để con người đạt được mục đích cần
thiết, là cơ sở để nâng cao năng suất lao động, tận dụng tài nguyên thiên
nhiên, cải thiện điều kiện làm việc”.
Theo định nghĩa của Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương viết: “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỷ thuật
để chế biến nguyên vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến
thức, thiết bị và phương pháp sử dụng chúng trong sản xuất, trong chế biến
thông tin, trong dịch vụ công nghiệp và trong quản lý”.
16
Ngoài ra theo từ điển tiếng việt viết: “Công nghệ là tổng thể nói chung
các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình
dáng nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản xuất
để tạo ra sản phẩm”.
Như vậy, từ những định nghĩa trên, có thể rút ra khái niệm cơ bản như
sau: Công nghệ là tổng hợp các hệ thống kiến thức khoa học được áp dụng
vào trong đời sống sản xuất vật chất nhằm đạt được mục đích cần thiết cho
con người. Công nghệ là nấc thang quan trọng không thể thiếu trong sự tiến
bộ của nhân loại.
Công nghệ được thể hiện qua hai bộ phận phần cứng và phần mềm cấu
thành:
Trong đó phần cứng bao gồm các trang thiết bị như: Máy móc, nhà
xưởng, thiết bị công cụ thiết yếu sản xuất…

Phần mềm bao gồm: Thành phần con người (kiến thức nghề nghiệp, tay
nghề, kỹ năng lao động tạo ra sản phẩm…); thành phần thông tin (quy trình sản
xuất, khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa, thông tin về thị trường…); cuối cùng là
thành phần tổ chức quản lý (hoạt động dịch vụ, tổ chức quản lý, tiếp thị…)
Trong quá trình sản xuất của một quy trình tạo ra sản phẩm, đó là sự
kết hợp chặt chẽ của phần mềm và phần cứng đó là điệu kiện cần và đủ cho
một quy trình sản xuất, sự kết hợp chặt chẽ này tạo ra hiệu quả cao, nó là điều
kiện không thể thiếu trong giai đoạn hiện nay khi mà khoa học - công nghệ
trở thành một nhân tố quyết định cho một chất lượng sản phẩm cạnh tranh
trên thị trường. Như vậy, lựa chọn phát triển công nghệ trở thành cấp thiết
trong chiến lược phát triển xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới.
1.1.2 Khái niệm lực lượng sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin
Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của
17
quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra
sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tạo ra năng
lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của tự nhiên theo nhu cầu
nhất định của con người và xã hội.
Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động
và đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn
của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại
của xã hội loài người, làm thay đổi giữa mối quan hệ người với người từ đó
dẫn tới sự thay đổi các mối quan hệ xã hội. Trong tác phẩm: “Sự khốn cùng
của triết học”, Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với
những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất,
cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những mối quan hệ của
mình”. Khi lực lượng sản xuất thay đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất tất
yếu củng thay đổi và phát triển theo, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc
cách mạng xã hội.

Còn trong tác phẩm: “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị và Tư
bản”, Mác đã chỉ rõ năng lực của con người đó chính là sức lao động. Và sức
lao động theo Mác là: “Toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là
khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình
sản xuất và lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội”.
Trong hoạt động sản xuất vấn đề sức lao động của con người hoàn toàn
phụ thuộc vào mục đích, nhu cầu, trình độ, cách thức tổ chức và còn phụ
thuộc vào các vấn đề khách quan trong quá trình sản xuất vật chất. Ngoài ra
đó chưa phải là nguyên nhân đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng về sức lao
động của con người trong quá trình sản xuất vật chất, ở đó còn có sự phụ
18
thuộc vào yếu tố tinh thần của con người trong quá trình hoạt động sản xuất,
chẳng hạn như: Tinh thần, kỹ năng, thị hiếu, kinh nghiệm… những yếu tố này
tuy không giữ vai trò nòng cốt nhưng có ảnh hưởng ít nhiều trong quá trình
sản xuất vật chất.
Như trong mọi hoạt động khác, con người lấy vật chất làm đối tượng
trực tiếp tạo ra sản phẩm, đây chính là kết quả trong quá trình hoạt động sản
xuất vật chất của con người. Thông qua hoạt động sản xuất, con người đã làm
thay đổi một phần nội dung và hình thức để tạo thành sản phẩm. Đối tượng
sản xuất vật chất đầu tiên mà con người làm chủ thể đó là tự nhiên, tự nhiên là
trung tâm để con người tác động vào để tạo ra sản phẩm trong quá trình sản
xuất vật chất. Về sau, khi khoa học càng phát triển, thứ mà con người hướng
đến lại là những thứ không có trong tự nhiên, con người tìm đến những đối
tượng mới để hoạt động sản xuất vật chất, phục vụ nhu cầu của con người và
xã hội.
Tóm lại, con người đã dựa vào tự nhiên và những đối tượng do con
người tạo ra bằng chính lao động của mình để biến thành sản phẩm. Đặc biệt
ngày nay nhóm đối tượng do con người tạo ra bằng chính lao động của mình,

ngày càng tăng dần và chiếm đa số, nhưng tự nhiên vẫn là chủ thể không thể
thiếu trong hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Hoạt động sản xuất vật chất phải có những đối tượng vật chất và tư liệu
lao động. Thông qua hoạt động của chủ thể người lao động, tác động vào đối
tượng lao động thông qua tư liệu và cách thức sản xuất, con người đã làm
thay đổi tính chất, kết cấu, trạng thái và sẽ trở thành sản phẩm. Những hành
động sản xuất vật chất đầu tiên của con người chỉ có thể lấy được những đối
tượng khách quan ấy từ giới tự nhiên. Một hàng hóa bất kỳ luôn có sự kết
tinh bên trong nó là sức lao động của con người, nhưng nếu mổ xẻ hàng hóa
này ra thì ta không thấy một gam hay một tinh thể sức lao động nào ở trong

×