Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ SAU đại HỌC, TỔNG QUAN về KINH tế HỌC VÀ LÝ THUYẾT lựa CHỌN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.97 KB, 12 trang )

Chuyên đề
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VÀ LÝ THUYẾT LỰA CHỌN
* * *

I. KHÁI NIỆM, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ ĐẶC
TRƯNG CỦA KINH TẾ HỌC
1. Khái niệm kinh tế học
Kinh tế học xuất hiện cách nay hơn 2 thế kỷ và trải qua nhiều giai đoạn
phát triển, do đó đã xuất hiện khá nhiều định nghĩa về kinh tế học.
Quan niệm thông dụng, được nhiều nhà kinh tế hiện nay thống nhất:
Kinh tế học là là môn học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn
tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hóa cần thiết và phân phối
cho các thành viên của xã hội.
Kinh tế học là môn học nghiên cứu hoạt động của con người trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa. Kinh tế học có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn
khoa học xã hội như: triết học, kinh tế chính trị học, sử học, xã hội học...
Kinh tế học với Kinh tế chính trị: là hai môn học khác nhau, có đối
tượng nghiên cứu riêng
Hai phân ngành lớn của kinh tế học: kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ tổng thể rộng lớn
của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, sự biến động của giá cả và việc làm
của cả nước; cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái...
Kinh tế vi mô lại nghiên cứu sự hoạt động của các tế bào trong nền kinh
tế là các doanh nghiệp hoặc gia đình, nghiên cứu những vấn đề tiêu dùng cá
nhân, cung cầu, sản xuất, giá cả thị trường, lợi nhuận, cạnh tranh.
Sự khác nhau giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô còn có thể
được minh họa bằng thí dụ về lĩnh vực đầu tư sau đây: Trong kinh tế học vĩ
mô ta xem xét việc xác định suất đầu tư bình quân của các doanh nghiệp và sự
chi tiêu đó ảnh hưởng như thế nào đến tổng sản phẩm quốc dân, công ăn, việc



làm, giá cả. Còn trong kinh tế học vi mô lại tập trung xem xét các quyết định
của doanh nghiệp có ảnh hưởng như thế nào đến khối lượng sản xuất, việc lựa
chọn các yếu tố sản xuất và việc định giá các hàng hóa cụ thể.
Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô tuy khác nhau, nhưng không chia
cắt nhau mà bổ sung cho nhau, tạo thành hệ thống kiến thức của kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào
các hành vi của kinh tế vi mô, kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển
của các doanh nghiệp, của tế bào kinh tế trong sự tác động ảnh hưởng của
kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô tạo hành lang, môi trường, điều
kiện cho kinh tế vi mô phát triển.
2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học
Tuỳ theo cách thức sử dụng mà kinh tế học được chia ra thành hai phương
pháp nghiên cứu: kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Nghiên cứu
kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế
học chuẩn tắc.
Kinh tế học thực chứng mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan
hệ trong nền kinh tế: Tỷ lệ lạm phát hiện nay là bao nhiêu? Nếu lạm phát
giảm đi 2% thì tỷ lệ thất nghiệp có tăng lên không và tăng lên bao nhiêu?
Kinh tế học thực chứng là để trả lời câu hỏi: bao nhiêu? là gì? như thế nào?
Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa
chọn, chẳng hạn chư: tỷ lệ thất nghiệp cao đến mức độ nào thì chấp nhận
được ? Có nên tăng chi phí quốc phòng không? Có nên dùng thuế để lấy bớt
của người giàu bù cho người nghèo không ? Những vấn đề này thường được
tranh luận nhưng không bao giừo được giải quyết bằng khoa học hoặc bằng
thực tiễn kinh tế. Kinh tế học chuẩn tắc là để trả lời câu hỏi: nên làm gì?
Các phương pháp khác:
Phương pháp quan sát, thu thập số liệu: Do các hiện tượng kinh tế hết sức
phức tạp, thường xuyên biến động và chịu nhiều yếu tố tác động nên quan sát
là cần thiết và sưu tầm đầy đủ các số liệu. Sử dụng phương pháp phân tích sau
khi đã có số liệu. Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa, bóc tách các nhân tố



không định nghiên cứu để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa những biến số
cơ bản. Khi phân tích trừu tượng như vậy, việc sử dụng phương pháp thống kê
có ý nghĩa rất lớn. Sau đó cần rút ra những kết luận, đối chiếu với thực tế, phát
hiện ra những những điểm bất hợp lý, đề ra các giả thiết mới, rồi lại kiểm
nghiệm bằng thực tế để rút ra những kết luận sát thực hơn đối với đời sống
kinh tế.
3. Những đặc trưng của kinh tế học
a. Gắn liền với tiền đề nghiên cứu và phát triển của môn học
Đây là đặc trưng cơ bản và quan trọng của kinh tế học. Đó là kinh tế học
nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối với nhu cầu kinh
tế - xã hội. Nếu có thể sản xuất với số lượng vô hạn về mọi loại hàng hóa và
thoả mãn đầy đủ được mọi nhu cầu của con người, thì sẽ không có hàng hóa
kinh tế và cũng không cần tiết kiệm hay nghiên cứu kinh tế học.
b. Tính hợp lý của kinh tế học
Đặc trưng này thể hiện ở chỗ khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh
tế nào đó, cần phải dựa trên những giả thiết nhất định về diễn biến của sự kiện
kinh tế này. Chẳng hạn khi muốn phân tích xem người tiêu dùng muốn mua thứ
gì, với số lượng bao nhiêu, kinh tế học đưa ra giả định là họ tìm cách mua được
nhiều hàng hóa và dịch vụ nhất với số thu nhập có hạn của mình. Để giải thích
xem doanh nghiệp sản xuất cái gì, bao nhiêu và bằng cách nào, nó giả định là
họ tìm cách tối đa hóa thu nhập của mình với những ràng buộc nhất định về các
yếu tố sản xuất. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, tính chất hợp lý của những giả thiết
chỉ có ý nghĩa tương đối.
c. Kinh tế học nghiên cứu mặt lượng
Việc thể hiện các kết quả nghiên cứu kinh tế bằng những con số có tầm quan
trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả của các hoạt động kinh tế, nếu chỉ nhận định
nó tăng lên hay giảm đi thì chưa đủ mà còn phải xác định xem sự thay đổi đó là
bao nhiêu.

d. Tính toàn diện và tính tổng hợp của kinh tế học
Khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên


hệ với các hoạt động và sự kiện kinh tế khác trên phương diện một nước,
thâm chí trên phương diện kinh tế thế giới.
e. Các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ được xác định ở mức trung bình
Vì những kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau và
không thể xác định được chính xác tất cả các yếu tố này.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LÝ THUYẾT LỰA CHỌN

1. Quan niệm sự lựa chọn
Quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, mỗi ngành, mỗi địa phương và
mỗi doanh nghiệp, chính là quá trình lựa chọn để quyết định tối ưu sản xuất cái
gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai ? Sự lựa chọn kinh tế tối ưu đều
phải dựa trên lý thuyết lựa chọn, chỉ có trên cơ sở đó mới xây dựng được
phương pháp ứng dụng trong các trường hợp cụ thể, trong từng lĩnh vực hoạt
động.
a. Lý thuyết lựa chọn tìm cách lý giải cách thức mà những nhân vật khác
nhau sử dụng để đưa ra những quyết định của mình. Nó cố gắng giải thích tại
sao họ lựa chọn và cách thức lựa chọn của họ
Khái niệm hữu ích nhất được sử dụng trong lý thuyết lựa chọn là khái
niệm chi phí cơ hội. Nếu ta hiểu rõ khái niệm chi phí cơ hội thì ta có được
một công cụ để xử lý một loạt vấn đề kinh tế khác nhau, một loạt tình huống
khác nhau xảy ra trong các hoạt động kinh tế.
Khái niệm chi phí cơ hội: Khi người ta quyết định làm một việc gì đó, tức là
đã bỏ mất cơ hội để làm việc khác và khả năng khác bị mất đi đó, được gọi là chi
phí cơ hội.
Ví dụ: Giả sử bạn có 300 nghìn đồng thu nhập thêm vào đầu dịp nghỉ hè.
Với số tiền này bạn có thể đi Sầm Sơn nghỉ mấy ngày hoặc mua một chiếc

quạt bàn. Nếu bạn quyết định đi nghỉ ở Sầm Sơn thì các nhà kinh tế sẽ nói
rằng chi phí cơ hội của chuyến đi này là chiếc quạt mới.
Bản chất của chi phí cơ hội: Chi phí cơ hội của một quyết định là giá trị
hàng hóa hoặc dịch vụ bị bỏ qua khi lựa chọn quyết định đó và bỏ qua các quyết
định khác trong điều kiện khan hiếm các yếu tố thực hiện quyết định.


Ví dụ: Khi quyết định sử dụng thời gian của mình trong ngày hôm nay, tôi
đã chọn việc nghe chuyên gia giảng chuyên đề, vì những lợi ích đạt được sẽ lớn
hơn là chi phí cơ hội trong trường hợp sử dụng thời gian để đọc sách.
b. Tại sao sự lựa chọn là cần thiết: vì các nguồn lực là có giới hạn.
c. Tại sao sự lựa chọn có thể thực hiện được: vì một nguồn lực khan
hiếm có thể sử dụng vào mục đích này hay mục đích khác.
2. Mục tiêu của sự lựa chọn
a. Đối với người tiêu dùng, mục tiêu lựa chọn là tối đa hoá lợi ích với khả
năng hạn chế về ngân sách và giá cả hàng hóa.
b. Đối với nhà sản xuất có một hàm mục tiêu, để đơn giản hóa vấn đề,
người ta coi đó là mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong điều kiện nguồn lực
đầu vào có hạn, khan hiếm, trong điều kiện mở rộng thương mại quốc tế,
phát huy lợi thế so sánh.
c. Đối với chính phủ cũng phải đưa ra quyết định về sử dụng ngân sách
hữu hạn của mình sao cho đạt mục tiêu phúc lợi ích xã hội lớn nhất…
3. Bản chất và phương pháp lựa chọn kinh tế tối ưu
a. Bản chất của sự lựa chọn kinh tế tối ưu
Chúng ta không thể sản xuất mọi thứ theo khối lượng mong muốn, vì các
nguồn tài nguyên đều khan hiếm so với mong muốn của chúng ta. Trong điều
kiện đó, chúng ta lựa chọn sản xuất hàng hóa, dịch vụ này, thì mất một cơ hội
để sản xuất hàng hóa, dịch vụ khác. Sự lựa chọn tối ưu cần trước hết ưu tiên
về mặt kinh tế, nhưng đồng thời phải chú ý thỏa đáng các vấn đề xã hội, an
toàn và an ninh quốc gia.

Như vậy, bản chất của sự lựa chọn kinh tế là căn cứ vào nhu cầu vô hạn
của con người, của xã hội, của thị trường để ra các quyết định tối ưu về sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai trong giới hạn cho phép
của nguồn lực hiện có.
b. Phương pháp tiến hành lựa chọn kinh tế
Trong lựa chọn kinh tế tối ưu, thông thường người ta sử dụng mô hình
toán với các bài toán tối ưu. Nhưng ràng buộc quan trọng nhất là giới hạn của


đường năng lực sản xuất. Tất cả những luận cứ khách quan và chủ quan về sự
lựa chọn các quyết định kinh tế tối ưu đều phải nằm trên đường giới hạn của
năng lực sản xuất hiện có. Trên dường năng lực cho phép đó, chúng ta sẽ
chọn tại điểm nào thì tối ưu cho mong muốn của chúng ta.
4. Ảnh hưởng của một số quy luật đến việc lựa chọn kinh tế tối ưu
a) Quy luật khan hiếm
Nhu cầu tăng lên vô hạn nhưng khả năng sản xuất cung ứng luôn hữu
hạn do sự khan hiếm về tài nguyên và hạn chế về năng lực sản xuất hiện có,
do vậy các chủ thể kinh tế luôn phải lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh
tối ưu.
b)oQuy luật thu nhập giảm dần
Qui luật này nói lên mối liên hệ giữa một đầu vào của quá trình sản xuất với
đầu ra của sản xuất do đầu vào đó tạo ra. Quy luật này cho thấy, khối lượng đầu ra
có thêm ngày càng giảm, khi liên tiếp bỏ thêm những đơn vị bằng nhau của một
đầu vào biến đổi (như lao động) với điều kiện số lượng đầu vào khác (như đất đai)
giữ cố định.(Nói cách khác, nội dung quy luật phản ánh một sự tăng lên của mỗi
đơn vị đầu vào biến đổi so với một đầu vào khác cố định với một trình độ kĩ thuật
nhất định, sẽ làm gia tăng sản lượng đầu ra, nhưng đến một thời điểm nào đó nếu
càng gia tăng các yếu tố đầu vào, đầu ra sẽ tăng chậm dần hoặc không tăng nữa).
Số lao
động


Sản
lượng (tạ)

Sản

lượng

biên (tạ)

100

2500

101

2520

20

102

2535

15

103

2545


10

Bảng 2. Ví dụ bằng số quy luật thu nhập giảm dần
Chú ý: Quy luật này không phải lúc nào cũng đúng. Trong nhiều trường
hợp, nó chỉ có hiệu lực khi đã bổ sung một số lớn các lượng bằng nhau của
đầu vào biến thiên. Hay nói cách khác, lúc đầu thì đầu vào biến thiên có thể


đem lại thu nhập bổ sung ngày càng tăng (vì chúng có thể hỗ trợ nhau tạo ra
năng suất cao) nhưng rốt cuộc thì quy luật thu nhập giảm dần sẽ xảy ra.
Cần phân biệt hai trường hợp sau đây với qui luật thu nhập giảm dần:
- Trường hợp thu nhập không đổi theo qui mô: Sự tăng thêm cân đối về
qui mô, khi tất cả các đầu vào đều tăng theo cùng một tỷ lệ cùng một lúc thì
đầu ra cũng tăng theo tỷ lệ đó. Rõ ràng đều này không mâu thuẫn gì với qui
luật thu nhập giảm dần.
- Trường hợp thu nhập tăng theo qui mô: Nếu tăng tất cả các đầu vào cùng
một lúc và cùng tỷ lệ. Trong nhiều quá trình công nghiệp, khi nhân đôi tất cả các
yếu tố đầu vào thì có thể làm cho nhà máy hoạt động có hiệu quả hơn và do đó
sản lượng tăng lên hơn gấp đôi. Trường hợp này gắn với sản xuất hàng loạt, có
phân công lao động chuyên môn hóa cao và sản xuất với qui mô lớn.
- Quy luật này giúp cho các doanh nghiệp tính toán lựa chọn các yếu tố
đầu vào một cách tối ưu hơn.
c) Quy luật chi phí cơ hội tăng dần
Quy luật này nói rằng, để có thêm một số lượng bằng nhau về một mặt
hàng, xã hội phải hy sinh ngày càng nhiều số lượng các mặt hàng khác. (Bảng
và đồ thị). Giả sử việc sản xuất quần áo sẽ chủ yếu dùng đến lao động và hầu
như không dùng đến đất đai, còn việc sản xuất lương thực cần đến cả lao
động và đất đai. Giả sử tiếp nữa là đất đai được coi là cố định. Bắt đầu xuất
phát từ điểm A ta thấy rằng, việc giảm đi từng đơn vị khỏi ngành sản xuất
quần áo để chuyển sang ngành sản xuất lương thực sẽ làm tăng sản lượng

lương thực. Tuy nhiên, do trong ngành này đất đai là cố định nên theo qui luật
thu nhập giảm dần, số lao động như nhau được bổ sung cho ngành sản xuất
lương thực sẽ tạo ra ngày càng ít lương thực.
Điều kiện để tồn tại qui luật này là tỷ lệ sử dụng đầu vào của hai loại
hàng hóa phải khác nhau. Nếu tỷ lệ như nhau thì đường giới hạn khả năng sản
xuất trở thành đường thẳng và qui luật này không còn đúng nữa.
Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng giúp chúng ta tính toán sản xuất
cái gì, như thế nào có lợi nhất.


d) Giới hạn khả năng sản xuất (PPF)
* Sự minh họa PPF:
Giả sử trong nền kinh tế có số lượng các yếu tố sản xuất và trình độ công
nghệ cho trước. Khi phải quyết định sản xuất cái gì, như thế nào cần phải quyết
định phân phối như thế nào các tài nguyên để sản xuất hàng nghìn loại hàng hóa
khác nhau. Để đơn giản, ta giả sử chỉ có 2 loại hàng hóa: lương thực và quần áo.
Bảng 1. Những khả năng sản xuất thay thế khác nhau
Khả năng

Quần áo
(nghìn bộ)

Lương thực (tấn)

Quần áo (nghìn bộ)

A

0


7,5

B

1

7

C

2

6

D

3

4,5

E

4

2,5

F

5


0

A

B

.N

C
D

.M

E

F

Lương thực
(tấn)
Hình 1. Đường giới hạn khả năng sản xuất
Theo đường cong A.B.C...xã hội ngày càng có ít quần áo và nhiều lương
thực hơn. việc chuyển quần áo thành lương thực được thực hiện thông qua
việc chuyển tài nguyên được sử dụng trong việc sản xuất ra quần áo sang sản
xuất lương thực.
Trong ví dụ này ta đã ngầm giả định nền kinh tế đang ở trên đường giới


hạn khả năng sản xuất của mình (sử dụng hết tài nguyên) và khi đó ta nói nền
kinh tế đang hoạt động có hiệu quả.
Những điểm nằm ở phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất (như

điểm M) là điểm thể hiện nền kinh tế chưa đạt hiệu quả, do sử dụng không hết
nguồn tài nguyên hoặc do một yếu tố nào đó về công nghệ, về chính trị hoặc
độc quyền, khiến không thể kết hợp một cách có hiệu quả các yếu tố đầu vào
sản xuất. Những điểm nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất như tại
điểm N là không thể đạt được của nền kinh tế.
III. BA CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ, VAI TRÒ CỦA
THỊ TRƯỜNG VÀ CHÍNH PHỦ TRONG NỀN KINH TẾ HỖN HỢP
1. Ba chức năng cơ bản và các mô hình nền kinh tế giải quyết 3
chức năng
a, Ba chức năng cơ bản
Tất cả các nền kinh tế quốc dân đều phải thực hiện ba chức năng cơ bản sau:
- Sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ nào, với số lượng bao nhiêu?
Cơ sở của chức năng này là sự khan hiếm nguồn lực so với nhu cầu xã
hội. Nhiệm vụ chủ yếu mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải giải quyết là giảm
đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm không cần
thiết và tăng cường đến mức tối đa việc sản xuất những sản phẩm cần thiết.
- Các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất như thế nào?
Việc lựa chọn đúng đắn vấn đề thông thường cũng đồng nghĩa với việc sử
dụng số lượng chi phí đầu vào thấp nhất để sản xuất ra một số lượng sản phẩm
nhất định.
- Hàng hóa và dịch vụ được sản xuất cho ai? hay sản phẩm quốc dân
được phân chia như thế nào cho các thành viên của xã hội?
Ba chức năng trên là ba vấn đề mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng đều phải
thực hiện dù trình độ phát triển như thế nào. Những chức năng đó đều mang
tính lựa chọn, bởi vì nguồn lực cần thiết để sản xuất ra sản phẩm đều khan
hiếm. Cơ sở của sự lựa chọn được thực hiện là: 1. Hiện đang có những cách
thức sử dụng khác nhau các nguồn lực trong sản xuất ra những sản phẩm khác


nhau. 2. Có các phương pháp khác nhau để sản xuất ra một sản phẩm cụ thể.

3. Có các phương pháp khác nhau để phân phối hàng hóa và thu nhập cho các
thành viên xã hội.
Những cách thức thực hiện ba chức năng cơ bản trong mỗi nước cụ thể
tuỳ thuộc vào: điều kiện lịch sử, hệ tư tưởng và chính sách của nhà nước.
b, Các mô hình của nền kinh tế giải quyết 3 chức năng cơ bản
Mô hình nền kinh tế tập quán truyền thống (hay bản năng) tồn tại trong
công xã nguyên thuỷ. Ba chức năng được quyết định theo tập quán truyền
thống duy trì từ thế hệ trước sang thế hệ sau.
Mô hình nền kinh tế chỉ huy (hay KHH tập trung), trong đó chính phủ ra
mọi quyết định về sản xuất và phân phối. Ba chức năng được thực hiện theo
những kế hoạch tập trung thống nhất của nhà nước.
Mô hình nền kinh tế thị trường: ba chức năng được thực hiện thông qua cơ
chế thị trường, trong đó cá nhân người tiêu dùng và doanh nghiệp tác động lẫn
nhau trên thị trường để xác định giá cả thị trường, lợi nhuận thu nhập. Các
doanh nghiệp sẽ sản xuất những mặt hàng đem lại lợi nhuận cao nhất, bằng
những kỹ thuật rẻ nhất và tiêu dùng của các hộ gia đình được xác định bởi số
lượng tiền công có được nhờ lao động và từ lợi tức, nhờ sở hữu tài sản của
mình.
Mô hình nền kinh tế hỗn hợp: đó là mô hình kết hợp các nhân tố thị
trường, chỉ huy và truyền thống, trong đó các thể chế công (mệnh lệnh, chính
sách của chính phủ) và tư nhân (thông qua bàn tay vô hình của cơ chế thị
trường) đều kiểm soát nền kinh tế, thực hiện ba chức năng cơ bản.
1. Vai trò của người tiêu dùng, doanh nghiệp, chính phủ và người
nước ngoài trong nền kinh tế hỗn hợp
Trong nền kinh tế hỗn hợp, các nhà kinh tế đã chia ra tác nhân kinh tế
thành 4 nhóm để giải thích hành vi và phương thức thực hiện các chức năng
chủ yếu của từng nhóm. Trong đó quan trọng là người tiêu dùng, doanh
nghiệp và chính phủ.
a) Vai trò của người tiêu dùng



Người tiêu dùng là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hóa và
dịch vụ để thoả mãn những nhu cầu thực phẩm, quần áo, dịch vụ đi lại...
Người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến sự quyết định sản xuất cái gì
trong nền kinh tế. Hành vi của người tiêu dùng bị thúc đẩy bởi một số yếu tố
chung nào đó (như là nguyện vọng của họ muốn thoả mãn tối đa nhu cầu của
mình với số thu nhập có hạn) (và thường thấy khi đứng trước 1 hàng hóa bán
ra với giá cả khác nhau, họ sẽ mua hàng hóa với giá cả thấp hơn, nhờ vậy số
thu nhập còn lại sẽ thoả mãn nhu cầu khác) và do vậy có thể dự báo với độ tin
cậy nhất định hành vi mua hàng của họ.
b) Vai trò của doanh nghiệp
Người sản xuất hàng hóa và dịch vụ tư nhân giữ một vai trò quan trọng
trong vấn đề quyết định sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào. Lý do:
Phương thức hoạt động của các nhà sản xuất tư nhân trong nền kinh tế là
mục đích kiếm lợi nhuận cao nhất. Chịu sự tác động của bàn tay vô hình: các
hộ gia đình mua hàng tiêu dùng và bán các yếu tố sản xuất. Giá cả ở thị
trường hàng hóa được xác định trên cơ sở cân đối giữa cầu của người tiêu
dùng và cung của nhà kinh doanh; còn giá cả ở thị trường các yếu tố sản xuất
được xác định trên cơ sở cân đối giữa cung của hộ gia đình và cầu của người
kinh doanh.
Như vậy, bàn tay vô hình sẽ dẫn dắt những lợi ích của từng cá nhân
trong một xã hội dựa trên cơ chế thị trường đến chỗ đạt được lợi ích của tất cả
mọi người. Tuy nhiên, bàn tay vô hình cũng có những hạn chế do đó, các nhà
sản xuất còn quan hệ với chính phủ, do đó tầm quan trọng vai trò của doanh
nghiệp còn tuỳ thuộc vào mối quan hệ này trong từng nước.
c, Vai trò của chính phủ
Trong nền kinh tế hỗn hợp, chính quyền từ cơ sở đến trung ương vừa là
người sản xuất vừa là người mua nhiều hàng hóa và dịch vụ. Chính phủ cung
cấp các dịch vụ vận tải, thông tin, điện lực....chính phủ sở hữu nhiều doanh
nghiệp sản xuất hàng hóa công nghiệp và nông nghiệp. Với tư cách là người

sản xuất, chính phủ tác động vào việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào


giống như các doanh nghiệp tư nhân, có điều những động lực thúc đẩy có
phần phức tạp hơn.
Vai trò của chính phủ có thể được minh họa bằng 3 chức năng chủ yếu;
Chức năng hiệu quả: Chính phủ đề ra các đạo luật làm giảm tác động
tiêu cực của thị trường đến hiệu quả sản xuất và tiêu dùng.
Chức năng công bằng: khắc phục sự bất bình đẳng thông qua việc phân phối
lại thu nhập như đánh thuế người giàu cao hơn người nghèo, hỗ trợ thu nhập...
Chức năng ổn định: tức là duy trì sự cân bằng kinh tế vĩ mô thông qua
các chính sách tài khoá, tiền tệ.
d, Người nước ngoài
Trong nền kinh tế mở người nước ngoài có vai trò quan trọng. Bởi vì
xuất nhập khẩu, vay nợ, viện trợ, đầu tư nước ngoài tác động đáng kể đến qui
mô, cơ cấu và thành tự kinh tế của đất nước.
* * *



×