Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO TÌM HIỂU sự BIẾN đổi, THÍCH NGHI CỦA CHỦ NGHĨA tư BẢN NGÀY NAY VÀ sự lựa CHỌN CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.79 KB, 18 trang )

TÌM HIỂU SU BIẾN ĐỔI, THÍCH NGHI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
NGÀY NAY VÀ SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Chủ nghĩa tư bản (CNTB) với tư cách là một phương thức sản xuất xã
hội, từ khi ra đời đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Giai đoạn
phát triển của nó từ chiến tranh thế giới thứ hai đến nay diễn ra rất phức tạp,
với nhiều biểu hiện mới, mà nổi bật nhất là sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất, sự thay đổi to lớn về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng.
Trong mấy thập kỷ gần đây cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học- công nghệ, nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa
tăng trưởng khá nhanh, tương đối ổn định, cơ cấu ngành thay đổi, phân công
lao động phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, điều kiện lao động được
cải thiện...Từ những biểu hiện mới này rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
đang được đặt ra đối với các nghiên cứu về CNTB.
Nhận diện CNTB hiện đại, đánh giá đúng những mặt phát triển và tồn
tại, xu thế của nó là một vấn đề khá phức tạp. Nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước đã bàn về vấn đề này nhưng còn có những ý kiến khác nhau. Cùng
một hiện tượng xã hội nhưng phân tích, đánh giá ra sao, rút ra kết luận gì, xét
cho cùng là tùy thuộc ở lập trường giai cấp, phương pháp xem xét của các tác
giả.
Trước sự biến đổi, thích nghi của CNTB hiện đại, có nhiều quan điểm
đánh giá và rút ra kết luận khác nhau. Bên cạnh những quan điểm đúng đắn
dựa trên lập trường và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, bảo vệ sự
phát triển những nguyên lý cơ bản trong những điều kiện mới của thời đại,
còn không ít những quan điểm hoặc là sách vở, giáo điều không thấy có gì
mới trong CNTB hiện đại hoặc là cơ hội, xét lại, ca tụng một chiều CNTB và
rút ra những kết luận sai lầm.


Một số học giả cho rằng: Bản chất của CNTB đã thay đổi, CNTB hiện


nay không còn là CNTB, chủ nghĩa đế quốc nữa. Nó đã là một xã hội mà ở đó
lực lượng sản xuất phát triển rất cao, quan hệ giữa người với người là quan hệ
hợp tác bình đẳng; nhà nước không còn là nhà nước của giai cấp tư sản mà là
“nhà nước phúc lợi chung”, “lo toan cho tất cả mọi người như nhau”. Họ cho
rằng “lý luận giá trị thặng dư của Mác ngay từ đầu đã là một huyền thoại áp
đặt cho lịch sử đương thời”. Tư bản không bóc lột công nhân, quan hệ giữa tư
bản và lao động là quan hệ hai bên cùng có lợi, công nhân được “phân phối
theo lao động, còn lợi nhuận, lợi tức của nhà tư bản là do tiền vốn, máy móc,
do lao động quản lý, dám “chịu rủi ro” trong kinh doanh mà có.
Vấn đề được đặt ra, những biến đổi, thích nghi của CNTB hiện đại có
làm thay đổi bản chất của CNTB không? CNTB có những biến đổi có tính
bản chất không?
1. Những biến đổi thích nghi của CNTB ngày nay
1.1. Về lực lượng sản xuất
Nhờ nhanh chóng ứng dụng những thành tựu của khoa học và công
nghệ hiện đại, CNTB ngày nay đã tạo ra những bước phát triển mới về lực
lượng sản xuất.
Với sự xuất hiện của máy tính điện tử trong cao trào cách mạng khoa
học-công nghệ sau chiến tranh đã đưa nền sản xuất cơ khí của CNTB bước
vào giai đoạn tự động hóa. Máy móc từ ba bộ phận-phát lực, truyền lực và
công cụ đã xuất hiện bộ phận thứ tư: điều khiển tự động hóa sản xuất phát
triển chẳng những làm tăng năng suất lao động, mà còn làm giảm lao động thể
lực. Biểu hiện nổi bật nhất của tự động hóa sản xuất ngày nay là việc sử dụng
rộng rãi người máy ở các nước tư bản phát triển. Theo thống kê năm 1990
Nhật Bản đã sử dụng khoảng 270 ngàn người máy, Mỹ khoảng 40 ngàn và
Đức khoảng 30 ngàn. Nhiều nhà máy không người đã xuất hiện. Hơn nữa, sự
phát triển máy điện toán, máy thiết kế điện toán đã thay thế một phần lao
động trí óc của con người. Đặc biệt khi “người máy trí tuệ” ra đời, ở một mức



độ nhất định, nó đã vượt qua sự hạn chế của não người, hệ thống máy móc đã
thực sự có sự biến đổi cách mạng, đã nâng rất cao hiệu suất lao động tư duy
của con người làm cho nhận thức của con người đối với giới tự nhiên ngày
càng rộng và sâu hơn, viễn cảnh phát triển của lực lượng sản xuất càng to lớn
hơn.
Phương thức lao động ở các nước tư bản cũng đã có sự thay đổi mang
tính cách mạng. Lao động trí óc ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự
phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Ngày nay, tại các nước tư bản phát triển,
số công nhân “cổ trắng”, “cổ vàng” làm việc trí óc đã nhiều hơn số công nhân
“cổ xanh” làm việc chân tay. Ở Mỹ, năm 1957 bắt đầu bước ngoặt lịch sử
trong đó công nhân trực tiếp sản xuất không còn giữ vị trí hàng đầu trong lực
lượng lao động nữa. Hiện nay, số công nhân trực tiếp sản xuất ở Mỹ đã giảm
xuống còn 13% lực lượng lao động.
Bước phát triển mới của cách mạng khoa học, công nghệ bộ phận năng
động nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, ở mức độ nhất định đã đưa sản
xuất và đời sống con người vượt qua những hạn chế của nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Việc sử dụng năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời đã làm
giảm sự phụ thuộc của con người vào nguồn năng lượng khoáng sản, sự ra đời
của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm phụ thuộc vào tài
nguyên thiên nhiên không tái sinh được, mà còn cung cấp cho con người
nguồn vật liệu mới với tính năng ưu việt hơn và tái sinh được. Nhờ phát minh
và sử dụng những vật liệu mới này mà con người đã có thể thu nhỏ máy tính
điện tử xuống hàng vạn lần về thể tích, đồng thời tăng hiệu năng của nó lên
hàng chục vạn lần so với vài ba thập kỷ trước.
Cơ cấu ngành của lực lượng sản xuất và cơ cấu sản phẩm cũng được đa
dạng hóa và hiện đại hóa với tốc độ chóng mặt, nhờ đi đầu trong cuộc cách
mạng kỹ thuật mới và rút ngắn hơn lúc nào hết thời gian từ nghiên cứu đến
sản xuất. Hiện nay Mỹ đã, đang dẫn đầu thế giới về 31 lĩnh vực kỹ thuật mới,
Nhật Bản-9 lĩnh vực. Nếu trước đây, một thành quả khoa học-công nghệ quan



trọng từ lúc phát minh cho đến khi đưa vào sản xuất phải mất cả thế kỷ, thì
ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa phát triển chỉ cần có mấy năm, thậm chí
có mấy tháng. Đây thực sự là bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất cả về số
lượng và chất – nhất là về chất. Bước nhảy này được sách báo thế giới đánh
giá là lớn hơn hẳn so với bước nhảy diễn ra trong những năm 40-50, sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai, bởi lẽ nó đã làm thay đổi hẳn tính chất của công cụ
lao động, tạo cho nó cái khả năng trong chừng mực nhất định không chỉ thay
thế lao động chân tay và lao động trí óc, mà còn chứa đựng khả năng quá độ
lên công nghệ phi cơ khí. Với bước nhảy ấy, CNTB hiện đại đã bước vào nền
“kinh tế tri thức” với kỹ thuật và công nghệ mới về nguyên tắc, cho phép tiết
kiệm các nguồn lực, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất và phát triển
mạnh khả năng sáng tạo của con người. Đó cũng chính là cơ sở kinh tế cần
thiết cho bước chuyển lên xã hội mới, cao hơn trong tương lai- mà nhờ đó, nó
có khả năng “tuôn ra của cải rào rạt” như Mác từng dự đoán.
Do sự phát triển như vũ bão của khoa học- công nghệ, mối liên hệ giữa
các phân xưởng, giữa các công đoạn trong nội bộ xí nghiệp ngày càng mật
thiết, tinh vi hơn, hàng vạn công nhân, công trình, các nhà khoa học phải hiệp
đồng thống nhất, cùng nhau nỗ lực mới làm cho họat động sản xuất tiến hành
trôi chảy được, phạm vi phân công hợp tác đã vượt xa quá trình gia công trực
tiếp đối tượng lao động, và trở thành quá trình toàn bộ bao gồm nghiên cứu
khoa học, phát minh sáng chế, thiết kế, lập chương trình, tự động điều khiển,
xử lý thông tin, chế tạo, bảo dưỡng thiết bị...Đồng thời, tình hình đòi hỏi ngày
càng nhiều những xí nghiệp khác nhau cung cấp máy móc thiết bị, linh kiện,
nguyên liệu, còn sản phẩm sản xuất ra lại phải chuyển nhanh ngay đến những
thị trường có lợi ngày càng xa hơn. Điều đó cho thấy tích tụ và tập trung tư
bản ngày càng lớn thì sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng xã hội hóa.
CNTB hiện đại đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Xu hướng
xây dựng một nền kinh tế mở, vận động theo cơ chế thị trường đang ngày
càng phát triển khắp toàn cầu. Phân công lao động quốc tế và chuyên môn hóa



sản xuất trên thế giới cũng mở rộng nhanh. Trong quá trình tái sản xuất xã
hội, các nước ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau, lệ thuộc vào nhau, sự giao
lưu tư bản, trao đổi mậu dịch ngày càng phong phú. Sự phát triển của hệ
thống thông tin hiện đại, đặc biệt là kỹ thuật thông tin vi điện tử và sự phát
triển của giao thông vận tải đã tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế,
càng làm tăng quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và đời sống các dân
tộc. Việc đầu tư vốn ra ngoài, sự chuyển giao công nghệ, qúa trình chuyển
dịch, cơ cấu kinh tế và dịch chuyển lao động mang tính quốc tế cao, ngày
càng vượt nhanh khỏi biên giới quốc gia.
Như vậy, CNTB ngày nay đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất và xã hội hóa lao động lên những bước mới. Đó chính là quá trình chuẩn
bị những điều kiện, tiền đề cần thiết cho sự ra đời của một chế độ xã hội mới
cao hơn, thay thế CNTB trong tương lai. Sở dĩ CNTB ngày nay thực hiện
được những bước phát triển mới về lực lượng sản xuất là do có các nguyên
nhân sau:
Một là, do mục tiêu chạy theo lợi nhuận buộc giai cấp tư sản phải tìm
cách ứng dụng nhanh nhất những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện
đại, tận dụng tối đa nhân tố con người.
Hai là, do CNTB sẵn có một cơ sở vật chất-kỹ thuật phát triển cao, tích
lũy từ hàng mấy trăm năm. Đây là điều kiện vật chất giúp cho CNTB có thể
ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ mới để thực hiện sự phát
triển và thích nghi.
Ba là, vào những năm 70 của thế kỷ trước nền kinh tế của CNTB đã
đứng trước giới hạn cuối cùng của sự phát triển theo chiều rộng. Muốn tồn tại
và phát triển, nó không có con đường nào khác là phải chuyển sang phát triển
theo chiều sâu, lấy thành tựu của khoa học mới làm chỗ dựa
Cùng với sự điều chỉnh, thích nghi về lực lưọng sản xuất, làm cho lực
lượng sản xuất phát triển nhanh và trở nên đồ sộ hơn các giai đoạn trước,



CNTB hiện đại còn tiến hành thực hiện những điều chỉnh, thích nghi đáng kể
về quan hệ sản xuất.
1.2. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sản xuất
Để duy trì sự tồn tại và tiếp tục phát triển, CNTB ngày nay đã thực hiện
sự điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất, trên tất cả các mặt.
* Về quan hệ sở hữu, sự thay đổi thích nghi thể hiện rõ nét ở quá trình
đa dạng hóa các hinh thức sở hữu tư bản; hình thành sở hữu tập thể, sở hữu
hỗn hợp. Đặc biệt là việc cổ phần hóa tư bản bằng cách bán các cổ phiếu có
giá trị nhỏ cho người lao động ở nhiều nước tư bản phát triển như là một hình
thức mới của chế độ tham dự mà giai cấp tư sản ngày nay sử dụng để vừa huy
động được vốn nhàn rỗi, vừa xoa dịu đấu tranh của quần chúng và làm cho
quan hệ sở hữu tư bản thích ứng với sự xã hội hóa sản xuất. Ở Thụy Điển
21% dân cư có cổ phần, ở Pháp 6 triệu người có cổ phần; ở Mỹ khoảng 30-40
triệu người, trong đó có khoảng 10-12 triệu người lao động làm thuê (tức 10%
số người làm thuê) có cổ phần.
* Về quan hệ quản lý, ở các nước tư bản hình thành tầng lớp những nhà
quản lý, đại diện cho chủ tư bản để điều khiển sự hoạt động của công ty. Giai
cấp tư sản nêu ra quan điểm “đồng quản lý” họ cho rằng với chế độ cổ phần,
không còn quan hệ chủ-thợ. Họ chủ trương mở rộng quyền quản lý, cho phép
người lao động cùng tham gia vào quá trình quản lý, thực hiện “đồng quản lý”
tổ chức ra các xí nghiệp “công nhân tự quản”, các xí nghiệp hợp tác xã của
công nhân” hay còn gọi là “xí nghiệp công nhân-ông chủ”.
* Về quan hệ phân phối, trên cơ sở thu được một khối lượng lợi nhuận
khổng lồ, giai cấp tư sản có sự điều chỉnh về quan hệ phân phối theo hướng
quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội: y tế, giáo dục, kết cấu hạ tầng...giai cấp
tư sản còn trích một phần lợi nhuận để tăng lương, thưởng, trợ cấp thăm hỏi
công nhân và gia đình họ lúc ốm đau, sinh nhật...Nhờ đó, thu nhập của người
lao động, đặc biệt là ở các nước tư bản phát triển được nâng lên; ngoài chi phí

cho ăn, mặc, ở...còn có tiền để dành, một bộ phận mua được cổ phần.


Xuất phát từ yêu cầu khách quan của quy luật về sự thích ứng của quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ khát
vọng chạy theo lợi nhuận và nhằm từng bước xoa dịu mâu thuẫn giữa tư bản
và lao động mà CNTB ngày nay đã thực hiện những điều chỉnh, thích nghi về
quan hệ sản xuất, trên tất cả các mặt như vậy chứ tuyệt nhiên không phải là
CNTB ngày nay đã thay đổi bản chất hay có những biến đổi có tính bản chất.
Nếu cho rằng bản chất của CNTB ngày nay đã thay đổi thì trước hết
phải chứng minh được rằng mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
không còn là giá trị thặng dư, không còn là sự thống trị của tư bản độc quyền
nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao. Thực tế cho thấy, CNTB ngày nay
dù có biến đổi, thích nghi như thế nào đI nữa thì cơ sở của nó vẫn là chế độ
chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, quan hệ giữa tư bản chủ nghĩa
và lao động vẫn là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột. Tiền không thể tự nó đẻ
ra tiền. Máy móc của nhà tư bản dù có tự động hóa, rô bốt hóa cũng không thể
hoạt động nếu không có sự tác động của lao động: Máy móc, phương tiện kỹ
thuật hiện đại đến đâu cũng chỉ là yếu tố, là điều kiện không thể thiếu để tiến
hành sản xuất nâng cao năng xuất lao động chứ tư bản bản thân nó không thể
tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Họat động lưu không, dịch vụ như thương
nghiệp, ngân hàng không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư mà chỉ phân phối lại
giá trị. Học thuyết giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư phát hiện vĩ
đại của Mác vẫn giữ nguyên giá trị hiện thực không sao bác bỏ được.
Hiện nay, ở các nước tư bản phát triển, mức sống của người lao động
đã được cải thiện hơn nhiều so với thời kỳ của Mác, một bộ phận công nhân
có cổ phiếu, cổ phần ở các công ty, xí nghiệp tư bản và nhờ đó, góp phần làm
tăng thu nhập cho họ là có thực. Thế nhưng, nếu chỉ nhìn nhận một chiều về
sự điều chỉnh của các nhà tư bản về lợi ích làm cho mức sống của người công
nhân được nâng lên, đời sống của họ được cải thiện thì sẽ không thấy được

rằng giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột, vẫn bị bần cùng hóa.


Để đánh giá mức sống của giai cấp công nhân, chúng ta cần có một
cách nhìn toàn diện, tức là xem xét mức sống của họ trên cả bình diện vật chất
và văn hóa, tinh thần; xem xét đánh giá toàn thể giai cấp công nhân cả những
người có việc làm và những người thất nghiệp, cả ở các nước phát triển và các
nước chậm phát triển. Với cách xem xét như vậy, chúng ta thấy bên cạnh một
số ít công nhân có cuộc sống tương đối khá giả thì số đông còn lại vẫn còn
sống dưới mức nghèo khổ. Ngay ở Mỹ vẫn còn hàng chục triệu người sống
dưới mức nghèo khổ.
ở các nước tư bản phát triển, tuy mức sống của một bộ phận công nhân
được nâng lên, đời sống của họ được cải thiện, nhưng sự nâng lên ấy không
theo kịp được tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế. Tuy
đời sống của họ có được cải thiện nhưng vẫn chưa đánh giá đúng những gì mà
người công nhân cống hiến cho nhà tư bản.
Thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu ở các công ty, xí nghiệp tư bản
làm cho thu thập của người lao động có cổ phiếu phần nào được tăng thêm
nhưng điều đó vẫn không cải thiện được vị trí của họ trong mối quan hệ chủ
và thợ. Nguồn sống chủ yếu của người công nhân vẫn dựa vào việc bán sức
lao động làm thuê cho nhà tư bản, các khoản thu nhập thêm của họ (như tiền
thưởng, tiền thu nhập từ cổ phần, các khoản phúc lợi từ ngân sách nhà nước
tư sản sử dụng cho xã hội) chỉ là phụ. Việc mua cổ phần đó không những
không làm thay đổi được thân phận của người lao động làm thuê mà còn giúp
cho giai cấp tư sản có điều kiện mở rộng quy mô bóc lột lao động làm thuê.
Người công nhân bị bóc lột với tỷ suất ngày càng cao hơn mà không biết, sự
phụ thuộc của họ vào giai cấp tư sản càng chặt hơn. Tỷ lệ cổ phần mà công
nhân mua được ở từng xí nghiệp và trên toàn xã hội, chiếm một phần nhỏ bé
so với cổ phần của tư bản. Người công nhân có cổ phần, hưởng một phần lợi
nhuận của công ty, điều đó đâu có thể biến họ từ người làm thuê trở thành ông

chủ, có chăng nữa cũng chỉ là ông chủ hình thức. Vì đã là chủ sở hữu thì phải
có quyền sử dụng, quyền linh họat, với một tỷ lệ cổ phiếu thấp, người công


nhân không thể có tiếng nói quyết định đối với việc quản lý, phân chia lợi
nhuận của công ty. Đó chẳng qua chỉ là một hình thức huy động vốn và cột
chặt người công nhân vào xí nghiệp tư bản.
Còn cái gọi là “công nhân tham gia quản lý xí nghiệp, tư bản tôn trọng
nhân cách con người” về thực chất chỉ là nhà tư bản nhận thức được vai trò
của yếu tố tâm lý đối với năng suất lao động, tìm cách khai thác tiềm năng, trí
sáng tạo, tính tích cực của công nhân và người quản lý để tăng thêm lợi nhuận
mà thôi.
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước bao giờ cũng chỉ là nhà nước của
giai ấp cầm quyền. Không có và không thể có một nhà nước siêu giai cấp,
“nhà nước phúc lợi chung”. Nhà nước của giai cấp tư sản chủ yếu là bảo vệ
lợi ích của giai cấp tư sản, trong tình hình mới đó, nó có thể và cần thiết phải
quan tâm đến điều kiện lao động và sinh hoạt của người dân, nhưng chi phối
sự hoạt động của nó không ai khác ngoài tầng lớp tư bản tài chính và trùm tài
chính.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, trình độ giác ngộ của
giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao. Để xoa dịu phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân, bảo đảm cho sự tồn tại của mình, CNTB buộc
phải dành một phần lợi nhuận độc quyền cao để thực hiện một số chính sách
xã hội có tính chất nhân đạo chứ bản chất của CNTB không phải là nhân đạo.
Mặt khác, CNTB nhờ thu được nhiều nguồn lợi nhuận độc quyền cao, có điều
kiện để thực hiện các chính sách xã hội có tính chất nhân đạo. Những điều
chỉnh ấy dễ làm cho ta lầm tưởng rằng CNTB ngày nay đã có sự thay đổi về
bản chất và đang trong quá trình tự lột xác đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nếu sự biến đổi, thích nghi của CNTB không phải là từng bước trao
quyền sở hữu, quyền quản lý từ tay giai cấp tư sản sang tay giai cấp công

nhân, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
thì không thể coi đó là những sự biến đổi bản chất hay sự biến đổi mang tính
bản chất.


Tóm lại, trong mấy thập kỷ qua, nhờ nắm được ưu thế của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, CNTB đã có sự điều chỉnh thích nghi,
phần nào làm cho bộ mặt của nó có vẻ sạch sẽ hơn. Cùng với sự điều chỉnh về
lực lượng sản xuất, CNTB đã tiến hành điều chỉnh thích nghi trên các mặt của
quan hệ sản xuất, làm cho một số mâu thuẫn vốn có của nó có phần “dịu đi”
và “tạm lắng” xuống. Song thực tế đó không biến xã hội tư bản thành một chế
độ hoàn toàn mới về chất, tốt đẹp hơn, mà nó vẫn là một chế độ áp bức, bóc
lột, bất công. CNTB hiện nay vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột và bất công. CNTB hiện nay vẫn dựa
trên chế độ chiếm tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuát và bóc lột lao
động và làm thuê. Về kinh tế vẫn là sự thống trị của các tổ chức tư bản tư bản
độc quyền, về chính trị vẫn là hiếu chiến, xâm lược và phản động toàn diện.
Sự điều chỉnh, thích nghi của CNTB không làm cho nó tự lột xác đi lên chủ
nghĩa xã hội.
2. Về con đường phát triển tư bản chủ nghĩa và sự lựa chọn con
đường phát triển của nước ta.
2.1. Về con đường phát triển tư bản chủ nghĩa (TBCN)
Tất cả các dân tộc cuối cùng sẽ đi tới xã hội cộng sản văn minh, dù có
điều chỉnh thích nghi và còn khả năng phát triển cũng chỉ là một chế độ xã hội
lịch sử tạm thời.
Lựa chọn con đường phát triển là quyền của mỗi quốc gia, dân tộc căn
cứ vào đặc điểm, xu thế của thời đại, vào điều kiện trong nước và quốc tế,
song trước hết là do giai cấp nào nắm quyền lãnh đạo đất nước quyết định.
Ngày nay, trên hành tinh chúng ta vẫn có không ít nước đi theo con
đường TBCN, trong đó có cả nước đang phát triển và có cả một số nước trước

đây vốn là xã hội chủ nghĩa, sau khi Đảng Cộng sản ở các nước đó bị mất
quyền lãnh đạo, thì chính quyền rơi vào tay các phần tử cơ hội, phản bội.


Điều chắc chắn là con đường TBCN không phải là con đường hạnh
phúc của nhân dân lao động. Đi con đường đó tất yếu phải chấp nhận các quy
luật của CNTB.
Mỗi nước phát triển theo con đường này có những điều kiện riêng rất
khác nhau, do đó không phải nước nào cũng có thể trở thành quốc gia phát
triển. Chủ nghĩa tư bản đã có lịch sử gần 400; thế nhưng cho đến nay mới chỉ
có 20 nứoc trở thành các nước tư bản phát triển. Vẫn còn hàng trăm nước tư
bản đang ở những trình độ phát triển khác nhau và mỗi nước đều có những
khó khăn riêng. Vài thập kỷ gần đây, có một số nước đi con đường này đạt
được tốc độ phát triển kinh tế cao và trở thành các nước công nghiệp mới như
Hàn Quốc, Đài Loan, Singapho…Sở dĩ các nước này phát triển được là do họ
có những lợi thế và điều kiện đặc bịet mà hàng trăm nước khác không có
được. Các nước này vốn đã gắn chặt quyền lợi với các nước tư bản lớn từ lâu,
trong bối cảnh quốc tế và khu vực những thập kỷ 70 và 80. Họ nhận được sự
viện trợ, đầu tư, tín dụng, chuyển giao công nghệ rất ưu đãi cộng với các điều
kiện thuận lợi khác trong nước như tài nguyên, vị trí địa lý, sự ổn định chính
trị…Những điều kiện đó giúp họ rất nhiều, nhất là đối với quá trình tích lũy
ban đầu. Cũng cần thấy rằng mặc dù có sự phát triển, song ở các nước này các
mâu thuẫn, khuyết tật vốn có của CNTB, đặc biệt là các vấn đề xã hội không
thể nào khắc phục được. Đại đa số các nước đi theo con đường TBCN ngày
nay gặp những khó khăn, bất lợi rất lớn, xét cả hoàn cảnh trong nước và quốc
tế. Phần lớn các nước đang phát triển đều có điểm xuất phát rất thấp do nhiều
năm bị bọn thực dân nước ngoài bóc lột, các tàn tích phong kiến còn nặng nề,
kinh tế lạc hậu què quặt, văn hóa, khoa học, giá dục thấp kém và đặc biệt là
rất thiếu vốn để thực hiện công nghiệp hóa. Thêm vào đó, ở nhiều nước, do
tình hình chính trong nước và quốc tế. Phần lớn các nước đang phát triển đều

có điểm xuất phát thấp do nhiều năm bị bọn thực dân nước ngoài bóc lột các
tàn tích phong kiến còn nặng nề, kinh tế lạc hậu què quặt, văn hóa, khoa học,
giáo dục thấp kém và đặc biệt là rất thiếu vốn để thực hiện công nghiệp hóa.


Thêm vào đó, ở nhiều nước, do tình hình chính trị không ổn định nên cũng
không có được tiền đề cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Sự lạc hậu như vậy
làm cho khoảng cách của các nước đó với các nước phát triển vốn đã xa lại
càng xa hơn.
Về mặt quốc tế, nền kinh tế thế giới ngày nay đang nằm trong sự kiểm
sóat, khống chế của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia và các nước tư bản
lớn. Cục diện chính trị thế giới hết sức phức tạp. Muốn phát triển cần phải có
vốn và công nghệ. Nhưng các yếu tố này đang là công cụ của bọn tư bản độc
quyền để thực hiện sự thống trị và áp đặt đối với các dân tộc. Việc vay vốn,
nhận chuyển giao công nghệ với các nước kém phát triển thường bị kèm theo
những điều kiện ràng buộc không bình đẳng, rất dễ bị phụ thuộc cả về kinh tế,
chính trị.
Thực tế nhiều nước đang phát triển đi theo con đường TBCN đã lâm
vào tình trạng nợ nước ngoài chồng chất, không thể trả nổi, bị lệ thuộc về
vốn, công nghệ, trở thành nơi vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, thu
siêu lợi nhuận của bọn tư bản độc quyền quốc tế. Thậm chí, một số nước sau
vài thập kỷ phát triển theo con đường TBCN, không những không đi lên mà
còn không vượt khỏi điểm xuất phát, vẫn là nước kém phát triển.
Đi theo con đường TBCN tất yếu phải thực hiện quá trình tích lũy
nguyên thủy đầy đau khổ và chấp nhận sự phân hóa xã hội, phân hóa giai cấp
sâu sắc. Cuối cùng, nhân dân lao động vẫn là người chịu hậu quả của nghèo
đói, bất công. Tình hình thực tế ở Đông Âu và Liên Xô trước đây đã chứng
minh rõ điều đó. Nhìn rộng ra khắp các châu lục các nước đang phát triển
theo con đường TBCN, đại bộ phận dân cư lao động trở thành lớp người sống
cùng cực, thất học, bệnh tật.

Trong điều kiện CNTB đã hết vai trò tiến bộ lịch sử, lựa chọn con
đường TBCN là con đường kéo dài sự đau khổ của nhân dân trong quá trình
phát triển đất nước. CNTB không phải là giải pháp để giải phóng nhân dân
lao động và đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Chỉ có CNXH mới


đưa lại sự giải phóng thực sự cho con người, đưa nhân dân lao động làm chủ
xã hội, làm chủ đất nước và đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.
2.2. Đi lên CNXH- sự lựa chọn con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: Trước sau như một, nhân
dân ta quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó là mục tiêu đấu
tranh trước đây và sau này của Đảng ta và nhân dân ta”. Sự lựa chọn con
đường XHCN hoàn toàn không trái với quy luật khách quan của lịch sử và
chúng ta hoàn toàn có khả năng để thực hiện con đường đã chọn đó.
Quá trình lịch sử của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Quá trình đó phụ thuộc vào những quy luật khách quan, độc lập với ý chí của
con người nhưng quá trình đó lại do chính con người tạo ra. Nó sẽ không có
được nếu không có hoạt động tự giác của con người.
Chúng ta lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN là hoàn toàn phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Nhìn lại
quá trình phát triển của xã hội loài người, một sự thật lịch sử đã diễn ra là
không phải nước nào cũng đều tuần tự phát triển theo các chế độ cộng sản
nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản. Có nước trong quá trình phát triển của
mình đã bỏ qua chế độ nô lệ. Sự phát triển của từng nước lại chịu sự tác động
rất lớn của yếu tố thời đại. Thời đại phong kiến đã kéo nhiều nước còn ở trình
độ bộ tộc, phát triển nhanh thành thành chế độ phong kiến. Thời đại TBCN đã
kéo

nhiều


nước



trình

độ

thấp

đi

vào

quỹ

đạo

TBCN.

Thế thì trong thời đại ngày nay , thời đại quá độ từ CNTB lên CNXHH ,
chúng ta lựa chon con đường quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
của TBCN là không trái với quy luật của lịch sử và có khả năng để thực hiện
lựa chọn đó. Những điều kiện để thự hiện khả năng đó là: Chúng ta có đảng
lãnh đạo , có nhà nước thực sự của dân,do dân và vì dân, đât nước ta có tài
nguyên đa dạng,phong phú, có nguồn lao động dồi dào, thông minh sàng tạo,
có vị trí địa lý thuận lợi cho sự giao lưu,hợp tác quốc tế…Với đường lối mới



do đảng ta khởi xướng và lãnh đạo cho phép phát huy tối đa các nguồn lực
trong nước qua đó tạo ra thế và lực mới , đưa dân tộc Việt Nam vững bước
vào thế kỷ XXI với một tư thế mới tư thế của những người làm chủ và biết
làm chủ vận mệnh của mình. Vấn đề hiện nay đối với dân tộc Việt Nam
không phải là tìm đường, thay đổi con đường mà là kiên định và phấn đấu
theo con đường xã hội chủ nghĩa đã được lựa chọn. Vấn đề tìm đường đi cho
dân tộc đã được giải đáp ở những thập kỷ đầu của thế kỷ XX và tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng vừa qua tiếp tục khẳng định: “Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường
XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Thiết tưởng điều đó hiện nay không có gì phải bàn cãi. Thế nhưng vẫn
có một số người tự cho mình là “thực sự yêu nước”, “tâm huyết trăn trở với
vận mệnh của đất nước” muốn quay lại cái điều lịch sử đã giải đáp từ lâu. Họ
chú hướng vào CNTBm với cách nhìn phiến diện, một chiều, bày tỏ các quan
điểm lệch lạc, sai trái, hoặc công khai, hoặc che giấu kín đáo. Họ đưa ra
những câu hỏi đại loại là, giá như dân tộc Việt Nam không tiếp thu chủ nghĩa
Mác-Lênin, không đi theo con đường XHCN mà đi theo con đường khác, con
đường TBCN thì đất nước sẽ bớt đi mấy chục năm binh đao, khói lửa, kinh tế
sẽ phát triển hơn. Họ nhìn vào các nước TBCN ở xa, ở gần và bảo chúng ta
hãy học tập, hãy đi theo con đường của các nước ấy.
Thoảng qua, có người lầm tưởng thái độ của họ là thực sự “vì dân, vì
nước” nhưng thực ra không phải như vậy. Họ đã coi thường, phủ nhận những
hy sinh, mất mát của bao thế hệ người Việt Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại
trong lịch sử dân tộc ở thế kỷ XX. Trải qua suốt mấy chục năm “binh đao,
khói lửa” ấy, nhân dân Việt nam là “lương tri của thời đại”. Bất kỳ người nào
có cái nhìn khách quan, không có định kiến xấu về xã hội Việt Nam đều thấy
rằng, lịch sử Việt Nam nhất thiết phải đi vào quỹ đạo cách mạng vô sản, độc
lập dân tộc nhất thiết phải gắn liền với CNXH. Ai nấy cũng đều thấy rằng, kẻ



gây ra mấy chục năm “binh đao, khói lửa” đối với dân tộc Việt Nam không ai
khác, chính là thực dân, đế quốc.
Nhìn vào thực tiễn phát triển của CNTB thế giới những thập kỷ gần đây
cho thấy, CNTB không thể là con đường để nhân dân ta có thể lựa chọn. Quả
thật những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý mà
CNTB đã đạt được trong những thập kỷ gần đây nhờ ứng dụng nhanh chóng
những tiến bộ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là điều chúng ta
không thể phủ nhận. Đó là những đóng góp mới của CNTB vào lịch sử phát
triển của nhân loại mà trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường
XHCN, chúng ta phải biết tiếp thu, kế thừa và sử dụng có chọn lọc. CNTB
cũng đạt được một số tiến bộ đáng ghi nhận về một số lĩnh vực văn hóa, văn
minh trong khuôn khổ chế độ tư bản. Tuy nhiên, những phát triển, tiến bộ đó
không làm thay đổi được bản chất của xã hội tư sản hiện đại, đó vẫn là một xã
hội bóc lột và bất công. Trên thực tế, ách áp bức bóc lột của tư bản với người
lao động tăng lên gấp nhiều lần nhưng lại được che giấu vô cùng tinh vi. Sự
chênh lệch giữa giàu và nghèo đầu thế kỷ XX là 10 lần thì hiện nay đã là 50
lần. CNTB ngày nay càng cột chặt người lao động vào guồng máy sản xuất ra
lợi nhuận cho nó bằng những xiềng xích vô hình mới. Giai cấp tư sản đang
tạo ra những công bằng giả trên nền tảng của những bất công thật. CNTB
ngày nay trongkhi còn khả năng tạo ra những điều “thần kỳ mới” thì mặt phản
phát triển của nó cũng ngày càng lộ rõ. Sự vận động của “xã hội tiêu dùng”
kiểu phương Tây gắn với những lãng phí về của cải và nguồn lực xã hội làm
gay gắt thêm tình trạng cạnh tranh, tác động xấu đến đạo đức, môi trường.
Các nước tư bản phát triển đều công khai thừa nhận không thể giải quyết
được vấn đề xã hội. Đặc biệt là những vấn đề đạo đức, văn hóa, gia đình do
sự thống trị của chủ nghĩa cá nhân cực đoan và lối sống thực dụng. Bởi vậy,
sống trong sự đầy đủ vật chất mà con người vẫn không thấy hạnh phúc. Trong
một xã hội đầy ắp thông tin và nhộn nhịp đều chóng mặt mà nhiều khi con
người vẫn cảm thấy cô đơn bao giờ hết. Trước đây, nhà bác học vĩ đại Anbe



Anhstanh đã từng lên án CNTB luôn phạm phải một tội ác là hủy hoại con
người, biến con người thành nô lệ cho chủ nghĩa vị kỷ trong một cuộc tìm
kiếm sự yên ổn của tâm hồn mình. Điều này vẫn còn đúng trong xã hội tư sản
hiện nay. Vì thế, ông Gioóc Xorốc một nhà tư bản tài chính vào “hàng cá
mập” cũng phải thừa nhận sự bất ổn của CNTB hiện đại trong cuốn sách
“khủng hoảng của CNTB toàn cầu” mới đây. Trên phạm vi thế giới, CNTB
ngày nay là kẻ thống trị, bóclột, nô dịch các nước đang phát triển bằng các
loại thực dân kinh tế, công nghệ thông tin, môi trường trong quá trình toàn
cầu hóa hiện nay và bằng cả các biện pháp bạo lực của chủ nghĩa cường
quyền vô liêm sỉ và trắng trợn nhất như đối với Nam Tư và Irắc vừa qua.
Rõ ràng, CNTB dù có những biến đổi, phát triển mới nhưng bản chất
của nó vẫn là chế độ bóc lột, bất công đầy những nghịch lý và mâu thuẫn. Do
đó, CNTB không thể là con đường mà chúng ta có thể lựa chọn.
Đi lên CNXH là một tất yếu lịch sử của cuộc cách mạng nước ta và
toàn thể dân tộc ta. Những thực thể kinh tế và chính trị hiện tồn trong xã hội
ta hiện nay và nội dung của thời đại ngày nay quy định rằng con đường đi lên
phù hợp nhất đối với dân tộc ta chỉ có thể là khác. Toàn thể dân tộc ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu trong gần một thế kỷ qua, với bao công sức
và xương máu của nhiều thế hệ mới đạt được những thành quả cách mạng
như ngày nay, thì cuộc cách mạng đó phải đi tiếp con đường mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó là sự kiên định lập trường cách mạng và
khoa học, đồng thời cũng là sự khôn ngoan nhất về chính trị. Thay đổi con
đường là một sự phản bội lại lý tưởng cách mạng của dân tộc, dẫn đất nước và
dân tộc vào một cuộc phiêu lưu chính trị chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp.
II-KẾT LUẬN
CNTB ngày nay đã từng có những điều chỉnh, thích nghi cả về lực
lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất và có thể còn tiếp tục điều chỉnh để kéo
dài sự tồn tại của mình, nhưng là sự điều chỉnh thích nghi trong nội tại chế độ
tư bản. Những điều chỉnh, thích nghi ấy có thể xoa dịu được phần nào những



mâu thuẫn vốn có của CNTB chứ không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn
đó. Và do vậy, CNTB không thể là một chế độ xã hội vĩnh hằng,không phải là
sự kết thúc của lịch sử loài người và cũng không thể quá độ lên CNXH mà
không thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Cũng như các giai
cấp bóc lột trước đây, không bao giờ giai cấp tư sản tự nguyện nhường quyền
nhận. Những điều chỉnh, thích nghi của CNTB ngày naykhông làm thay đổi
bản chất của nó CNTB hiện nay vẫn là sự bóc lột, thống trị của các tổ chức tư
bản độc quyền đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự điều
chỉnh các quan hệ sản xuất TBCN chỉ là những hình thức mới của chế độ
tham dự mà giai cấp tư sản sử dụng để tăng cường bóc lột người lao động
phục vụ lợi ích của bọn độc quyền và kéo dài sự tồn tại của CNTB. Trình độ
bóc lột của tư bản ngày càng tăng, sự phụ thuộc của lao động vào tư bản ngày
càng nặng nề hơn. Bản chất chính trị của CNTB ngày nay vẫn là hiếu chiến,
xâm lược và phản động toàn diện. Song cũng cần phải thấy rằng CNTB là
một giai đoạn phát triển rất quan trọng trong tiến hành lịch sử phát triển của
xã hội loài người, có quy luật ra đời, phát triển và diệt vong của nó. Do đó,
chúng ta không thể sùng bái một cách mù quáng hoặc phủ định nó một cách
sạch trơn, mà phải có thái độ khoa học nghiêm túc, kế thừa có phê phán và
chọn lọc những kinh nghiệm mà CNTB đã tích lũy được trong việc phát triển
sản xuất, tổ chức và quản lý kinh tế…
Trong điều kiện mới, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa
học, công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hóa kinh tế, trước sự chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch, chúng ta tiếp tục kiên định con đường
XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Sự kiên định đó không
phải chỉ là tình cảm cách mạng, không chỉ là sự trung thành với truyền thống
lịch sử cách mạng của dân tộc mà dựa trên sự phân tích bối cảnh trong nước
và quốc tế một cách tỉnh táo và đúng đắn. Kiên định con đường XHCN đi tiếp
con đường đó là giải pháp tổng quát duy nhất đúng, tối ưu nhất, nhanh nhất và



hiệu quả nhất để xây dựng một nước Việt Nam thực sự giàu mạnh, văn minh,
nhân dân Việt Nam thực sự tự do, ấm no, hạnh phúc.
Con đường của Đảng va nhân dân ta đang đi không phải là con đường
thẳng tắp, không phải là không có chông gai. Đồ thị phát triển của con đường
ấy có thể là đoạn gấp khúc, nhưng mũi tên cơ bản của hướng đồ thị là theo
chiều tiến lên. Sự nghiệp xây dựng xã hội mới thực sự khó khăn, phức tạp, lâu
dài, nhưng con đường đi lên CNXH ở nước ta cũng có những thuận lợi cơ bản
và thời cơ lớn. Với thế và lực của đất nước ta hiện nay, với sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta sẽ tận dụng
được thuận lợi, tranh thủ được thời cơ, vượt qua khó khăn, khắc phục nguy
cơ, thực hiện thắng lợi những mục tiêu theo con đường XHCN đã lựa chọn.



×