Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

báo cáo thực tập về công ty trách nhiệm hữu hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.06 KB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã giúp cho các doanh nghiệp có
được những cơ hội mới. Khi mà bây giờ mối quan hệ giao thương được mở
rộng không chỉ trong nước, mà còn ở các thị trường lớn của các nước trên thế
giới. Môi trường đầu tư kinh doanh hiện nay của các doanh nghiệp cũng đang
được cải thiện dần, tạo ra nhiều thuận lợi hơn cho các đơn vị kinh doanh trong
và ngoài nước.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
thách thức lớn như là: cạnh tranh từ các doanh nghiệp, các đơn vị hoạt động
cùng ngành, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài với phong cách làm việc
chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn cao và nguồn lực tài chính mạnh. Một công
ty chỉ có thể qua một thời gian ngắn mà phát triển rất mạnh hay có thể phá sản.
Vì vậy, để đạt được vị thế vững chắc trên thị trường và tối đa hóa lợi nhuận
của mình, các doanh nghiệp phải phát huy hết tiềm năng, tận dụng tối đa
nguồn lực của chính mình.
Sau thời gian thực tập tại Chi Nhánh Xí nghiệp 197 – Tổng công ty kinh
tế kỹ thuật công nghiệp quốc phòng, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Th.S.
Hoàng Thị Xuân và sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng tài chính kế
hoạch tại Công ty, em đã có thể từng bước làm quen với thực tế, vận dụng
những lý luận đã tiếp thu từ nhà trường vào thực tế tài chính, đã học hỏi được
rất nhiều điều bổ ích, phục vụ rất tốt cho quá trình làm việc sau này khi ra
trường. Trên cơ sở đó em đã tổng hợp và viết nên bài báo cáo thực tập tốt
nghiệp:
“Tăng cường khả năng thanh toán và khả năng sinh lời tại Chi nhánh Xí
nghiệp 197 – Tổng công ty kinh tế kỹ thuật công nghiệp quốc phòng”
Tuy nhiên, do giới hạn về bài viết, thời gian nghiên cứu và hiểu biết lý
luận cũng như thực tiễn còn hạn chế bản báo cáo chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến của thầy cô.

1



Nội dung bao gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng khả năng thanh toán và sinh lời của chi
nhánh xí nghiệp 197.
Chương 3: Giải pháp tăng cường khả năng thanh toán và khả năng
sinh lời tại chi nhánh xí nghiệp 197 - Tổng công ty kinh tế kỹ thuật công
nghiệp quốc phòng.

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm:
Khả năng thanh toán là một thuật ngữ dùng để chỉ khả năng thực hiện
các khoản phải thu, khoản phải trả của một tổ chức kinh tế, của ngân hàng,
của ngân sách nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Với mỗi đối tượng cụ
thể, có lại có một cách định nghĩa khác nhau.
Đối với doanh nghiệp, khả năng thanh toán của một doanh nghiệp là khả
năng có thể hoàn trả các khoản nợ đến hạn. Khi một doanh nghiệp hoặc một
công ty mất khả năng thanh toán , tòa án sẽ tuyên bố phá sản, vỡ nợ.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa khả năng thanh toán của doanh nghiệp
- Khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho biết năng lực tài chính
trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh
nghiệp càng cao, năng lực tài chính càng lớn, an ninh tài chính càng vững
chắc và ngược lại, khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng thấp, năng lực
tài chính càng nhỏ và an ninh tài chính sẽ kém bền vững.
- Phân tích khả năng thanh toán giúp tìm hiểu các kết quả của sự quản lý

và điều hành tài chính ở doanh nghiệp được phản ánh trên các báo cáo tài
chính đồng thời đánh giá những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra,
trên cơ sở đó kiến nghị những biện pháp để tận dụng triệt để những điểm
mạnh và khắc phụ những điểm yếu.
- Phân tích khả năng thanh toán đánh giá tính hợp lý về sự biến động của
các khoản phải thu và phải trả giúp ta có những nhận định chính xác hơn về
thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra những nguyên nhân của
mọi sự ngừng trệ trong các khoản thanh toán hoặc có thể khai thác những khả
năng tiềm tàng giúp doanh nghiệp làm chủ tình hình tài chính, nó có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Khả năng thanh toán của doanh nghiệp có mối liên hệ trực tiếp với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có ý nghĩa quan trọng trong việc

3


hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, tất cả các hoạt động
sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Ngược lại, khả năng thánh toán của doanh nghiệp cao hay thấp đều có
tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Vì
thế, cần phải thường xuyên, kịp thời đánh giá, kiểm tra tình hình tài chính của
doanh nghiệp, khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Qua việc phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, mới góp
phần đánh giá chính xác tình hình sử dụng vốn, nguồn vốn, vạch rõ khả năng
tiềm tàng về vốn của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra những quyết định
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giúp doanh nghiệp
củng cố tốt hơn trong hoạt động tài chính của mình.
- Phân tích khả năng thanh toán là một bộ phận trong phân tích tình hình
tài chính của doanh nghiệp, nó là công cụ không thể thiếu, phục vụ cho công
tác quản lý của cơ quan cấp trên, cơ quan tài chính, ngân hàng như: đánh giá

tình hình thực hiện các chế độ, chính sách về tài chính của nhà nước, xem xét
việc cho vay vốn....
- Hệ số khả năng thanh toán được tính cho cả thời kỳ hoặc cho từng giai
đoạn (khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán dài hạn, khả năng
thanh toán tháng tới, khả năng thanh toán quí tới...). Nếu trị số của chỉ tiêu >
1, chứng tỏ doanh nghiệp bảo đảm khả năng thanh toán và tình hình tài chính
là bình thường hoặc khả quan. Trị số của chỉ tiêu "Hệ số khả năng thanh toán"
càng lớn hơn 1 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng dồi dào và an
ninh tài chính càng vững chắc. Ngược lại, khi trị số của chỉ tiêu này < 1,
doanh nghiệp sẽ không bảo đảm khả năng thanh toán. Trị số của chỉ tiêu càng nhỏ
hơn 1, doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán. Khi "Hệ số khả năng
thanh toán" » 0 thì doanh nghiệp bị phá sản, không còn khả năng thanh toán.
- Khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ngoài việc tính
toán và so sánh một số chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán (Hệ số thanh
toán tổng quát, Hệ số thanh toán hiện hành, Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, Hệ

4


số thanh toán nhanh...), các nhà phân tích còn sử dụng chỉ tiêu "Hệ số khả
năng thanh toán" sau đây:
Khả năng thanh toán
Hệ số khả năng thanh toán= -----------------------------Nhu cầu thanh toán
- Tiếp theo, dựa vào các tài liệu hạch toán liên quan, tiến hành thu thập
số liệu liên quan đến các khoản có thể dùng để thanh toán (khả năng thanh
toán) với các khoản phải thanh toán (nhu cầu thanh toán) của doanh nghiệp.
Sau đó, sắp xếp các chỉ tiêu này vào một bảng phân tích theo một trình tự nhất
định. Với nhu cầu thanh toán, các chỉ tiêu được xếp theo mức độ khẩn trương
của việc thanh toán (thanh toán ngay, chưa cần thanh toán ngay); còn với khả
năng thanh toán, các chỉ tiêu lại được xếp theo khả năng huy động (huy động

ngay, huy động trong thời gian tới...), trong đó có thể chi tiết theo tháng, quí,
6 tháng, năm...
Để thuận tiện cho việc phân tích, các nhà phân tích có thể lập Bảng phân
tích nhu cầu và khả năng thanh toán. Trên cơ sở bảng phân tích này, nhà quản
lý sẽ tiến hành so sánh giữa khả năng thanh toán với nhu cầu thanh toán trong
từng giai đoạn (thanh toán ngay, thanh toán trong tháng tới, thanh toán trong
quý tới, thanh toán trong 6 tháng tới...). Việc so sánh này sẽ cho các nhà quản
lý biết được liệu doanh nghiệp có bảo đảm được khả năng thanh toán trong
từng giai đoạn hay không để đề ra các chính sách phù hợp. Trường hợp doanh
nghiệp không bảo đảm khả năng thanh toán (khi các khoản có thể dùng để
thanh toán nhỏ hơn các khoản phải thanh toán hay trị số của chỉ tiêu "Hệ số
khả năng thanh toán" < 1), các nhà quản lý phải tìm kế sách để huy động
nguồn tài chính kịp thời bảo đảm cho việc thanh toán nếu không muốn rơi vào
tình trạng phá sản.
1.1.3. Chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp chúng ta sử dụng các
hệ số tài chính sau đây:
1.1.3.1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát

5


Hệ số này biểu hiện mối quan hệ giữa tổng tài sản hiện có của doanh
nghiệp với tổng nợ phải trả (bao gồm cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn).
Hệ số khả năng thanh toán được xác định theo công thức sau:
Tổng tài sản
Khả năng thanh toán tổng quát = ---------------------------Tổng nợ phải trả
Hệ số này phản ánh một đồng nợ của doanh nghiệp được đảm bảo bằng
bao nhiêu đồng tài sản. Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 cho thấy: tổng tài sản hiện
có (bao gồm cả tài sản lưu động và tài sản cố định) không đủ để trả hết số nợ

mà doanh nghiệp phải thanh toán. Điều này báo hiệu nguy cơ phá sản của
doanh nghiệp. Ngược lại, nếu hệ số này lớn hơn 1 chứng tỏ tổng tài sản doanh
nghiệp thừa để thanh toán hết các khoản nợ hiện tại của doanh nghiệp. Nếu hệ
số này bằng một chứng tỏ tổng tài sản của doanh nghiệp vừa đủ để thanh toán
hết các khoản nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải tài sản nào hiện có
cũng sẵn sàng được dùng để trả nợ và không phải khoản nợ nào cũng phải trả
ngay. Vì vậy, việc đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt hay
xấu còn tùy thuộc vào khả năng chuyển đổi thành tiền của số tài sản mà
doanh nghiệp hiện có và giá trị các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời (hay hệ số khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn)
Hệ số này được tính bằng cách lấy tổng tải sản lưu động(TSNH) chia
cho nợ ngắn hạn của doanh nghiệp:
Tài sản ngắn hạn
Hệ số thanh toán ngắn hạn = --------------------------------Nợ ngắn hạn
TSNH thường bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền, các khoản
phải thu và dự trữ (hàng tồn kho).

6


Số nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp,
các khoản phải trả, phải nộp khác...
Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải
các khoản nợ ngắn hạn, vì thế, hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm bảo thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Để đánh giá hệ số này cần dựa vào hệ số trung bình của các doanh
nghiệp trong toàn ngành. Hệ số này ở các ngành nghề kinh doanh khác nhau
có sự khác nhau. Một căn cứ quan trọng để đánh giá là so sánh với hệ số

thanh toán ở các thời kỳ trước đó của doanh nghiệp.
Thông thường, khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh
nghiệp là yếu và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiềm ẩn về tài
chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Hệ số này cao cho
thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản
nợ đến hạn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản
ánh năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Do vậy, để đánh giá đúng
hơn cần xem xét thêm tình hình của doanh nghiệp
1.1.3.3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của doanh
nghiệp được xác định bằng tải sản ngắn hạn trừ đi hàng tồn kho và chia cho
số nợ ngắn hạn. Ở đây hàng tồn kho bị loại trừ ra, bởi lẽ, trong tài sản ngắn
hạn, hàng tồn kho đựơc coi là loại tài sản có tính thanh khoản thấp hơn. Hệ số
này được xác định bằng công thức:
Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Hệ số thanh toán nhanh = -----------------------------------------------Nợ ngắn hạn

7


Tỷ số khả năng thanh toán nhanh là tỷ số giữa các tài sản quay vòng
nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể
nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền mặt, chứng khoán ngắn
hạn, các khoản phải thu.
Hàng tồn kho là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn so với tổng TSNH
và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho
biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán
tài sản dự trữ (hàng tồn kho). Hệ số này cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu
đồng vốn bằng tiền hoặc các khoản tương đương tiền để thanh toán ngay cho

một đồng nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán nhanh được xem như là thước đo phản ánh khả năng trả
ngay các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trong kỳ không dựa vào việc
phải bán các loại vật tư, hàng hoá trong kho. Đây là chỉ tiêu được các chủ nợ
ngắn hạn rất quan tâm vì thông qua chỉ tiêu này, các chủ nợ có thể đánh giá
được tại thời điểm phân tích, doanh nghiệp có khả năng thanh toán ngay các
khoản nợ ngắn hạn hay không. Tuy nhiên, trong một số trường hợp chỉ tiêu
này chưa phản ánh một cách chính xác khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có các khoản phải thu chiếm tỷ trọng
trong tổng tài sản lưu động.
Do đó, để đánh giá một cách chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của
doanh nghiệp, người ta còn sử dụng hệ số thanh toán tức thời
Ngoài ba hệ số trên để đánh giá sát hơn khả năng thanh toán của doanh
nghiệp còn có thể sử dụng chỉ tiêu hệ số vốn bằng tiền hay còn gọi là hệ số
thanh toán tức thời.
1.1.3.4. Hệ số khả năng thanh toán tức thời:
Tiền mặt và các khoản tương đương tiền
Hệ số thanh toán tức thời = ----------------------------------------------------Nợ đến hạn

8


Ở đây, tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các khoản
tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, các khoản
đầu tư ngắn hạn khác có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3
tháng và không gặp rủi ro lớn.
Hệ số thanh toán tức thời phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn của doanh nghiệp ở bất kỳ thời điểm nào bởi vì nguồn trang trải cho
các khoản nợ của doanh nghiệp là hết sức linh hoạt.
Hệ số này cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng vốn bằng tiền để sẵn

sàng thanh toán cho một đồng nợ ngắn hạn.
1.1.3.5. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay (EBIT)
Đây cũng là một hệ số cần xem xét khi phân tích kết cấu tài chính của
doanh nghiệp. Hệ số này cho biết khả năng thanh toán lãi tiền vay của doanh
nghiệp và cũng phản ánh mức độ rủi ro có thể gặp phải của các chủ nợ.
Lãi tiền vay là khoản chi phí sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp có nghĩa
vụ phải trả đúng hạn cho các chủ nợ. Một doanh nghiệp vay nợ nhiều nhưng
kinh doanh không tốt, mức sinh lời của đồng vốn quá thấp hoặc bị thua lỗ thì
khó có thể đảm bảo thanh toán tiền lăi vay đúng hạn nguồn để trả lãi vay là
lợi nhuận trước lãi vay và thuế ( EBIT). Hệ số thanh toán lãi vay phản ánh
mỗi quan hệ giữa lợi nhuận trước lãi vay và thuế với lãi vay phải trả. Hệ số
này được xác đinh bằng công thức sau:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
(EBIT)
Hệ số thanh toán lãi vay = ------------------------------------------------------Chi phí trả lãi
EBIT trong công thức nên lấy chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của báo cáo kết quả kinh doanh mà không kể các khoản mục lợi
nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận bất thường. Mục đích là để xem
khả năng sử dụng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp để trả lãi
vay như thế nào? Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố định, nguồn để trả

9


lãi vay là lãi thuần trước thuế. So sánh giữa nguồn để trả lãi vay với lãi vay
phải trả sẽ cho chúng ta biết doanh nghiệp đã sẵn sàng trả tiền lãi vay ở mức
độ nào. Hệ số này dùng để đo lường mức độ lợi nhuận có được do sử dụng
vốn để đảm bảo trả lãi cho chủ nợ. Nói cách khác, hệ số thanh toán lãi vay
cho chúng ta biết được số vốn đi vay đã sử dụng tốt tới mức độ nào và đem lại
một khoản lợi nhuận là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả không. Nếu

hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả mức sinh lời của
đồng vốn cao đủ để đảm bảo thanh toán tiền lãi vay đúng hạn và ngược lại.
1.2.
Khả năng sinh lời của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm:
Là thước đo hiệu quả bằng tiền, là điều kiện cần nhưng chưa đủ để duy
trì cân bằng tài chính. Việc đánh giá khả năng sinh lợi phải dựa trên một
khoảng thời gian tham chiếu. Khái niệm khả năng sinh lợi được áp dụng trong
mọi hoạt động kinh tế sử dụng các phương tiện vật chất, con người và tài
chính, thể hiện bằng kết quả trên phương tiện. Khả năng sinh lợi có thể áp
dụng cho một hoặc một tập hợp tài sản.
Ở cấp độ doanh nghiệp, khả năng sinh lợi là kết quả của việc sử dụng tập
hợp các tài sản vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn kinh tế mà doanh
nghiệp nắm giữ. Nhìn chung, khả năng sinh lợi cần ít nhất đủ để đáp ứng
được hai đòi hỏi cấp bách:
- Đảm bảo duy trì vốn cho doanh nghiệp (đầu tư).
- Trả được các khoản lãi vay và đảm bảo hoàn trả khoản vay.
Lãi thu được từ các hoạt động sinh lợi trong năm tài khoá có thể được trích
chia cho cổ đông hoặc vẫn duy trì dưới dạng vốn dự trữ (reserve). Nếu không
tính tới thuế và lãi, khả năng sinh lợi của tài sản phải cho phép tích luỹ đủ tiền
để đảm bảo vốn sản xuất kinh doanh, đảm bảo hoàn trả nợ, đóng góp vào việc
tăng vốn và trả lợi nhuận đầu tư vốn cho các cổ đông.
Mọi quyết định và thay đổi về việc nắm giữ tài sản không chỉ làm nảy
sinh vấn đề tài chính mà còn làm nảy sinh cả vấn đề sinh lợi. Nếu khả năng
sinh lợi không đủ lớn, doanh nghiệp sẽ không đủ phương tiện để đáp ứng nhu

10


cầu của nhiều yếu tố sản xuất kinh doanh khác nhau. Thặng dư khi đó sẽ

không đủ để duy trì cân bằng tài chính.
Cần chú ý là khả năng sinh lợi của tài sản chỉ là một phần vấn đề nảy
sinh từ khả năng sinh của các nguồn vốn thực hiện. Trên thực tế, rủi ro trong
hoạt động của doanh nghiệp do các cổ đông gánh chịu. Lợi nhuận mà họ thu
được không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lợi của tài sản mà còn phụ thuộc
vào chi phí đi vay. Yêu cầu về tỷ lệ sinh lợi tối thiểu phù hợp với khả năng
bảo toàn vốn cho doanh nghiệp và trả lợi nhuận đầu tư vốn sẽ kết nối trước
hết chức năng tài chính với mọi quyết định sử dụng tiền (tức là việc tạo hoặc
thay đổi cấu trúc tài sản)
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa khả năng sinh lời của doanh nghiệp
- Các nhà đầu tư, các cổ đông và các nhà quản lý tài chính đặc biệt chú ý
tới khả năng sinh lãi của các công ty. Việc phân tích lợi nhuận có thể bắt đầu
bằng việc nghiên cứu cách thức một công ty sử dụng cơ cấu vốn. Các nhà
quản lý giỏi sử dụng có hiệu quả tài sản của mình. Thông qua việc tăng hiệu
quả sản xuất, các công ty có thể giảm hoặc kiểm soát được các chi phí. Tỷ lệ
lợi nhuận do bất kỳ một công ty nào đạt được là quan trọng nếu các nhà quản
lý của công ty đó mong muốn thu hút vốn và thực hiện việc tài trợ thành công
cho sự phát triển của công ty.
Nếu tỷ lệ lợi nhận của một công ty tụt xuống dưới mức có thể chấp nhận
được, thì P/E (giá trên thu nhập) và giá trị các cổ phiếu của công ty giảm
xuống - điều đó giải thích tại sao việc đánh giá khả năng sinh lời lại đặc biệt
quan trọng đối với một công ty.
- Khả năng sinh lợi phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất
của một doanh nghiệp.Các nhà đầu tư sử dụng phân tích tỷ suất sinh lợi để
đánh giá khả năng thu nhập trong tương lai của một công ty. Như vậy, các
nhà quản lý có thể sử dụng nó để xác định những lĩnh vực mà hiệu suất hoạt
động bị hạn chế để tiến hành điều chỉnh.

11



+ Doanh lợi tài sản (ROA = LNST/vón chủ sở hữu ) cho biết khả năng
sinh lãi của mỗi đồng vốn của chủ doanh nghiệp nếu chỉ số này thấp chứng tỏ
kinh doanh không có lãi .
+ Doanh lợi vốn chủ sở hữu ( bằng TNTT (TNST /tài sản ) cho biết khả
năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư .
1.2.3. Chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời của doanh nghiệp
1.2.3.1. Doanh lợi doanh thu (ROS) (Returm On Sales) (Tỷ suất
sinh lời trên doanh thu, Suất sinh lời của doanh thu, Hệ số lãi ròng)
Đây là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi của công ty
cổ phần. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho cổ đông và
doanh thu của công ty.
Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu trong một kỳ nhất định được tính bằng
cách lấy lợi nhuận ròng hoặc lợi nhuận sau thuế trong kỳ chia cho doanh thu
trong kỳ. Đơn vị tính là %.
Cả lợi nhuận ròng lẫn doanh thu đều có thể lấy từ BCKQKD của công
ty.
Công thức tính tỷ số này như sau:
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = ------------------------------(ROS)
Doanh thu thuần
Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh
thu. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỷ số
càng lớn nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh
doanh thua lỗ.
Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng
ngành. Vì thế, khi theo dõi tình hình sinh lợi của công ty, người ta so sánh tỷ
số này của công ty với tỷ số bình quân của toàn ngành mà công ty đó tham
gia. Mặt khác, tỷ số này và số vòng quay tài sản có xu hướng ngược nhau. Do


12


đó, khi đánh giá tỷ số này, người phân tích tài chính thường tìm hiểu nó trong
sự kết hợp với số vòng quay tài sản.
1.2.3.2. Doanh lợi tổng tài sản (ROA)(Return On total Asset) (hay
Chỉ tiêu hoàn vốn tổng tài sản, Hệ số quay vòng của tài sản, Tỷ suất sinh
lời trên tổng tài sản)
Đây là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi
đồng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số này được tính ra bằng cách lấy lợi
nhuận ròng (hoặc LNST) của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo (có thể là 1
tháng, 1 quý, nửa năm, hay một năm) chia cho bình quân tổng giá trị tài sản
của doanh nghiệp trong cùng kỳ. Số liệu về lợi nhuận ròng hoặc lợi nhuận
trước thuế được lấy từ BCKQKD. Còn giá trị tài sản được lấy từ BCĐKT.
Chính vì lấy từ bảng cân đối kế toán, nên cần tính giá trị bình quân tài sản
doanh nghiệp.
Công thức hóa, ta sẽ có:
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lời của tài sản = ----------------------------------(ROA)

Tổng tài sản bình quân

Vì lợi nhuận ròng chia cho doanh thu bằng tỷ suất lợi nhuận biên, còn
doanh thu chia cho giá trị bình quân tổng tài sản bằng hệ số quay vòng của
tổng tài sản, nên còn cách tính tỷ số lợi nhuận trên tài sản nữa, đó là:
Tỷ số lợi nhuận trên tài sản = Tỷ suất lợi nhuận biên × Số vòng quay
tổng tài sản
Nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số
càng cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng hiệu quả. Còn nếu tỷ số nhỏ hơn
0, thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Mức lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm

của giá trị bình quân tổng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả
quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp.

13


Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản phụ thuộc vào mùa vụ kinh doanh và
ngành nghề kinh doanh. Do đó, người phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ sử
dụng tỷ số này trong so sánh doanh nghiệp với bình quân toàn ngành hoặc với
doanh nghiệp khác cùng ngành và so sánh cùng một thời kỳ.
1.2.3.4. Doanh lợi vốn chủ sở hữu, viết tắt là ROE (Return On
Equity )(hay Tỷ suất thu nhập của vốn cổ đông hay Chỉ tiêu hoàn vốn cổ
phần của cổ đông)
Là tỷ số tài chính để đo khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn cổ phần ở
một công ty cổ phần.
Lợi nhuận trong tỷ số này là lợi nhuận ròng dành cho cổ đông, lấy từ báo
cáo kết quả kinh doanh của công ty cổ phần, tính trong một thời kỳ nhất định
(1 tháng, 1 quý, nửa năm, hay 1 năm) gọi là kỳ báo cáo. Còn vốn cổ phần
trong tỷ số này là bình quân vốn cổ phần phổ thông (common equity).
Công thức của tỷ số này như sau:
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu = --------------------------------------(ROE)

Vốn chủ sở hữu bình quân

Vì lợi nhuận ròng chia cho doanh thu thuần thì bằng tỷ suất lợi nhuận
biên, vì doanh thu thuần chia cho giá trị bình quân tổng tài sản thì bằng số
vòng quay tổng tài sản, và vì bình quân tổng tài sản chia cho bình quân vốn
cổ phần phổ thông thì bằng hệ số đòn bẩy tài chính, nên còn có công thức tính
thứ 2 như sau:

Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = Tỷ suất lợi nhuận biên x Số vòng
quay tổng tài sản x Hệ số đòn bẩy tài chính
Mặt khác, vì tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bằng tỷ suất lợi nhuận
biên nhân với số vòng quay tổng tài sản, nên:
ROE = ROA x Hệ số đòn bẩy tài chính

14


Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE cho biết cứ 100 đồng vốn chủ
sở hữu của công ty cổ phần này tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận. Nếu tỷ số
này mang giá trị dương, là công ty làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm là công
ty làm ăn thua lỗ.
Cũng như tỷ số lợi nhuận trên tài sản, tỷ số này phụ thuộc vào thời vụ
kinh doanh. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào quy mô và mức độ rủi ro của
công ty. Để so sánh chính xác, cần so sánh tỷ số này của một công ty cổ phần
với tỷ số bình quân của toàn ngành, hoặc với tỷ số của công ty tương đương
trong cùng ngành.
Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu hay được đem so sánh với tỷ số lợi
nhuận trên tài sản (ROA). Nếu tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu lớn hơn
ROA thì có nghĩa là đòn bẩy tài chính của công ty đã có tác dụng tích cực,
nghĩa là công ty đã thành công trong việc huy động vốn của cổ đông để kiếm
lợi nhuận với tỷ suất cao hơn tỷ lệ tiền lãi mà công ty phải trả cho các cổ
đông.
1.2.3.5. Tỷ số sức sinh lời căn bản (BEP)
EBIT
Tỷ số sức sinh lời căn bản = --------------------------------(BEP)

Bình quân tổng tài sản


Tỷ số này được thiết kế nhằm đánh giá khả năng sinh lợi căn bản của
doanh nghiệp, chưa kể đến ảnh hưởng của thuế và đòn bẩy tài chính. Nó được
xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho bình quân giá
trị tổng tài sản của doanh nghiệp.
1.3. Biện pháp tăng cường khả năng thanh toán và khả năng sinh
lời của doanh nghiệp
1.3.1.Biện pháp tăng cường khả năng thanh toán của doanh nghiệp

15


Năng lực thanh toán là khả năng của doanh nghiệp có thể chi trả tiền mặt
các hoá đơn, khoản nợ khi chúng đến hạn thanh toán. Dưới đây là một số biện
pháp góp phần nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp:
- Sử dụng một dạng tài khoản liên thông tại các ngân hàng. Điều này cho
phép doanh nghiệp có được những khoản lãi trên số dư tiền mặt vượt quá khi
chuyển tiền từ tài khoản vốn không cần thiết sang tài khoản khác và chuyển
trở lại khi cần thiết.
- Ngoài ra, nếu có được khả năng thanh toán tiền mặt, sẽ không thừa nếu
chúng ta cố gắng duy trì các toàn khoản séc và tài khoản tiền mặt tại ngân hàng.
- Đánh giá và cắt giảm những chi phí không cần thiết. Việc làm này sẽ
tác động trực tiếp tới con số lợi nhuận. Các chi phí hoạt động, như thuê mướn,
quảng cáo, lao động gián tiếp hay chi phí văn phòng,... là những chi phí gián
tiếp mà doanh nghiệp phải chịu để vận hành hoạt động kinh doanh ngoài
những chi phí trực tiếp như nguyên vật liệu hay lao động trực tiếp.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, doanh nghiệp cần xây dựng cơ chế quản lý
điều hành nguồn vốn và các chi phí sản xuất kinh doanh hiệu quả theo hướng
cơ cấu thu chi phù hợp với việc cắt giảm các chi phí đầu vào. Không chỉ có
vậy, hệ thống quản lý chi tiêu từng bước thực hiện tự động hoá, đẩy mạnh
phân cấp nhằm cân đối tỷ lệ chi và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh

doanh trong từng thời kỳ và đảm bảo an toàn tài chính doanh nghiệp.
- Giám sát hiệu quả các khoản thu của doanh nghiệp nhằm đảm bảo rằng
doanh nghiệp đang viết hoá đơn và thu tiền khách hàng chuẩn xác nhất và
doanh nghiệp cũng đang nhận được các khoản thanh toán đúng hẹn.
Các khách hàng thanh toán sớm và đều đặn hay được khích lệ để làm như vậy
luôn rất đáng trân trọng. Việc họ tiếp tục làm như thế sẽ đảm bảo một dòng
tiền mặt ổn định cho bạn. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần đàm phán để có các
điều khoản thanh toán dài hơn với những nhà cung cấp. Thời gian thanh toán
càng dài càng tốt nhằm giữ đồng tiền ở lại với doanh nghiệp lâu hơn.

16


- Doanh nghiệp cần giám sát và quản lý chặt chẽ các khoản tiền bị rút ra
khỏi doanh nghiệp cho những mục đích không liên quan tới kinh doanh,
chẳng hạn như hối phiếu chủ sở hữu. Việc đưa ra ngoài quá nhiều tiền có thể
khiến lưu lượng tiền mặt của doanh nghiệp bị tổn hại đáng kể.
- Các doanh nghiệp cần định kỳ xem xét lại yếu tố lợi nhuận đối với các
sản phẩm và dịch vụ khác nhau của mình. Không thể bỏ qua việc đánh giá
xem nơi nào có thể tăng giá sản phẩm hay dịch vụ nhằm duy trì hoặc nâng cao
doanh số lợi nhuận. Khi mà các chi phí gia tăng và thị trường có sự thay đổi,
giá cả cũng cần được điều chỉnh để đảm bảo "sức khoẻ" cho doanh nghiệp.
1.3.2. Biện pháp tăng cường khả năng sinh lời của doanh nghiệp
Nâng cao khả năng sinh lời ( nâng cao lợi nhuận) là mục tiêu hướng tới
của mọi doanh nghiệp. Lợi nhuận tăng tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản
xuất , tăng vốn sản xuất, mở rộng kinh doanh. Dưới đây là một số biện pháp
nhằm nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp:
- Tăng doanh thu của doanh nghiệp: Có nhiều biện pháp tăng doanh thu
của DN tùy thuộc vào đặc điểm và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà
có thể lựa chọn những biện pháp phù hợp với tình hình thực tế của doanh

nghiệp, xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh phù hợp cho phép doanh
nghiệp tận dụng tối đa các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh, như vậy sẽ
tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần tăng lợi nhuận.
- Hạ thấp chi phí: Trong quá trình họat động, doanh nghiệp phải bỏ ra
nhiều khoản chi phí phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như: chi phí
nguyên vật liệu, chi phí tiền lương cho công nhân viên, chi phí hao mòn máy
móc thiết bị... Những khoản chi phí đó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận. Vì
vậy doanh nghiệp cần quản lý tốt các khoản chi phí, tránh lãng phí, thất thoát,
loại bỏ những chi phí không hợp lý.
- Tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm: Đây là biện pháp cơ
bản để tăng lợi nhuận. Nếu giá bán và mức thuế đã xác định thì lợi nhuận đơn
vị sản phẩm sẽ tăng lên hay giảm xuống là do giá thành quyết định. Để tăng

17


năng suất lao động cần cải tiến biến đổi trang thiết bị cho phù hợp điều kiện
của doanh nghiệp và đòi hỏi của thị trường về chất lượng sản phẩm, nâng cao
hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị sử dụng hết công suất giảm chi phí khấu
hao/ 1đơn vị sản phẩm.
- Triển khai và thực hiện kế hoạch nâng cao chất lượng sản phẩm, đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng. Hiện nay,
cạnh tranh trong cơ chế thị trường ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp
không những cạnh tranh về giá mà chất lượng và dịch vụ sau bán hàng như tín
dụng, bảo hành, sửa chữa, lắp đặt .... Chính vì vậy doanh nghiệp cần phải
nâng cao tay nghề công nhân, cải tiến máy móc, dây chuyền công nghệ.
1.4. Điều kiện đảm bảo tăng cường khả năng thanh toán và khả
năng sinh lời của doanh nghiệp
Khả năng thanh toán và khả năng sinh lời là một trong những chỉ số tài
chính quan trọng của một doanh nghiệp. Để tăng cường khả năng thanh toán

cũng như khả năng sinh lời của một doanh nghiệp cũng cần có những điều
kiện nhất định đến từ chính doanh nghiệp, từ phía những khách hàng và
những điều kiện thuận lợi đến từ cơ quan cấp trên.
1.4.1. Điều kiện từ phía doanh nghiệp
Trước hết tình hình tài chính của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho việc tăng cường khả năng thanh toán và khả năng sinh lời của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh thì không những
đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên
tục và ổn định mà còn giúp cho doanh nghiệp có khả năng đầu tư đổi mới
công nghệ và áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nhằm làm giảm chi phí,
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Ngược lại, nếu như khả năng về
tài chính của doanh nghiệp yếu kém thì doanh nghiệp không những không
đảm bảo được các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra
bình thường mà còn không có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ
thuật tiên tiến vào sản xuất do đó không nâng cao được năng suất và chất

18


lượng sản phẩm. Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp tới
uy tín của doanh nghiệp, tới khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh tới
tốc độ tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới mục
tiêu tối thiểu hoá chi phí băng cách chủ động khai thác và sử dụng tối ưu các
nguồn lực đầu vào. Vì vậy tình hình tài chính của doanh nghiệp tác động rất
mạnh tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp đó.
Năng lực tài chính của công ty tồn tại dưới dạng tiền tệ (tiền mặt, tiền
gửi …), các khoản phải thu từ các cá nhân mắc nợ doanh nghiệp, các tài sản
có thể chuyển đổi nhanh thành tiền như: hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi bán
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp như nợ và các khoản phải trả) bằng các

tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn
kho)
Hệ số này cho phép hình dung ra chu kì hoạt động của công ty xem có
hiệu quả không, hoặc khả năng biến sản phẩm thành tiền mặt có tốt không.
Nếu công ty gặp phải rắc rối trong vấn đề đòi các khoản phải thu hoặc thời
gian thu hồi tiền mặt kéo dài, thì công ty rất dễ gặp phải rắc rối. Khả năng
thanh toán của doanh nghiệp sẽ là tốt nếu tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
chuyển dịch theo xu hướng tăng lên và nợ ngắn hạn chuyển dịch theo xu
hướng giảm xuống; hoặc đều chuyển dịch theo xu hướng cùng tăng nhưng tốc
độ tăng của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn lớn hơn tốc độ tăng của nợ
ngắn hạn; hoặc đều chuyển dịch theo xu hướng cùng giảm nhưng tốc độ giảm
của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn nhỏ hơn tốc độ giảm của nợ ngắn
hạn.
Khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh
tình hình tài chính của doanh nghiệp, không thể nói một cách đơn giản tình
hình tài chính của doanh nghiệp là tốt nếu khả năng thanh toán ngắn hạn lớn.
Khả năng thanh toán ngắn hạn lớn có thể do: các khoản phải thu (tức nợ
không đòi được hoặc không dùng để bù trừ được) vẫn còn lớn, hàng tồn kho

19


lớn (tức nguyên vật liệu dự trữ quá lớn không dùng hết và hàng hóa, thành
phẩm tồn kho không bán được không đối lưu được). Tài sản lưu động tồn trữ
lớn, phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả, vì bộ phận này không vận
động không sinh lời... Và khi đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp thực
tế sẽ là không cao nếu không muốn nói là không có khả năng thanh toán.
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn có thể được hình thành từ vốn vay dài
hạn như tiền trả trước cho người bán; hoặc được hình thành từ nợ khác (như
các khoản ký quỹ, ký cược…) hoặc được hình thành từ nguồn vốn chủ sở

hữu. Chính vì thế có thể vốn vay ngắn hạn của doanh nghiệp nhỏ nhưng nợ
dài hạn và nợ khác lớn. Nếu lấy tổng tài sản lưu động chia cho nợ ngắn hạn để
nói lên khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp thì chẳng khác gì
kiểu dùng nợ để trả nợ vay. Chính vì vậy, không phải hệ số này càng lớn càng
tốt. Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ngành
nghề nào có tài sản lưu động chiếm tỷ trọng cao (chẳng hạn Thương mại)
trong tổng tài sản thì hệ số này cao và ngược lại.
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, bộ máy quản trị
doanh nghiệp cũng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển doanh nghiệp, bộ máy quản trị doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện
nhiều nhiệm vụ khác nhau :
- Nhiệm vụ đầu tiên của bộ máy quản trị doanh nghiệp và xây dựng cho
doanh nghiệp một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nếu xây
dựng cho doanh nghiệp một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh
nghiệp. Nếu xây dựng được một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh
nghiệp hợp lý (phù hợp với môi trường kinh doanh, phù hợp với khả năng của
doanh nghiệp) sẽ là cơ sở là định hướng tốt để doanh nghiệp tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Xây dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh và kế
hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở chiến lược kinh doanh
và phát triển doanh nghiệp đã xây dựng.

20


- Tổ chức thực hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản
xuất kinh doanh đã đề ra.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh các quá trình trên.
Với chức năng và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của bộ máy quản trị
doanh nghiệp, ta có thể khẳng định rằng chất lượng của bộ máy quản trị quyết

định rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu bộ máy
quản trị được tổ chức với cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, gọn nhẹ linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng rõ
ràng, có cơ chế phối hợp hành động hợp lý, với một đội ngũ quản trị viên có
năng lực và tinh thần trách nhiệm cao sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, từ đó sẽ tăng khả năng sinh lời
của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, sản phẩm, chất lượng sản phẩm và công tác tổ chức tiêu
thụ sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng. Ngày nay chất lượng của sản phẩm
trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị
trường, vì chất lượng của sản phẩm nó thoả mãn nhu cầu của khách hàng về
sản phẩm, chất lượng sản phẩm càng cao sẽ đáp ứng được nhu cầu ngày càng
tăng của người tiêu dùng tốt hơn. Chất lượng sản phẩm luôn luôn là yếu tố
sống còn của mỗi doanh nghiệp, khi chất lượng sản phẩm không đáp ứng
được những yêu cầu của khách hàng, lập tức khách hàng sẽ chuyển sang tiêu
dùng các sản phẩm khác cùng loại. Chất lượng của sản phẩm góp phần tạo
nên uy tín danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường.
Những đặc tính mang hình thức bên ngoài của sản phẩm như : Mẫu mã,
bao bì, nhãn hiệu…trước đây không được coi trọng nhưng ngày nay nó đã trở
thành những yếu tố cạnh tranh quan trọng không thể thiếu được. Thực tế cho

21


thấy, khách hàng thường lựa chọn các sản phẩm theo trực giác, vì vậy những
loại hàng hoá có mẫu mã bao bì nhãn hiệu đẹp và gợi cảm…luôn giành được
ưu thế hơn so với các hàng hoá khác cùng loại.
Các đặc tính của sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp góp phần rất lớn tới việc tạo uy tín, đẩy nhanh
tốc độ tiêu thụ sản phẩm làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh

nghiệp nên có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, nó quyết định tới các khâu khác của quá trình sản
xuất kinh doanh. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có tiêu thụ được hay
không mới là điều quan trọng nhất. Tốc độ tiêu thụ nó quyết định tốc độ sản
xuất và nhịp độ cung ứng nguyên vật liệu. Cho nên nếu doanh nghiệp tổ chức
được mạng lưới tiêu thụ sản phẩm phù hợp với thị trường và các chính sách
tiêu thụ hợp lý khuyến khích người tiêu dùng sẽ giúp cho doanh nghiệp mở
rộng và chiếm lĩnh được thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp đẩy
nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng vòng
quay của vốn, góp phần giữ vững và đảy nhanh nhịp độ sản xuất cũng như
cung ứng các yếu tố đầu vào nên góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Một yếu tố cũng vô cùng quan trọng đó là cơ sở vật chất kỹ thuật và
công nghệ sản xuất của doanh nghiệp: Cơ sở vật chất kỹ thuật trong doanh
nghiệp là yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục vụ cho quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, làm nền tảng quan trọng để doanh nghiệp tiến
hành các hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất đem lại sức mạnh kinh doanh
cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản. Cơ sở vật chất dù chiếm

22


tỷ trọng lớn hay nhỏ trong tổng tàu sản của doanh nghiệp thì nó vẫn có vai trò
quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh, nó thể hiện bộ mặt kinh doanh
của doanh nghiệp qua hệ thống nhà xưởng, kho tàng, cửa hàng, bến bãi…Cơ
sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì
càng góp phần đem lại hiệu quả cao bất nhiêu. Điều này thấy khá rõ nếu một
doanh nghiệp có hệ thống nhà xưởng, kho tàng, cửa hàng, bến bãi được bố trí

hợp lý, nằm trong khu vực có mật độ dân cư lớn, thu nhập về cầu về tiêu dùng
của người dân cao…và thuận lợi về giao thông sẽ đem lại cho doanh nghiệp
một tài sản vô hình rất lớn đó là lợi thế kinh doanh đảm bảo cho doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao.
Trình độ kỹ thuật và trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiệp ảnh
hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới mức độ tiết kiệm
hay tăng phí nguyên vật liệu do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật sản xuất còn
có công nghệ sản xuất tiên tiến và hiện đại sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp sử
dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm,
còn nếu trình độ kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp thấp kém hoặc công nghệ
sản xuất lạc hậu hay thiếu đồng bộ sẽ làm cho năng suất, chất lượng sản phẩm
của doanh nghiệp rất thấp, sử dụng lãng phí nguyên vật liệu.
1.4.2. Điều kiện từ cơ quan cấp trên
Là một doanh nghiệp nhà nước cũng như một doanh nghiệp tư nhân,
việc tăng cường khả năng thanh toán và khả năng sinh lời là đặc biệt quan
trọng, điều này đòi hỏi phải có những điều kiện cần thiết từ chính doanh
nghiệp, đồng thời cũng phải có những điều kiện thuận lợi từ phía cơ quan cấp
trên. Cơ quan cấp trên tạo điều kiện như thế nào cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến khả năng này của doanh nghiệp. Cơ quan cấp trên đặt ra chỉ tiêu doanh
thu như thế nào cho mỗi đơn vị và mức thưởng cho mỗi đơn vị đạt được và

23


mức phạt nếu không đạt được như thế nào cũng ảnh hưởng tới tình hình kinh
doanh của công ty. Đặc biệt là việc ưu tiên về vốn cho những doanh nghiệp có
những dự án có hiệu quả kinh tế. Cơ quan cấp trên sẽ rót vốn xuống để đầu tư
thêm tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng
cao hiệu quả sản xuất.

1.4.3. Điều kiện từ phía khách hàng
Khách hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng và được các doanh nghiệp
đặc biệt quan tâm chú ý. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra mà
không có người hoặc là không được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi thì
doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất được. Mật độ dân cư, mức độ thu
nhập, tâm lý và sở thích tiêu dùng… của khách hàng ảnh hưởng lớn tới sản
lượng và giá cả sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sự cạnh
tranh của doanh nghiệp vì vậy ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.

24


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN
VÀ SINH LỜI TẠI CHI NHÁNH XÍ NGHIỆP 197
2.1. Giới thiệu khái quát về Chi nhánh Xí nghiệp 197
Công ty vật tư công nghiệp quốc (CNQP) đã có truyền thống 50 năm
xây dựng và trưởng thành (cho đến năm 2012). Trong 50 năm qua, ngành Vật
tư CNQP trải qua nhiều thay đổi về tổ chức, biên chế và nhiệm vụ:
- Từ ngày đầu thành lập 27/6/1962, tiền thân là Cục Vật tư nhiên liệu Tổng cục Hậu cần, đơn vị duy nhất của ngành vật tư quân đội phục vụ cho
các đơn vị trong toàn quân.
- 6/1974, Tổng cục kỹ thuật thành lập, chuyển thành Cục vật tư - Tổng
cục Kỹ thuật, làm nhiệm vụ cung ứng vật tư kỹ thuật cho quân đội.
- 7/1975, Cục vật tư - Tổng cục Kỹ thuật đổi tên thành Cục Kế hoạch vật
tư - Tổng cục Kỹ thuật làm chức năng cung ứng vật tư kỹ thuật cho quân đội
thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- 12/1978, Cục Kế hoạch - Tổng cục Kỹ thuật đổi tên thành Cục cung
ứng vật tư - Tổng cục Kỹ thuật, làm nhiệm vụ mua sắm, tạo nguồn, quản lí,
cung ứng vật tư kỹ thuật cho toàn quân
- 12/1981, sau khi Cục vật tư - Bộ Tham mưu hoàn thiện về chức năng

và tổ chức thì Cục Cung ứng vật tư - Tổng cục Kỹ thuật chỉ làm nhiệm vụ
mua sắm, cung ứng, quản lí vật tư trong ngành kỹ thuật
- 3/1989, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 160/QĐ-QP đổi tên Cục
cung ứng vật tư thành Công ty Vật tư trực thuộc Tổng cục CNQP-KT
- 03/11/1992, theo Nghị định 388 của Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Quốc
phòng ra Quyết định 77A/QĐ-BQP tách Công ty vật tư - Tổng cục CNQP
thành 3 đơn vị trực thuộc Tổng cục CNQP-KT: Trung tâm Bảo đảm vật tư
CNQP làm nhiệm vụ mua sắm, tạo nguồn quản lí dự trữ vật tư cho sản xuất

25


×