Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập 12 câu TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.38 KB, 87 trang )

(Mạc Thị Thanh Bình)
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP 12 CÂU TRIẾT HỌC
Câu 1. Vấn đề cơ bản của triết học là gì ?

Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học: Triết học cũng như các khoa học khác
phải giải quyết rất nhiều những vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực
kỳ quan trọng, là nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại
được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của
mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”

- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa tồn tại và tư duy, giữa ý thức và vật chất, cái nào
có trước? cái nào quyết định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học
chia thành hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước,
tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh
vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử
cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường thế kỷ V-XV, duy vật cơ
học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX và duy vật mác-xít (biện
chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức
là cái có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý
thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản
chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong con người) và duy tâm
khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một thực thể tinh thần
tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi
ích và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai
đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một
hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý thức


khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai
cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.
+ Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người - Con người có khả
năng nhận thức được thể giới hay không?
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều thừa
nhận rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, nhận thức là
sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn các nhà duy tâm thì
cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.
Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri (không thể
biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức dẫn đến
phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
+ Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới
từ một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên
luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau,


bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản nguyên tinh thần sinh ra các hiện
tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm,
đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó
càng trở nên gần với chủ nghĩa duy tâm.


- Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:
+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng
vật chất tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại


trong ý thức của chúng ta, không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực
ấy.
+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan

hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành
thế giới quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các
trường phái triết học đó, cụ thể:
* Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống
triết học này, nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất
nguyên hay nhị nguyên.
* Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó
theo thuyết khả tri hay bất khả tri.
+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.


Câu 2. Thế nào là triết học duy vật và triết học duy tâm ?
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người được coi là các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp


thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người cho rằng,
ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp thành các
môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy vật:
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất
đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang
nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa
duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích
giới tự nhiên, không viện đến Thần linh hay Thượng đế.

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật,
thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ thứ
XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên
trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở
trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa
duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm
và tôn giáo, điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật,
do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được
V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử
dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay
từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại,
chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn
tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện
thực ấy.
- Chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa
duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng
định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng
theo họ đấy là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực
thể tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh
thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v..
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra
giới tự nhiên; như vậy là đã bằng cách này hay cách khác thừa nhận sự sáng tạo ra thế
giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận, luận

chứng cho các quan điểm của mình. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm
triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở


chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư
duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí.
Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách
xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá
trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.
Cùng với nguồn gốc nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm ra đời còn do nguồn gốc xã
hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí
óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định
của nhân tố tinh thần. Các giai cấp thống trị và những lực lượng xã hội phản động ủng
hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã
hội của mình.
Một học thuyết triết học thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh
thần) là nguồn gốc của thế giới được gọi là nhất nguyên luận (nhất nguyên luận duy vật
hoặc nhất nguyên luận duy tâm).
Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học xem vật chất và tinh thần là hai
nguyên thể tồn tại độc lập, tạo thành hai nguồn gốc của thế giới; học thuyết triết học của
họ là nhị nguyên luận. Lại có nhà triết học cho rằng vạn vật trong thế giới là do vô số
nguyên thể độc lập tạo nên; đó là đa nguyên luận trong triết học (phân biệt với thuyết đa
nguyên chính trị). Song đó chỉ là biểu hiện tính không triệt để về lập trường thế giới
quan; rốt cuộc chúng thường sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng suy
cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Lịch sử triết học cũng là lịch sử đấu tranh của hai trường phái này.
Câu 3. Trình bày chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học.
1. Thế giới quan
Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân

con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.
Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp
cho sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó
tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.
Thế giới quan được hình thành, phát triển trong quá trình sinh sống và nhận thức
của con người; đến lượt mình, TGQ trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp tục
quá trình nhận thức thế giới xung quanh, cũng như tự nhận thức bản thân mình, và đặc
biệt là, từ đó con người xác định thái độ, cách thức hoạt và sinh sống của mình. TGQ
đúng đắn là tiền đề hình thành nhn6 sinh quan tích cực và tiến bộ.
Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về thế giới quan. Nếu xét theo quá trình phát
triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại,
thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Triết học ra đời với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, đã làm cho TGQ phát triển lên một trình độ tự giác dựa
trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học mang lại.


Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là 2 thế giới quan cơ bản đối lập nhau: Thế
giới quan duy vật, khoa học và thế giới quan duy tâm, tôn giáo.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu
hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội
dối lập nhau.
Chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của giai cấp, của lực lượng tiến bộ cách mạng,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội. Trong lịch sử chủ nghĩa duy
vật đã đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh của chủ nô dân chủ chống chủ nô quý
tộc ở Hy Lạp thời cổ đại; trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chông giai cấp phong
kiến ở các nước phương tây thời cận đại. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm được sử dụng làm
công cụ biện hộ về lý luận cho giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, phản động.
3. Phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm, các nguyên

tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong
nhận thức và trong thực tiễn.
Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau: phương pháp luận ngành, phương
pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất.
Phương pháp luận của triết học chính là phương pháp luận chung nhất. Trong triết
học thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau. Bất cứ lý luận triết học nào,
khi lý giải về thế giới xung quanh và bản thân con người, đồng thời cũng thể hiện một
phương pháp luận nhất định, chỉ đạo cho việc xây dựng và vận dụng phương pháp.
Mỗi hệ thống triết học không chỉ là một thế giới quan nhất định, mà còn là phương
pháp luận chung nhất trong việc xem xét thế giới. Mỗi quan điểm triết học đồng thời là
một nguyên tắc phương pháp luận, là lý luận về phương pháp.
Với tư cách là phương pháp luận chung nhất, triết học đóng vai trò định hướng cho
con người trong quá trình tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Do đó, nó có ý nghĩa qquyet61 định đối với thành bại
trong nhận thức và thực tiễn cảu con người.
Trong triết học mácxít, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất chặt chẽ
với nhau: chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng; còn phép biện chứng là
phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất đó đã làm cho triết học mácxít trở thành thế giới
quan và phương pháp luận thật sự khoa học trong nhận thức và thực tiễn hiện nay vì sự
tiến bộ xã hội.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau.
Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển
của hiện thực; do đó, nó không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan
niệm về thế giới, là lý luận về thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy
vật mácxít, do tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng
cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát
của phương pháp luận.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng, đề phòng và
chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình vừa là kết quả, vừa là
mục đích trực tiếp của việc học tập, nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác

- Lênin nói riêng.


CHƯƠNG V
THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
Câu 4. Trình bày khái niệm thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan.
Thế nào là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm ?
1. Khái niệm thế giới quan.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người phải nhận thức thế giới và
nhận thức bản thân mình. Nhận thức về mối quan hệ giữa bản thân mình với thế giới để
điều chỉnh hoạt động của mình. Kết quả quá trình ấy tạo nên thế giới quan.
a. Định nghĩa: Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế
giới, bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
b. Về nguồn gốc: Thế giới quan có nguồn gốc từ cuộc sống. Là kết quả quá trình
nhận thức. Song nó là kết quả cả quá trình giữa yếu tố chủ quan và những yếu tố khách
quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chủ thể của thế giới quan có
thể là cá nhân hoặc cả cộng đồng.
c. Về nội dung : thế giới quan phản ánh ở ba góc độ:
+ Các đối tượng bên ngoài chủ thể: là kết quả nhận thức của con người, khi con
người nhận thức những cái bên ngoài bản thân mình sẽ hình thành những mảng nội dung
riêng.
+ Bản thân chủ thể: con người hiểu về mình, nhận thức về mình, có những quan
điểm , quan niệm của riêng mình.
+ Mối quan hệ giữa chủ thể với các đối tượng bên ngoài chủ thể: con người có
sự hiểu biết những cái bên ngoài mình, những cái bên trong mình và hiểu mối quan hệ
giữa cái bên trong con người về thế giới bên ngoài con người.
Ba góc độ này vừa thể hiện ý thức của con người về thế giới, vừa thể hiện ý thức
con người về chính bản thân mình.
d. Về hình thức

TGQ Biểu hiện có thể dưới dạng các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể
biểu hiện dưới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ.
e. Về cấu trúc
Có cấu trúc phức tạp và được tếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau song 2 yếu tố cơ
bản là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho hình thành TGQ, song tri thức
chỉ gia nhập vào thế giới quan khi nó đã thành niềm tin để hình thành lý tưởng, động cơ
thôi thúc con người hành động. Một TGQ coi là nhất quán, hoàn chỉnh khi tri thức và
niềm tin thống nhất với nhau và con người hành động theo niềm tin đó.
Stt
1
2
3

Tri Thức
+
+

Niềm tin
+
+

Hành động
Dao động, TGQ không nhất quán
Dao động, TGQ không nhất quán
TGQ nhất quán, hoàn chỉnh


+ Con người có Tri thức thiếu niềm tin dẫn đến hành động dao động. ví
dụ: nhiều người nói nhiều về CNXH, CNCS rất hay vì người này có tri thức về CNXH,
CNCS. Nhưng những người này chưa chắc gì có niềm tin về CNXH, CNCS nên dẫn tới

hành động ngược lại với CNXH, CNCS.
+ Con người có niềm tin thiếu tri thức dẫn đến hành động dao động. ví dụ:
tất cả giáo dân của tôn giáo rất tin vào tôn giáo của họ nhưng họ thiếu tri thức về tôn giáo
của mình nên dẫn tới hành động dao động lúc thế này lúc thế khác.
+ Con người có tri thức có niềm tin thì dẫn đến TGQ nhất quán, hoàn
chỉnh. Nhưng để có tri thức và niềm tin thì trải qua một quá trình học tập, tìm hiểu,
nguyên cứu sau đó con người kiểm nghiệm tri thức đó, trải nghiệm tri thức đó thì con
người mới có niềm tin về tri thức đó.
g. Về chức năng
TGQ có rất nhiều chức năng như nhận xét, đánh giá, nhận thức, nhận định… nhưng
chức năng quan trọng nhất là chức năng định hướng cho hoạt động của con người, định
hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người. Định hướng cho quan hệ con người, định
hướng cho hệ giá trị con người, từ cách đi cách đứng của con người. Những người có
TGQ khác nhau sẽ định hướng cho hoạt động của mình khác nhau. Ví dụ: Mỗi con người
có TGQ khác nhau dẫn đến hành động khác nhau. Toàn bộ hành động của con người bị
TGQ chi phối. Cuộc sống của chúng ta đang bị TGQ của chúng ta chi phối.
2. Các hình thức cơ bản của thế giới quan.
Sự phát triển của TGQ đã là TGQ thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: TGQ huyền
thoại, TGQ tôn giáo, TGQ triết học.
a. TGQ Huyền thoại
- Nguồn gốc: hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu của XH loài người.
- Nội dung: Pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo.
- Đặc trưng:
+ Thể hiện “Tư duy nguyên thủy”, thể hiện rõ nét qua các truyện
thần thoại, phản ánh nhận thức về thế giới của con người trong công xã nguyên thủy. Nó
mang nặng dấu ấn của thời đại sinh ra nó – thời đại mà tính con người mông muội chưa
bị đẩy lùi trong cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, trong cả hoạt động nhận thức
và hoạt động tinh thần. Sự pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo, giữa thần và
người. Sự pha trộn này do con người chưa hiểu về nguồn, nguyên nhân, bản chất của các
sự vật hiện tượng trong thế giới nên họ đã nhân cách hóa, nhân hình hóa, nhân tính hóa

chúng thành các vị thần hoạc bán thần trong thần thoại. Chẳng hạn: Trong thần thoại hy
lạp (Thần sông Akêlốt, thần đất Gaia …); thần thoại Trung Quốc (Thần mặt trời, Viêm
đế, thần gió ngẫu cường …); Trong thần thoại Ấn Độ (thần lửa Agri, thần không trung
Varuna …)
+ Là sản phẩm của nhận thức cảm tính, nên những gì con người
trừu tượng thường được con người hình dung dưới dạng sự vật cụ thể. “Thiện” và “Ác”
(khái niệm thể hiện sự đánh giá về mặt giá trị xã hội) chẳng hạn. Trong thần thoại, thiện –
ác được mô tả là những vật có hình dáng, có kích thước và có cả nơi cất giữ, bảo quản.
+ Thể hiện ý thức về cội nguồn của người nguyên thủy: Họ biết ơn
những gì mà tổ tiên của họ đã tạo ra và mong mỏi tổ tiên sẽ tiếp thêm sức mạnh, giúp họ


chiến thắng trong cuộc chiến chống thiên tai, chống thú dữ và chống những cộng đồng
người khác.
+ Thể hiện qa hình thức truyền miệng từ đời này sang đời khác, từ
người này sang người khác qua trí tưởng tượng, suy luận của người kể tạo ra những sự
biến đổi không tự giác là cho con người của thị tộc ngày càng anh hùng hơn, kỳ vĩ hơn và
cũng thần thánh hơn. Hêraclít, Ôđixê, Thiếu hạo, Chuyên Húc … là những con người như
thế.
=> Thế giới quan huyền thoại đều giải thích “Các lực lượng của tự nhiên trong
tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng” và đều truy tìm thị tộc – những thị tộc đã có trước
thần thoại do chính bản thân thị tộc sáng tạo ra với những vị thần và bán thần; chỉ là cái
thực tế đã qua phản ánh hoang tưởng và những câu chuyện của người nguyên thủy.
b. TGQ tôn giáo
- Nguồn gốc: ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con
người còn rất thấp, những hình thức sơ khai của thế giới quan của thế giới quan này như
Bái phật giáo, Tô tem giáo, ma thuật giáo … thể hiện sự bất lực, yếu đuối, sợ hãi của con
người trước lực lượng tự nhiên cũng như lực lượng xã hội dẫn đến con người thần thánh
chúng, quy chúng về sức mạnh tự nhiên và đi đến thờ chúng.
- Nội dung: thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức

mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các
hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy.
- Đặc trưng:
+ TGQ tôn giáo thể hiện qua giáo lý của các tôn giáo.
+ Niềm tin cao hơn lý trí, nặng tính hư ảo, tuyệt đối hóa yếu tố
thần thánh, vai trò con người bị hạ thấp. Niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn
mỹ mà con người sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo.
=> TGQ tôn giáo vừa thể hiện sự nghèo nàn của hiện thực, vừa là sự phản kháng
chống lại sự nghèo nàn ấy. Nó như tiếng thở dài của chúng sinh, như “thuốc phiện” làm
giảm đau trước những mất mát của người cùng khổ, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng trong cuộc sống.
Trong tất cả các tôn giáo chỉ có tôn giáo phật giáo là nói đến sức mạnh của con
người. Con người có thể giải thoát cho mình bằng cách tích nghiệp thiện, tạo nghiệp
thiện. Do vậy nó không thể tồn tại với tư cách là một TGQ KH
c. TGQ triết học
- Nguồn gốc: Hình thành khi nhận thức của con người đạt đến trình độ cao của sự
khái quát hóa, trừu tượng hóa và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết
phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.
- Nội dung: Là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ
thống các khái niệm, phạ trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan điểm, quan
niệm của con người về thế giới và bản thân con người,. mà còn chứng minh các quan
điểm, quan niệm đó bằng lý luận.


- Đặc trưng:
TGQ triết học và triết học không tách rời nhau. Triết học là hạt nhân lý luận của thế
giới quan, là bộ phận quan trọng nhất vì nó chi phối tất cả những quan điểm, quan niệm
còn lại của thế giới như những quan điểm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị, văn
hóa.
Đề cao vai trò trí tuệ. Cụ thể hơn tính chất của TGQ triết học bị tính chất của các

học thuyết triết học qui định và tất cả các học thuyết triết học điều thể hiện cấp độ nhận
thức cao.
Thế giới quan còn có thể chia thành thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm;
thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học.
3. Thế nào là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm ?
1. Thế giới quan duy tâm
a. Định nghĩa.
Thế giới quan duy tâm là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần
và thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói
chung, đối với con người, xã hội loài người nói riêng.
b. Biểu hiện
Thế giới quan duy tâm thể hiện rất đa dạng. Tính đa dạng của thế giới quan duy tâm
trước hết phụ thuộc vào tính đa dạng trong quan niệm về “tinh thần” của những người có
thế giới quan này. “Tinh thần” có thể là ý thức của con người như ý chí, tình cảm, tri
thức, kinh nghiệm, v v … cũng có thể là một bản nguyên bên ngoài như “tinh thần tối
cao”, “ý niệm tuyệt đối”, “đấng sáng tạo”, v v …
c. Cấp độ.
Các cấp độ của thế giới quan duy tâm thụ thuộc vào trình độ nhận thức của con
người và tương ứng với trình độ nhận thức ấy, thế giới quan duy tâm được thể hiện dưới
hình thức thô sơ, tôn giáo hay triết học.
Vấn đề này C.Mác và Angghen viết: “tất cả những nhà duy tâm, cả về triết học lẫn
tôn giáo, cả cũ lẫn mới, đều tin vào linh cảm, khải thị, chúa cứu thế, người sáng tạo kỳ
diệu; sự tín ngưỡng ấy mang hình thức thô sơ, tôn giáo hay hình thức hình thức văn minh,
triết học, thì điều đó chỉ phụ thuộc vào trình độ giáo dục của họ”.
2. Thế giới quan duy vật
a. Định nghĩa.
Là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết
định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò
của con người trong đời sống hiện thực
b. Biểu hiện.

Thế giới quan duy vật thì chỉ có một thế giới quan duy nhất là thế giới vật chất, thế
giới vật chất không sinh ra, không bị mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
Thế giới quan duy vật cũng thừa nhận sự tồn tại của hiện tượng tinh thần, song tinh
thần có nguồn gốc từ vật chất. Vì vậy trong quan hệ giữa vật chất và tinh thần thì vật chất


là cái có trước, tinh thần có sau. Tuy nhiên thế giới quan duy vật cũng nhấn mạnh tính
năng động, tính tích cực của con người trong đời sống.
c. Cấp độ.
Thế giới quan duy vật thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: thế giới quan duy vật chất
phác; thế giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng.
- Thế giới quan duy vật chất phác:
+ Định nghĩa: Là thế giới qua thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của
những nhà duy vật.
+ Nguồn gốc:
Ra đời từ thời kỳ cổ đại, Thời kỳ con người đã thoát khỏi tình trạng mông muội
nhưng mọi mặt đời sống xã hội còn trình độ rất thấp.
Lao động từng bước được phân chia thành lao động trí óc và lao động chân tay,
song sản xuất vật chất vẫn là hoạt động cơ bắp, còn hoạt động tinh thần của người lao
động trí óc mới chỉ tạo nên phôi thai của khoa học.
+ Nội dung:
Khi thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, các nhà duy vật quan niệm vật chất
là một hay một số chất đầu tiên sản sinh ra vũ trụ.
* Ở Phương Đông:
* Phái ngũ hành coi những chất đầu tiên sản sinh ra vũ trụ là: kim –
mộc – thủy – hỏa – thổ.
* Phái Nyaya – Vai’sêsika là nguyên tử
* Phái Lkayata là: đất, nước, lửa, không khí …
* Ở Phương Tây:
* Phái Milê cho rằng chất đầu tiên ấy là nước (quan điểm của Talet);

Apeiron (quan điểm của Anaximan) hay không khí (quan điểm của Anaximen).
* Hêraclit quan niệm đó là lửa.
* Lơxip và Đmôcrit khẳng định là nguyên tử.
=> Nhận thức của các nhà duy vật chất phác mang nặng tính trực quan, những
phỏng đoán chưa có được những căn cứ khoa học vững chắc.
Từ đó, qua niệm về con người cũng được các nhà duy vật chất phác giải thích từ
những chất mà học coi là vật chất ấy : con người là hiện thân của ngũ hành, là sản phẩm
của khí, là sự tương tác của âm – dương, là kết hợp các nguyên tử ...
+ Kết luận
Thế giới quan duy vật chất phác thời cổ đại có những bước tiến đáng kể so với thế
giới quan khác cùng tồn tại ở xã hội đương thời, song hạn chế về mặt lịch sử, thế giới
quan này còn bộc lộ nhiều hạn chế :
* Nhận thức của các nhà duy vật chất phác mang nặng tính trực quan, những phỏng
đoán chưa có được những căn cứ khoa học vững chắc.
* Đồng nhất vật chất với vật thể - Một số dạng cụ thể của vật chất.


* Không hiểu được các bản chất tinh thần cũng như mối quan hệ giữa tinh thần với
vật chất ; không có cơ sở xác định những biểu hiện vật chất trong đời sống xã hội nên dễ
dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để : Khi giải quyết những vấn đề tự nhiên họ đứng
trên quan điểm duy vật, còn khi giải quyết những vấn đề xã hội họ đã “ trượt ” sang quan
điểm duy tâm.
* Chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới chưa chưa đóng vai trò cải tạo thế giới.
- Thế giới quan duy vật siêu hình
+ Nguồn gốc:
Thể hiện rõ nét vào thế kỷ XVII – XVIII ở các nước Tây âu. Đây là thời kỳ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập ở nhiều nước.
Trong tất cả các khoa học tự nhiên, chỉ có cơ học về cơ bản đạt đến trình độ hoàn bị
nên những định luật cơ học được coi là duy nhất đúng đối với mọi hoạt động nhận thức.
Đây là những định luật về cơ bản chưa phản ánh trạng thái tự vận động của các sự vật,

hiện tượng.
Thời kỳ này việc sử dụng phương pháp phân tích – phương pháp tách cái toàn thể
thành những bộ phận để nhận thức và ít chú ý đến mối liên hệ giữa các bộ phận ấy – đã
đem lại hiệu quả to lớn trong việc tìm hiểu những lĩnh vực cụ thể trong đời sống hiện
thực.
=> Hầu hết các nhà triết học duy vật Tây Âu đều chịu ảnh hưởng của phương pháp
tư duy này.
+ Nội dung:
Các nhà duy vật siêu hình trong khi phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo, thừa nhận
bản chất của thế giới là vật chất, đã phát triển tư tưởng coi vật chất là chất đầu tiên tạo ra
vũ trụ của các nhà duy vật thời cổ đại: Bêcơn, Đềcáctơ coi vật chất là “hạt”; Hốpxơ, La
Metri, Điđrô coi là “các vật thể riêng lẻ”, ...
Các nhà duy vật siêu hình đề cao con người, đề cao giá trị con người, song quan
niệm con người cũng như một cỗ máy : Hốp xơ hiểu trái tim của con người như chiếc lò
xo, thần kinh như sợi chỉ, còn các khớp xương như các bánh xe ; Bê cơn coi ý thức của
con người là “linh hồn biết cảm giác” tồn tại trong óc và luôn chảy theo các dây thần kinh
và mạch máu ...
=> Nhìn chung theo quan điểm duy vật siêu hình tuy góp phần chống lại thế giới
quan duy tâm, góp phần con người nhận thức từng lĩnh vực hẹp. Tuy nhiên các nhà duy
vật siêu hình nhìn thế giới là vô số những sự vật cụ thể tồn tại trong một không gian trống
rỗng và không hiểu đúng về con người, nên các nhà duy vật siêu hình cũng không thể
hiểu đúng về vị trí, vai trò của con người trong thế giới mà con người đang sống.
- Thế giới quan duy vật biện chứng
+ Nguồn gốc:
Được C.Mác và Ăngghen xây dựng vào thế kỷ XIX, Lênin và những người kế tục
ông phát triển.
Là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế giới trước đó, trực tiếp là quan
điểm duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen; là kết quả sử dụng tối ưu các
thành tựu khoa học ….
+ Nội dung



Quan điểm duy vật về thế giới: khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở thế giới vật chất và vật chất là thực tại khách quan, tồn tại độc với ý
thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh.
Quan điểm duy vật về xã hội: khẳng định xã hội là một bộ phận đăc thù của tự
nhiên, sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết
định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội; sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên; quần chúng nhân
dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử.
=> Cơ sở để xác định đâu là TGQ duy vật và TGQ duy tâm là xuất phát từ vấn đề
cơ bản của triết học – là xem thế giới quan đó quan niệm như thế nào về vị trí, vai trò
của vật chất, của ý thức trong mối quan hệ giữa chúng.
Câu 5. Nêu bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng. Nêu nội dung những
nguyên tắc Phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng.
I. Nêu bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng.
Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn
vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, sự thống nhất hữu cơ giũa thế giới
quy duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở tính thực tiễn – cách
mạng của nó.
1. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn.
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn  không thấy được tính năng động của ý thức;
riêng CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực
tiễn ý thức tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con người.
Thực tiễn với tư cách là toàn bộ hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo hiện thực mà những dạng cơ bản của nó là hoạt động sản xuất vật
chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học, được các nhà duy vật
biện chứng coi là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc trưng của con
người. Hoạt động này là mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức của con
người với thế giới vật chất.

Thông qua thực tiễn, ý thức con người được vật chất hóa, tư tưởng thành hiện thực.
Thông qua thực tiễn ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn “sáng tạo ra
thế giới”.
=> Bằng quan điểm thực tiễn các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục được những
hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết thỏa mãn vấn đề cơ bản của triết
học.
2. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng.
CNDV cũ mang nặng tính siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học
duy tâm  Mác cải tạo CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện  xây
dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
Sự thống nhất này đã đem lại cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về thế
giới – quan niệm thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất không ngừng biến đổi,
chuyển hóa và phát triển.


3. Quan điểm duy vật triệt để.
Nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn trong lĩnh vực xã hội.
CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người: CNDV cũ
không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV vào nghiên cứu lĩnh vực
xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát
thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có được một công cụ
vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.
4. Tính thực tiễn - cách mạng
Hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới:
- CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp
lợi ích nhân loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học 
CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa học và
tính cách mạng.
CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng

cái mới tiến bộ.
CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động, đặt ra những
yêu cầu có tính nguyên tắc phương pháp luận mà từ những nguyên tắc ấy con người phải
vận dụng sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
II. Nêu nội dung những nguyên tắc Phương pháp luận của thế giới quan duy
vật biện chứng
1. Tôn trọng khách quan
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên
lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như
sau :khi nhận thức khách thể ( đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ
thể tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một
cách tùy tiện .
- Mục đích chủ trương, đường lối của con người đặt không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan mà xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu
của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể.
- Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng phải tổ chức lực lượng để cải tạo
nó.
Tự bản thân tư tưởng không thể trở thành hiện thực mà phải thông qua hoạt động
của con người. Mặt khác trong lịch đặt ra cho con người những nhiệm vụ phải giải quyết
thì nó cũng sản sinh ra những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó nên vấn đề
trọng yếu trước tiên, quyết định con người thành công hay thất bại là con người tìm ra, có
huy động được, có tổ chức được những yếu tố vật chất thành lực lượng vật chất để thực
hiện mục đích, đường lối chủ trương của mình hay không.
2. Phát huy tính năng động chủ quan
Là phát huy tính tịch cực, năng động sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố
con người trong việc vật chất hóa những tính chất ấy.
Biểu hiện của tính năng động chủ quan


- Tôn trọng tri thức khoa học

Là tri thực chân thực về thế giới, được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm
nghiệm.
Tri thức khoa học giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người vì nó
là một trong những động lực phát triển của xã hội. Mọi bước tiến trong lịch sử nhân loại
đều gắn liền với những thành tựu của tri thức khoa học.
Tôn trọng tri thức khoa học không chỉ giúp chống sự tuyệt đối hóa vai trò của kinh
nghiệm, xem thường khoa học mà còn là không tuyệt đối hóa một loại khoa học nào. Đây
là tiền đề giúp con người không chỉ hoạt động hiệu quả trong ngành nghề của mình mà
còn giúp con người thực hiện hoạt động theo giá trị nhân văn của xã hội.
- Phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào trong
quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng hành
động.
Việc vươn lên làm chủ tri thức khoa học không chỉ liên quan đến quan niệm của
con người về khoa học mà còn liên quan đến năng lực, nghị lực, quyết tâm của con người
và những điều kiện vật chất để thực hiện nó.
Sức mạnh của tri thức khoa học phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào quần
chúng, sự thâm nhập này trở thành một trong những điều kiện trực tiếp để phát huy vai
trò nhân tố con người trong hoạt động vật chất hóa tri thức.
Vươn lên làm chủ tri thức khoa học, truyền bá tri thức khoa học là hoạt động vừa
mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội và liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống.
=> Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa là những ý nghĩa
có tính phương pháp luận cơ bản, vừa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt
động thực tiễn. Những yêu cầu này khác nhau nhưng thống nhất và quan hệ hữu cơ với
nhau nên trong hoạt động của con người chỉ đạt hiệu quả tối ưu khi thực hiện chúng đồng
bộ và chống lại những quan điểm, những biểu hiện đối lập chúng.
Câu 6. Thế nào là biện chứng và siêu hình.
Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ thống
những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể.
Trong lịch sử triết học không những có sự đối lập giữa CNDV và CNDT khi tìm

hiểu bản chất của thế giới, mà đồng thời còn phải trả lời các câu hỏi: thế giới là bất động,
đứng im hay là không ngừng vận động và phát triển? Các sự vật, hiện tượng của thế giới
ở trạng thái cô lập, tách rời nhau hay có liên hệ với nhau, tác động qua lại và chuyển hoá
lẫn nhau.
Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau
hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ
khép kín.
Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy
định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.
- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra trong
cách giải quyết mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung chính sau
đây:


a. Phương pháp siêu hình
b. Phương pháp biện chứng
Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô
Thừa nhận đối tượng qua các mối liên
lập, tách rời với các chỉnh thể khác và hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh
giữa các mặt đối lập nhau có một ranh hưởng, ràng buộc lẫn nhau giữa chúng.
giới tuyệt đối.
Thừa nhận đối tượng ở trạng thái
Thừa nhận đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi có khuynh hướng
tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là chung là phát triển, có sự thay đổi về chất,
biến đổi về mặt số lượng, nguyên nhân mà nguyên nhân của mọi sự biến đổi ấy
của mọi sự biến đổi nằm ngoài đối là do nguồn gốc bên trong đối tượng. Đó
tượng.
là sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy
Phương pháp biện chứng không chỉ

sự vật riêng biệt mà không thấy mối liên thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả
hệ qua lại giữa chúng; chỉ thấy sự tồn tại mối quan hệ qua lại giữa chúng, không
mà không thấy quá trình sự phát sinh và chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn
tiêu vong (Về bản chất là không hiểu thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của
được mối quan hệ giữa vận động và sự vật.
đứng im, hay đứng im chỉ là một hình
thức vận động đặc biệt).
Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa
Phương pháp biện chứng thể hiện
trên những phản đề tuyệt đối không thể tư duy mềm dẻo, linh hoạt trong sự phản
dung nhau được, họ nói có là có, không ánh hiện thực, - Phương pháp biện chứng
là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn thừa nhận trong những trường hợp cần thiết
tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng thì bên cạnh cái “ hoặc là.. hoặc là” còn
không thể vừa là chính nó lại vừa là cái có cái “vừa là... vừa là”; đối tượng hay
khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt chỉnh thể trong lúc tồn tại là nó thì cũng
đối bài trừ lẫn nhau, v.v…
đồng thời bao hàm sự tồn tại không là nó;
Nguồn gốc của phương pháp siêu cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ
hình: Là bắt nguồn từ việc muốn nhận nhau vừa gắn bó nhau. Do đó, nó phản ánh
thức đối tượng, trước hết con người phải hiện thực ngày càng chân thực chính xác,
tách đối tượng ra khỏi những mối liên hệ và nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con
và nhận thức nó ở trạng thái không biến người nhận thức và cải tạo thế giới.
đổi trong một không gian và thời gian xác
định.
Tuy phương pháp đó là cần thiết và
có tác dụng trong một phạm vi nhất định,
nhưng thực tế thì hiện thực không rời rạc
và ngưng đọng như phương pháp này
quan niệm.
Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong trạng

thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng là
phương pháp xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái
vận động biến đổi không ngừng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là sâu sắc,
sinh động và chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự phát triển.


Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò của
phép siêu hình. Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những lúc đặc biệt
lại rất cần đến phép siêu hình.
- Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
+ Phép biện chứng tự phát thời cổ đại
Thể hiện rõ nét trong “thuyết Âm - Dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là
trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học đều thấy các sự vật
hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những mối liên hệ vô cùng tận. Cách
nhận xét thế giới như vậy, theo Ăngghen, là một cách nhận xét còn nguyên thuỷ, ngây
thơ, nhưng căn bản là đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa phải là kết
quả cuả những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Chính vì hạn chế này mà phép
biện chứng Cổ đại phải nhường bước cho phép siêu hình, phương pháp thống trị trong tư
duy triết học ở thế kỷ XVIII là điều không thể tránh khỏi. Đây là giai đoạn khám phá
kết cấu, thuộc tính của đối tượng.
+ Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức
Bắt đầu từ Cantơ và hoàn chỉnh ở Hêghen. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển tư
duy nhân loại, các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội
dung của phép biện chứng. Tuy nhiên, đây mới chỉ dừng lại ở biện chứng của khái niệm,
của tinh thần, và tai hại hơn là họ cho rằng giới hiện thực chỉ là sự sao chép của tinh thần,
bởi vậy phép biện chứng cổ điển Đức là có tính chất duy tâm.
+ Phép biện chứng duy vật
Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng duy tâm, sau khi gạt
bỏ tính chất duy tâm thần bí của nó, Mác - Ăng ghen xây dựng phép biện chứng duy vật

với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình
thức hoàn bị nhất.


Chương VIII
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Câu 8. Trình bày tóm tắt lý luận hình thái kinh tế - xã hội và nêu vai trò phương
pháp luận của lý luận đó.
1. Trình bày tóm tắt lý luận hình thái kinh tế - xã hội
a. Định nghĩa:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên nhưng quan hệ sản xuất ấy.
b. Cấu trúc:
Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, trong đó những
mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt đều có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự
vận động và phát triển xã hội.
Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất – kỹ thuật của hình thái kinh tế - xã hội.
Sự hình thành và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng
sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục
trong sự phát triển của xã hội.
Quan hệ sản xuất: là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết định tất cả các quan hệ khác
trong xã hội. Mỗi một hình thái kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng,
tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
Những quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó
hình thành nên kiến trúc thượng tầng của xã hội để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ
tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ CSHT và KTTT cũ.

Ngoài những yếu tố trên còn có quan hệ sản xuất khác như: quan hệ gia đình, dân
tộc …
c. Sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
Là biểu hiện tập trung nhất của quan niệm duy vật về lịch sử và xuất phát từ một sự
thật hiển nhiên là: “Trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao
động, … trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, khoa học v v … Từ đây chúng ta
có thể thấy rằng lịch sử phát triển của lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển của
sản xuất vật chất.
Sản xuất của cải vật chất luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, sự phát
triển của nó bao giờ cũng bắt đầu của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động –
cái mà con người thường xuyên sáng tạo, cải tiến, phát triển qua các trình độ khác nhau.
Do đó, nó kéo theo sự thay thế các quan hệ sản xuất và hình thành phương thức sản xuất
kế tiếp nhau. PTSX thay đổi kéo theo toàn bộ xã hội thay đổi, đó chính là sự thay thế của
các hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
phát triển từ thấp đến cao theo quy luật khách quan.


Hơn nữa, nguồn gốc, động lực thúc đẩy các hình thái kinh tế - xã hội là các mâu
thuẫn xã hội, mà trước hết là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mâu thuẫn giữa các giai cấp
(trong xã hội có giai cấp)… Chính sự tác động và giải quyết mâu thuẫn này làm cho các
hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau là con đường phát triển chung của lịch sử xã hội
loài người.
Tuy nhiên, lịch sử phát triển của mỗi dân tộc, quốc gia lại chịu sự chi phối của
những điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống văn hóa về điều kiện thời đại, quốc tế v
v … do đó, tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc có thể diễn ra với những con
đường, hình thức và bước đi khác nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú trong sự phát
triển của nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái
kinh tế - xã hội bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay vài hình thái KT-XH
nhất định, sự bỏ qua này cũng tuân thủ quy luật, tuân thủ điều kiện chủ quan và điều kiện

khách quan.
Kết luận: nếu chúng ta quy các quan hệ xã hội vào các quan hệ sản xuất rồi đem
quy các quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì sẽ thấy được
sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
2. Vai trò phương pháp luận của lý luận
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời là một cuộc cách mạng trong toàn bộ
quan niệm về lịch sử xã hội. Đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu
thực sự khoa học.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. C.Mác đã nhìn thấy động lực của lịch sử
không phải do một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào, mà chính là hoạt động sản xuất của
cải vật chất của con người dưới sự tác động của quy luật khách quan. Đã khắc phục được
quan điểm duy tâm, trừu tượng, vô căn cứ về xã hội.
Học thuyết chỉ ra xã hội là một kết cấu vật chất đặc biệt, một cơ thể sống sinh động
và hoàn chỉnh, bao gồm các mặt, các yếu tố, các mối liên hệ thống nhất, tác động qua lại
lẫn nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ
khác, đồng thời còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội và phân kỳ
lịch sử một cách khoa học.
Học thuyết khẳng định quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, nghĩa là theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý
muốn chủ quan của con người. Vì vậy, khi nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng xã hội nào,
từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần đều chỉ có thể hiểu đúng khi gắn với một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của nhân
loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử cụ thể mà có con đường phát triển riêng,
đặc thù. Điều đó cho thấy, để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi dân tộc
phải kết hợp chặt chẽ việc nghiên cứu những quy luật chung với việc nghiên cứu một
cách cụ thể điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc về điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hóa,
quan hệ quốc tế …

Câu 9. Phân tích con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.



1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN – sự vận dụng sáng tạo lý luận hính
thái kinh tế - xã hội vào điểu kiện cụ thể của Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, Đảng ta
khẳng định: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau – là quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng nước ta.
Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, mặc dù chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng và sụp đổ nhưng đó chỉ là mô
hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp chứa không phải chủ nghĩa xã hội với
tính cách là một xã hội cao hơn CNTB. CNTB mặc dù chưa hết vai trò lịch sử và đang
đạt nhiều thành tựu to lơn, nhất là khoa học và công nghệ, nhưng những thành tựu này,
đến lượt nó trở lại cái phủ định xã hội CNTB và thay thế nó bằng xã hội khác cao hơn –
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội là phù hợp với xu hướng thời đại.
Thứ hai, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân đã lựa chọn từ năm 1930, với thử thách thời gian, con đường đó dần dân
được thực hiện trên nước ta. Tuy mắc một số vấp váp, sai lầm nhưng con đường này
mang lại nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị - xã hội và trở thành cuộc sống hiện
thực của nhân dân ta. Do đó, đại đa số nhân dân ta vẫn tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội,
đấu tranh vì thắng lợi chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Mục tiêu chung xây dựng chủ ngĩa xã hội mà Đảng ta đề ra là “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Con đường đi lên: “con đường đi lên ở nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
QHSX và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.

2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ
tiến lên CNXH ở Việt Nam
Lý luận hình thái kinh tế - XH chỉ ra, mỗi hình thái KT-XH có một lực lượng sản
xuất của nó, hay nói cách khác, có một cơ sở vật chất-kỹ thuật của nó. Để có CNXH phải
có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc CM khoa học và công nghệ mang lại.
Song, nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ
công là chủ yếu, cái thiếu thốn của chúng ta là chưa có một nền đại công nghiệp. Vì vậy,
chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực chất của công nghiệp hóa
hiện đại hóa chính là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Công nghiệp hóa hiện
đại hóa ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nước ta trên cơ sở
phát huy năng lực nội sinh của đất nước cũng như xu thế quốc tế hóa kinh tế thế giới. đó
là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.
Trong công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phát triển mạnh mẽ một
nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phải coi phát triển khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu. điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế của thế giới ngày nay trong
xu thế hợp tác, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Chính vì vậy, đại hội đại biểu toàn quốc


lần thứ IX cuả Đảng ta đã đề ra: “con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta cần
và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những
lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được những trình độ công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng
nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của
người Việt Nam: coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hó hiện đại hóa.
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH là một trong những nhân tố có ý nghĩa
quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
3. Kết hợp giữa LLSX với xây dựng QHSX trong thời kỳ quá độ tiến lên
CNXH ở Việt Nam.

Trong khi khẳng định vai trò của LLSX, lý luận hình thái KT - XH còn chỉ ra, sự
phát triển của LLSX phải gắn liền với việc thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp. Trong sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định “Phát triển LLSX gắn liền với
QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Phù hợp với sự phát triển của LLSX ở nước ta, đảng ta chủ trương sử dụng “nhiều
hình thức sở hữa về TLSX, nhiều thành phần kinh tế”. Đồng thời thực hiện nhất quán lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự
phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã
hội và đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị trường là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN vừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát
triển của LLSX ở nước ta, với yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của CNXH nâng cao đời sống của nhân dân.
4. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH trong
thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
XH mà lý luận hình thái KT - XH đã chỉ ra, trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta,
gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phải
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vài trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nâng cao
vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQ.
Đồng thời, phải gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
và bồi dưỡng nhân tài, theo quan điểm của đảng ta, đó là quốc sách hàng đầu, giải quyết
các vấn đề XH, thực hiện công bằng và dân chủ trong đời sống XH.

Trong quá trình phát triển văn hóa, cần phải đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo
dục và đào tạo. Phải coi giáo dục và đào tạo cũng là quốc sách hàng đầu. Điều này vừa


phù hợp với xu thế phát triển hiện đại, lại vừa là đòi hỏi cấp bách của sự phát triển đất
nước.
Tóm lại: lý luận hình thái KT - XH là một lý luận khoa học. nó cho chúng ta một
quan niệm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống kt-xh, về sự
vận động và phát triển của XH. Với sự phát triển của khoa học và thực tiễn hiện nay, lý
luận đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đem lại một phương pháp luận thực sự khoa học để
phân tích các hiện tượng trong đời sống XH, để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp
đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Chương XI
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Câu 11. Hãy nêu một số quan điểm trước Mác về con người.
Con người là vấn đề trung tâm của mọi tư tưởng triết học. Nhưng không phải tư
tương triết học nào cũng có cách giải thích, giải quyết đúng đắn về vấn đề con người vì
mỗi hệ tư tưởng có cách nhìn nhận qua lăng kính khác nhau. Quan điểm trước Mác về
con người chúng ta có thể phân ra 2 hệ tư tưởng: Tư tưởng triết học phương Đông, Triết
học phương Tây
1. Quan điểm con người trong triết học phương Đông
Nội dung các quan điểm về con người rất đa dạng, song những vấn đề mà người
phương Đông tập trung đề cấp đến là những vấn đề thuộc nguồn gốc, bản tính của con
người, đạo làm người và mẫu hình con người lý tưởng. Trong tính đa dạng, phong phú
của các hệ tư tưởng, trước hết nói các quan điểm cảu Ấn Độ và Trung Quốc mà tiêu biểu
là các quan điểm của triết học Phật giáo, triết học Nho gia và Đạo gia
a. Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo
Thế giới tự tại, tự nhiều yếu tố trong đó có sắc và danh. Sắc, Danh hội tụ tạo nên
con người song bản chất của thế giới là vô thường nên những sự hội tụ giữa Sắc và Danh

cũng chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định. Điều này chứng tỏ không có cái tôi vĩnh
hằng.
Trong quá trình tồn tại, người nào cũng có trần tục và Phật tính.
Trần tục là tính Tham, Sân, Si; là Vô minh, Ái dục.
Phật tính là tính giác ngộ về cõi niết bàn, về cõi chân như.
Đây là quan điểm khác nhau cơ bản giữa con người và vạn vật. Với quan niệm này,
Phật giáo thừa nhận bản tính của con người vốn tự có cái ác và cái thiện.
Cũng trong quá trình tồn tại, cuộc đời con người do chính bản thân con người quyết
định qua quá trình tạo nghiệp. Tạo nghiệp thiện là con người từng bước xóa bỏ tham,
sân, si; từng bước xóa bỏ vô minh, loại trừ ái dục để trở thành người trong suốt về tâm
linh, không bị tác động bởi các cá dỗ của cuộc đời và sau khi chết thoát khỏi vòng luân
hồi, nghiệp báo. Tùy vào từng mức độ thấp, cao khác nhau mà con người đã đạt được
trong quá trình tạo nghiệp thiện mà họ được suy tôn là La hán, Bồ tát hay Phật.
Con đường tu luyện để trở thành La hán, Bồ tát hay Phật cũng được coi là đạo làm
người. Đấy là quá trình thực hiện hệ thống những yêu cấu mà giới, định, tuệ đã quy định.


b. Quan điểm về con người trong triết học Nho gia
Con người cũng như vạn vật chịu sự chi phối của mệnh trời, nhưng con người có
thể cải thiện nó thông qua hoạt động tu dưỡng mình trong cuộc sống. Hiểu mệnh trời,
sống theo mệnh trời và tu dưỡng mình là đạo làm người.
Đạo làm người được Nho gia cụ thể hóa trong thuyết chính danh. Theo thuyết này
tương ứng với từng danh, từng cặp danh là một hệ thống những nhu cầu mà con người
phải thực hiện. Những yêu cầu chung nhất và cũng là cơ bản nhất của danh “người”
(nhân) là ngũ thường, gồm nhân, nghĩa, trí, tín. Trong dó, nhân là gốc, lễ là phương tiện
để thực hiện và thể hiện nhân.
Sống chính danh và giúp người khác chính danh được coi là quân tử - mẫu người lý
tưởng mà tất cả các nhà Nho đều quan niệm rằng, cuộc sống của họ là cuộc sống tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ để giúp đời.
c. Quan điểm về con người trong triết học Đạo gia

Con người sinh ra từ Đạo, do vậy con người cần phải sống vô vi, theo lẽ tự nhiên,
thuần phác, không hành động một cách giả tạo, gò ép, trái với tự nhiên. Thực chất đây là
quan niệm duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
2. Quan điểm con người trong triết học phương Tây
a. Thời cổ đại
- Quan điểm duy vật: tiêu biểu thời kỳ này là Empêđôclơ, Lơxíp, Đêmôcrit.
Empêđôclơ: cho rằng nguồn gốc thế giới là “lửa, không khí, đất và nước”. Những
yếu tố này hòa hợp với nhau, trải qua bốn thời kỳ tiến hóa đã sinh ra sự sống. Mọi sự
sống đều có lý tính nhưng con người là sự sống có lý tính cao nhất, thông minh nhất và
đặt biệt con người có đôi tay để thực hiện lý tính của mình.
Lơxíp và Đêmôcrit: Quan niệm bản nguyên thế giới là nguyên tử nên các ông cũng
khẳng định con người là sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tử. Con người có linh hồn,
song linh hồn cũng do các nguyên tử tạo nên và một số yếu tố của linh hồn ấy là nhu cầu
và tưởng tượng đã dạy bảo bàn tay con người hoạt động để đưa con người từ mông muội
đến văn minh.
+ Quan điểm duy tâm: tiêu biểu thời kỳ này là Xôcrát và Platôn
Xôcrát: thế giới do thần tạo ra và thần đã an bài cho thế giới. Con người không nên
tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm tới thần. Con người hãy tìm hiểu về chính bản
thân mình.
Platôn: Cho rằng ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc của tất cả. Ý niệm tồn tại
vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm hai phần độc lập với nhau là thể xác và linh hồn.
thể xác được tạo thành từ đấ, nước, lửa và không khí nên có thể mất đi. Còn khi con
người chết, linh hồn thoát khỏi thể xác về với thế giới ý niệm của mình đến một lúc nào
đấy linh hồn lại nhập vào thể xác mới. Nhận thức con người l2 sự hồi tưởng lại những gì
ý niệm đã có.
Theo Platôn thì linh hồn là bất tử gồm lý tính, lý trí và tình cảm. Tương ứng với ba
bộ phận này là ba đẳng cấp người: các nhà triết học và các nhà cầm quyền – binh sĩ – dân
tự do. Nô lệ không phải là người mà chỉ là những công cụ biết nói nên không có linh hồn.



×