Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Sinh kế của người thái tái định cư thủy điện sơn la (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.94 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUANG LINH

SINH KẾ CỦA NGƢỜI THÁI TÁI ĐỊNH CƢ
THỦY ĐIỆN SƠN LA

Chuyên ngành: Nhân học
Mã số: 62.31.03.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại:
KHOA DÂN TỘC HỌC VÀ NHÂN HỌC
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh
2. TS. Đặng Thị Hoa

Phản biện 1: GS.TS. Hoàng Nam
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Duy Bính
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Văn Minh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp
Học viện, họp tại Học viện Khoa học xã hội, số 477 Nguyễn


Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi……giờ...…phút, ngày…..tháng….năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Trong những năm qua, cùng với tiến trình Đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập, Việt Nam đã và đang
đầu tư triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án trọng điểm quốc
gia, trong đó có nhà máy thủy điện Sơn La (TĐSL). Thuỷ điện Sơn La
là công trình thuỷ điện lớn nhất ở nước ta và là công trình thuỷ điện quy
mô hàng đầu ở Đông Nam Á. Để phục vụ cho việc xây dựng công trình,
hơn 20.000 hộ gia đình với hơn 90.000 nhân khẩu đã phải di dời, trong
đó trên địa bàn tỉnh Sơn La là 12.584 hộ gia đình, 58.337 nhân khẩu,
chiếm hơn 60% tổng số nhân khẩu phải di dời. Đặc biệt, trong số
90.000 người dân phải tái định cư (TĐC) TĐSL, người Thái chiếm hơn
80%. Số còn lại thuộc các tộc người Lào, Lự, Kháng, Khơ Mú, Dao …
Từ khi phải thực hiện TĐC, cuộc sống mưu sinh và đời sống của
nhiều người dân hoàn toàn thay đổi. Sinh kế của người dân vùng TĐC
thuỷ điện đang là vấn đề lớn đặt ra không chỉ riêng đối với tỉnh Sơn La mà
còn là một vấn đề lớn với Đảng và Chính phủ khi đất nước Việt Nam đang
có hàng chục công trình thuỷ điện lớn, vừa và nhỏ. Đời sống của người dân
TĐC về cơ bản sẽ bị ảnh hưởng đáng kể khi sinh kế truyền thống đã có sự

thay đổi, các nguồn hỗ trợ sinh hoạt, sản xuất không thể kéo dài và rất cần
tới những nghiên cứu cơ bản, cụ thể về bảo đảm sinh kế bền vững (SKBV)
đối với vùng người dân TĐC nói chung, người Thái TĐC ở tỉnh Sơn La
nói riêng.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu sinh đã chọn Sinh kế của
người Thái tái định cư thủy điện Sơn La làm đề tài nghiên cứu của
luận án tiến sĩ Nhân học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích
Tìm hiểu sinh kế của người Thái TĐC TĐSL trên địa bàn tỉnh Sơn


2
La. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
TĐC, giúp người dân TĐC có cuộc sống ổn định, ngày càng bền vững và
tốt đẹp hơn.
- Nhiệm vụ cụ thể
+ Xác định các nguồn vốn ảnh hưởng đến sinh kế của người Thái
TĐC và tìm hiểu sự thay đổi của nguồn vốn này so với nơi ở cũ.
+ Tìm hiểu hoạt động sinh kế của Thái tại nơi TĐC, so sánh sự
thay đổi trong hoạt động sinh kế hiện nay so với trước khi TĐC.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm ổn định sinh kế của người Thái TĐC
trên địa bàn tỉnh Sơn La theo hướng phát triển bền vững.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sinh kế của cộng đồng người
Thái phải di dời TĐC để phục vụ công cuộc xây dựng dự án TĐSL trên
địa bàn tỉnh Sơn La.
Luận án đi sâu nghiên cứu sinh kế và những yếu tố liên quan đến
sinh kế của những người Thái TĐC kể từ khi họ di chuyển đến nơi ở
mới. Địa bàn nghiên cứu chủ yếu là các điểm, khu TĐC thuộc huyện

Quỳnh Nhai và huyện Mộc Châu của tỉnh Sơn La.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được trình bày và biện giải trên quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quan
điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách dân tộc, chính sách TĐC dành
cho dự án TĐSL. Luận án đồng thời dựa trên quan điểm phát triển bền
vững và sinh kế bền vững.
Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận án là điền
dã dân tộc học với các công cụ, thao tác cụ thể như quan sát tham dự,
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, chụp ảnh... Ngoài ra, luận án còn sử
dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp, tham khảo ý kiến chuyên
gia để khai thác, thu thập các tài liệu và củng cố thêm các luận cứ phân
tích của tác giả luận án.


3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống,
chuyên sâu dưới góc độ Nhân học về sinh kế của người Thái TĐC
TĐSL, đưa ra cái nhìn đa chiều về sinh kế của người dân. Trên cơ sở
kết quả khảo sát thực địa, luận án đã phân tích làm rõ những thuận lợi
về sinh kế của người Thái TĐC với sự hỗ trợ của Nhà nước và tỉnh Sơn
La giúp cho người dân dần thích nghi với những biến đổi, ổn định cuộc
sống tại nơi ở mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án đã xây dựng được khung phân tích về sinh kế đối với
người Thái TĐC TĐSL. Cung cấp một cách có hệ thống cơ sở khoa học
cho nghiên cứu về sinh kế ở vùng người Thái TĐC. Kết quả nghiên cứu
của luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách để
đưa ra những chính sách phù hợp nâng cao đời sống của người dân

TĐC và bài học cho việc thực hiện các dự án sau này.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận, thông
tin về địa bàn nghiên cứu.
Chương 2: Các nguồn vốn sinh kế của người Thái tái định cư.
Chương 3: Hoạt động sinh kế của người Thái tái định cư.
Chương 4: Một số vấn đề phát triển sinh kế bền vững cho người
Thái tái định cư.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN,
THÔNG TIN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu


4
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về sinh kế trên thế giới và
trong nước
- Nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, nghiên cứu về TĐC và sinh kế đã được quan tâm từ
khá lâu. Những nghiên cứu ban đầu được giới thiệu từ những năm 80
của thế kỷ XX. Đến nay, khái niệm SKBV và khung phân tích SKBV
đã được nhiều tổ chức, cá nhân đưa ra. Mỗi nghiên cứu đưa ra những lý
thuyết về mô hình sinh kế bền vững khác nhau. Trong nghiên cứu này,
tác giả luận án đặc biệt quan tâm đến khung SKBV của Bộ Phát triển
Quốc tế Anh (Department for International Development - DFID) dựa
trên năm nguồn vốn gồm vốn tự nhiên, vốn con người, vốn xã hội, vốn
vật chất và vốn tài chính .
- Nghiên cứu trong nước

Số lượng các nghiên cứu tại Việt Nam về sinh kế rất lớn. Các công
trình này nghiên cứu sinh kế dưới góc độ lý luận, tìm hiểu các nguồn
vốn trong sinh kế và khung lý thuyết để phân tích vấn đề sinh kế nhằm
hướng tới mục tiêu SKBV.
Bên cạnh các nghiên cứu tổng quan, lý thuyết về sinh kế, có khá
nhiều nghiên cứu chuyên sâu về sinh kế của các tộc người thiểu số ở
Việt Nam. Những nghiên cứu này chủ yếu đi theo hướng mô tả sinh kế
của người dân các tộc người thiểu số và tìm hiểu, so sánh sự thay đổi
của những hoạt động sinh kế này với sinh kế truyền thống.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về tái định cư thủy điện,
sinh kế của người Thái và sinh kế của người Thái tái định cư thủy
điện Sơn La
- Nghiên cứu về tái định cư trên thế giới và ở Việt Nam
Đã có rất nhiều hội thảo quốc tế, các công trình nghiên cứu lớn của
các tổ chức quốc tế về TĐC và TĐC thủy điện. Một số công trình
nghiên cứu tương đối toàn diện về tác động của đập thủy điện tới người


5
dân, môi trường, nền kinh tế, hệ sinh thái... đồng thời nêu lên những
chính sách của các tổ chức quốc tế dành cho người dân TĐC bị ảnh
hưởng bởi việc xây đập. Nhiều vấn đề đặt ra từ các kết quả nghiên cứu
về TĐC các công trình thủy điện như các vấn đề liên quan đến kinh tế,
an ninh, chính trị, xã hội, môi trường...
Công trình nghiên cứu ở Việt Nam về TĐC và TĐC thủy điện có
khá nhiều. Nhiều công trình nghiên cứu TĐC thủy điện dưới các góc
nhìn khác nhau như Dân tộc học, Xã hội học, Văn hóa học, Kinh tế học,
Môi trường học…
- Nghiên cứu về sinh kế của người Thái và sinh kế của người Thái
tái định cư thủy điện Sơn La

Nhiều công trình khoa học (đề tài, tạp chí, báo cáo…) đã nghiên
cứu về người Thái TĐC kể từ khi người dân bắt đầu TĐC tại điểm TĐC
mẫu Tân Lập năm 2003.
Qua tổng quan tài liệu, có thể nhận thấy rằng, các nghiên cứu về di
dân, TĐC của các công trình thủy điện khá nhiều. Các nghiên cứu về
sinh kế và sinh kế tộc người cũng đã được các nhà khoa học quan tâm
từ những góc nhìn chuyên ngành khác nhau. Tuy nhiên, chưa có bất kỳ
một nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu toàn diện về sinh kế của
người Thái TĐC vùng lòng hồ TĐSL.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
Luận án đã làm rõ một số khái niệm như: Di dân, tái định cư, tái
định cư thủy điện, tái định cư di vén, sinh kế, chiến lược sinh kế, sinh kế
bền vững...
Trên cơ sở đó, luận án đã chia người dân TĐC thành ba hình thức
TĐC đô thị, TĐC nông thôn ven lòng hồ và TĐC nông thôn ngoài lòng hồ.


6
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
Luận án sử dụng Lý thuyết biến đổi văn hóa và Khung SKBV của
DFID trong quá trình nghiên cứu sinh kế của người Thái TĐC TĐSL ở
tỉnh Sơn La.
1.3. Thông tin chung về dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La
Dự án di dân, TĐC TĐSL trên địa bàn tỉnh Sơn La được thực hiện
từ năm 2003 với 70 khu, 274 điểm tại 8 huyện, thành phố trực thuộc
tỉnh. Quá trình di dân, TĐC diễn ra liên tục từ năm 2003 đến năm 2010,
chia thành 3 giai đoạn chính: Giai đoạn di dời chuẩn bị xây dựng nhà
máy năm 2003, Giai đoạn chuẩn bị ngăn sông đợt 1 năm 2005 và Giai
đoạn đến khi nhà máy tích đầy nước (tháng 4/2010).

Tác giả luận án đã lựa chọn 9 điểm TĐC trên địa bàn hai huyện
Quỳnh Nhai (6 điểm) và Mộc Châu (3 điểm) để nghiên cứu. 9 điểm
TĐC này đáp ứng đầy đủ các loại hình theo nhiều cách thức phân loại
khác nhau.
Tiểu kết chƣơng 1
TĐSL là công trình thủy điện lớn nhất ở Việt Nam với số lượng di
dân lên tới hơn 90.000 người và quá trình di dân, TĐC kéo dài từ năm
2003 đến năm 2010. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về TĐSL cũng
như cuộc sống của người dân TĐC TĐSL.
Hiện nay, có nhiều cách phân loại các hình thức TĐC như dựa vào
tính chất TĐC, dựa vào địa bàn nơi đến TĐC, dựa vào hình thức cư trú
tại nơi TĐC… và các cách phân chia này lại có thể lồng ghép với nhau
tạo thành những tiểu loại hình TĐC nhỏ hơn. Bên cạnh đó, có một hình
thức TĐC đặc trưng gắn liền với các dự án thủy điện, đó là TĐC di vén
tức mực nước lên đến đâu thì người dân di chuyển lên cao đến đó.
Trong khuôn khổ luận án, với cách tiếp cận Nhân học gắn với nghiên
cứu về sinh kế của người dân TĐC, tác giả luận án chia người dân TĐC
thành ba hình thức chính: TĐC đô thị, TĐC nông thôn ven lòng hồ và
TĐC nông thôn ngoài lòng hồ.


7
Luận án sử dụng khung phân tích SKBV của DFID. Theo khung
sinh kế này, để giảm nghèo và đảm bảo sinh kế của mình, người dân cần
dựa vào 5 nguồn vốn mà họ đang sở hữu gồm: vốn tự nhiên, vốn con
người, vốn xã hội, vốn vật chất và vốn tài chính.
Với DATĐSL, riêng tỉnh Sơn La có 12.584 hộ gia đình với 54.338
nhân khẩu phải TĐC. Người dân được bố trí TĐC tại 70 khu TĐC, 274
điểm trải rộng trên địa bàn 8 huyện, thành phố. Trong khuôn khổ luận
án, tác giả đã lựa chọn 9 điểm TĐC thuộc hai huyện Quỳnh Nhai và

Mộc Châu để triển khai nghiên cứu. Quỳnh Nhai là huyện bị ảnh hưởng
nặng nề nhất do TĐSL, có số dân phải di dời TĐC chiếm 40% số dân
toàn dự án. Mộc Châu là huyện có điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời
tiết…) khác biệt hẳn so với nơi người dân đã di dời, đồng thời cũng là
huyện có điểm TĐC mẫu Tân Lập - là nơi người dân đến TĐC sớm
nhất, cũng là nơi rút ra được những bài học kinh nghiệm cho công tác
TĐC TĐSL.
CHƢƠNG 2
CÁC NGUỒN VỐN SINH KẾ
CỦA NGƢỜI THÁI TÁI ĐỊNH CƢ
2.1. Vốn tự nhiên
2.1.1. Thời tiết, khí hậu
Phần lớn các hộ gia đình TĐC được sắp xếp ngay tại huyện cũ
hoặc các huyện liền kề, do đó, khí hậu, thổ nhưỡng, thực vật… của nơi
đi và nơi đến có nhiều đặc điểm tương đồng. Duy chỉ có một số hộ gia
đình hiện đang TĐC tại huyện Mộc Châu (có khí hậu cao nguyên, lạnh
quanh năm) là chịu tác động mạnh mẽ của sự thay đổi của khí hậu, thời
tiết. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm sinh sống, hiện nay người dân TĐC tại
huyện Mộc Châu cũng đã thích nghi với môi trường sống mới.
2.1.2. Tài nguyên đất
Toàn bộ diện tích bị ngập bởi TĐSL là 25.101 ha, trong đó 9.077


8
ha là đất sản xuất nông nghiệp, 538 ha đất ở. Bình quân mỗi hộ dân bị
mất khoảng 1,99 ha đất (trong đó 0,04 ha đất ở).
- Đất ở và đất thổ cư
Người dân TĐC khu vực nông thôn được cấp 400 m2 đất thổ cư.
Trong khi đó, con số này đối với người dân TĐC đô thị là 100 - 200 m2
(nếu ở mặt đường) và khoảng 400m2 nếu đất ở sâu phía trong.

- Đất sản xuất
Người dân TĐC đô thị không được giao đất sản xuất. Dựa trên
diện tích đất thu hồi được thực tế, người dân TĐC nông thôn được giao
1,54 ha đất nông nghiệp. Khoảng 2.400 hộ dân được giao đất lâm
nghiệp, bình quân đạt 3,05 ha/hộ. Tuy nhiên, theo người dân phản ánh
và cán bộ ban quản lý thừa nhận, diện tích đất nông nghiệp chỉ là con số
trên đo vẽ. Thực tế, có những diện tích đất người dân được giao hoàn
toàn không thể sử dụng như đất núi đá, đất có độ dốc lớn… Chất
lượng đất hiện nay cũng kém hơn so với trước kia. Do đó, đa số
người dân đánh giá diện tích đất sản xuất hiện tại kém hơn trước khi
TĐC khá nhiều.
2.1.3. Nguồn nước
Trừ người dân TĐC ven lòng hồ có sự thuận lợi về nguồn nước,
còn người dân TĐC đô thị và người dân TĐC ngoài lòng hồ gặp bất lợi
về nguồn nước so với nơi ở cũ do sinh sống xa sông, suối.
2.2. Vốn con ngƣời
2.2.1. Học vấn và đào tạo nghề
Sau khi TĐC, trình độ học vấn của người dân đã có những thay đổi
theo chiều hướng tích cực. Tỷ lệ người có trình độ học vấn từ THPT trở
lên khá lớn. Trình độ học vấn cao đồng nghĩa với khả năng học hỏi, tiếp
thu những kiến thức mới của người dân cũng tăng lên. Bên cạnh đó,
người dân còn được tham gia dự án đào tạo nghề.


9
2.2.2. Y tế, chăm sóc sức khỏe
Trong khuôn khổ dự án, tất cả các hộ gia đình TĐC đều được xây
cụm công trình bể nước, nhà vệ sinh, nhà tắm. Tỷ lệ hộ gia đình sử
dụng nhà tắm tăng mạnh. Tỷ lệ dùng hố xí tự hoại ở hộ gia đình TĐC
tăng gần 4 lần so với trước khi TĐC. Sức khỏe của người dân hiện nay

tốt hơn và được chăm sóc chu đáo hơn so với trước.
2.2.3. Đời sống tinh thần, cơ hội tiếp cận thông tin
Hiện nay do có điện lưới, đường giao thông thuận lợi, ti vi, có sóng
điện thoại… nên đời sống tinh thần của người dân TĐC đã trở nên
phong phú hơn. Việc tiếp cận, trao đổi thông tin và các kiến thức sản
xuất, phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ xã hội, văn hóa cũng dễ dàng
hơn trước.
2.3. Vốn xã hội
2.3.1. Quan hệ cộng đồng
Mối quan hệ cộng đồng giữa những người Thái TĐC hiện nay khá
ổn định và tốt đẹp do người Thái là tộc người bản tính hiền lành, chân
thật, có truyền thống cố kết đồng tộc bền chặt từ lâu đời. Quan hệ đó
được gìn giữ, phát huy khi người dân giúp đỡ nhau làm nhà, hỗ trợ nhau
khi khó khăn, chia sẻ kinh nghiệm gieo trồng, sản xuất, chăn nuôi trong
quá trình TĐC. Đa số những người dân được phỏng vấn đều cảm thấy
tin tưởng vào mối quan hệ cộng đồng tốt đẹp hiện tại và tương lai. Tuy
nhiên, tại một số điểm TĐC ven lòng hồ, quan hệ trong một bộ phận
người dân có phần bị rạn nứt do những mâu thuẫn về đất đai chưa được
giải quyết dứt điểm.
2.3.2. Quan hệ gia đình, dòng họ
Tại một số nơi, gia đình, dòng họ bị cư trú phân tán bởi quá trình di
dân, TĐC khiến mối quan hệ thân tộc, anh em, họ hàng của người dân
TĐC ít nhiều giảm sút. Tuy nhiên, người Thái TĐC luôn có xu hướng
củng cố và gìn giữ những mối quan hệ này. Điều này thể hiện qua việc


10
người dân TĐC thường xuyên liên hệ với người thân của mình, quay trở
lại thăm gia đình, họ hàng tại nơi ở cũ…
2.3.3. Quan hệ tộc người

Tại một số điểm TĐC đã từng xuất hiện các mâu thuẫn giữa tộc
người Thái với người Hmông, người La Ha... do có sự khác biệt về văn
hóa hay liên quan đến đất đai. Tuy nhiên, những mâu thuẫn này không
đáng kể và dần giảm bớt theo thời gian ổn định đời sống của người dân.
2.3.4. Một số thay đổi về tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập
quán…
Trong quá trình di dân, một số nghi lễ, tập quán của người Thái
TĐC có phần mai một trong sinh hoạt gia đình, lễ hội hay các nghi lễ
chung của cộng đồng. Nguyên nhân chính là do họ phải thay đổi môi
trường văn hoá, các mối quan hệ cộng đồng. Mặt khác cũng có ảnh
hưởng từ các yếu tố hiện đại hoá và sự tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa của
người Kinh.
2.4. Vốn vật chất
2.4.1. Nhà ở, chuồng trại
Tại điểm TĐC, đa số người Thái vẫn lựa chọn gắn bó với ngôi nhà
sàn truyền thống. Tuy nhiên, nếu như trước đây ngôi nhà của người dân
còn “đơn sơ” thì nay tại nơi ở mới rất nhiều ngôi nhà được đầu tư tu
sửa, xây dựng mới với số tiền lên đến hàng trăm triệu đồng. Chuồng trại
chăn nuôi gia cầm, gia súc được người dân xây xa nhà để đảm bảo vệ
sinh môi trường.
2.4.2. Trang thiết bị và tiện nghi sinh hoạt
Đến nơi ở mới, hầu như số lượng tài sản và tiện nghi sinh hoạt có
giá trị trong gia đình người dân TĐC đều tăng lên so với trước đây. Xe
máy, điện thoại trở thành phương tiện đi lại và liên lạc không thể thiếu.
Số lượng các tài sản phục vụ sản xuất tăng lên chính là tiền đề cho
việc nâng cao hiệu quả trong triển khai các hoạt động sinh kế của
người Thái TĐC.


11

2.4.3. Các công trình cơ sở hạ tầng
Nhờ có dự án TĐC, hiện nay đường giao thông tới các điểm TĐC
đã tốt hơn rất nhiều. Hệ thống điện lưới, trường học, thủy lợi, chợ…
cũng được hoàn thiện để phục vụ người dân TĐC. 100% hộ gia đình tại
các điểm nghiên cứu được dùng điện và nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
2.5. Vốn tài chính
Với người Thái TĐC TĐSL, nguồn lực tài chính thể hiện chủ yếu
qua nguồn tiền đền bù và cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay. Đa số các
hộ gia đình nhận được tiền đền bù khá lớn, phổ biến ở mức 100 - 300
triệu đồng. Cá biệt có những hộ nhận số tiền đền bù có thể lên đến 1 - 2
tỷ đồng. Số tiền này góp phần quan trọng giúp cho người dân TĐC ổn
định đời sống và là nguồn lực tài chính để người dân phát triển nếu biết
đầu tư hợp lý.
Tiểu kết chƣơng 2
Các hộ gia đình người Thái TĐC đã nhận được sự hỗ trợ và đền bù
đáng kể của Nhà nước. Cơ sở hạ tầng chính là điểm nhấn của dự án
TĐC TĐSL và là tiền đề để phục vụ các hoạt động mưu sinh của người
dân TĐC. Tính bình quân, người dân TĐC khi di chuyển tới nơi ở mới
về cơ bản được cấp diện tích đất sản xuất đủ để đảm bảo lương thực của
gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế diện tích đất sản xuất mà các hộ dân
TĐC nhận được thấp hơn so với thực tế vì khi chia chủ yếu dựa trên bản
đồ đo vẽ. Chất lượng đất được giao cũng không được như nơi ở cũ,
thường là đất có độ dốc cao hoặc đất không quá màu mỡ, hoặc nhiều sỏi
đá… Việc phân chia đất rừng không đều tại các điểm TĐC cũng khiến
những bản TĐC không có rừng cảm thấy không hài lòng. Nguồn lợi từ
khai thác đất từ rừng không còn dẫn tới những thiếu hụt trong đời sống
thường ngày của người Thái so với ở quê cũ. Mâu thuẫn đất đai đang là
một trong những vấn đề lớn nhất ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển
sản xuất cũng như sinh kế của người dân TĐC.



12
Vốn con người của người dân TĐC tăng lên so với trước. Trình độ
học vấn của người dân dần được nâng cao. Sức khỏe của người dân
được đảm bảo hơn. Việc dễ dàng tiếp cận với các nguồn thông tin khiến
người dân có điều kiện thuận lợi hơn trước đây để áp dụng những tri
thức mới vào sản xuất. Vốn xã hội tại hầu hết các điểm TĐC vẫn được
đảm bảo.
Các hộ gia đình TĐC đều được đền bù, hỗ trợ số tiền lên tới vài
trăm triệu đồng và đã biết sử dụng số tiền này để đầu tư phát triển sản
xuất một cách hợp lý, giúp cho họ từng bước cải thiện được sinh kế
cũng như giảm bớt được những thiệt thòi khi phải di dời khỏi nơi ở cũ.
CHƢƠNG 3
HOẠT ĐỘNG SINH KẾ CỦA NGƢỜI THÁI TÁI ĐỊNH CƢ
3.1. Hoạt động trồng trọt
3.1.1. Canh tác ruộng nước
Canh tác ruộng nước của người Thái TĐC giảm mạnh so với ở quê
cũ do diện tích ruộng còn ít hoặc không được cấp bù tại các điểm TĐC.
Với người dân TĐC ven lòng hồ, họ đang cố gắng tận dụng vùng đất
bán ngập để trồng lúa. Với người dân TĐC ngoài lòng hồ, họ cố gắng
tận dụng nguồn nước để làm ruộng nhưng rất khó khăn. Năng suất lúa
chỉ ngang bằng so với trước khi TĐC.
3.1.2. Canh tác nương rẫy
Sau khi TĐC, việc trồng trọt nương rẫy của người dân cũng có
nhiều thay đổi. Người dân TĐC ven lòng hồ hay TĐC ngoài lòng hồ
đều đang dần chuyển sang trồng những giống lương thực mới có tính
hàng hoá như ngô lai, sắn cao sản. Bông, dâu tằm, đậu tương, lạc...
được trồng với diện tích không đáng kể. Đa số các hộ gia đình đang có
xu hướng chuyển từ trồng trọt sang chăn nuôi, nhiều hộ gia đình dành
toàn bộ diện tích đất của mình chỉ để trồng ngô và cỏ phục vụ nuôi bò,

dê hay nuôi cá. Ở một số điểm TĐC ngoài lòng hồ, người dân trồng


13
những cây công nghiệp, cây ăn quả mới như chè, chanh leo, mận...Hiện
nay, tỉnh Sơn La đang có chính sách trồng cây cao su nên hầu như tất cả
các hộ gia đình TĐC đều góp đất của mình để trồng cao su. Tuy nhiên,
mới chỉ có một số điểm TĐC ở huyện Mường La đã khai thác được, còn
lại ở đa số các điểm TĐC cây cao su đều chưa thể khai thác.
3.1.3. Hoạt động trồng rau
Theo phương thức canh tác truyền thống, người Thái thường trồng
rau ở các mảnh vườn xung quanh nhà và ven sông, suối nhằm phục vụ
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Tại nơi ở mới, diện tích đất trồng rau bị
thu hẹp, nhưng người Thái TĐC đã có hoạt động canh tác hiện đại
hơn, không chỉ đáp ứng nhu cầu mà còn trở thành hàng hóa để tăng
thêm thu nhập.
3.2. Hoạt động chăn nuôi
3.2.1. Chăn nuôi gia súc
Trước TĐC người Thái chủ yếu chăn nuôi trâu, bò theo lối thả
rông và nhốt dưới gầm nhà. Hiện nay, việc chăn nuôi của người dân đã
có nhiều thay đổi. Trâu, bò được nuôi nhốt trong chuồng cách nhà 3 5m. Số lượng trâu không thay đổi nhưng số lượng bò tăng gấp đôi so
với trước đây. Nuôi bò thịt đang là loại hình chăn nuôi khá phát triển.
Nuôi lợn giống mới cũng đang là một trong những hoạt động được
người Thái TĐC quan tâm và mở rộng trong vài năm trở lại đây. Số
lượng lợn nuôi hiện nay gấp 1,5 lần so với khi còn ở quê cũ. Ngoài ra,
người dân còn nuôi dê, ngựa nhưng số lượng hạn chế.
3.2.2. Chăn nuôi gia cầm
Đối với người Thái, trong một năm họ thực hành khá nhiều nghi lễ
cầu cúng, trong đó nghi lễ nào cũng đòi hỏi phải có gà làm lễ vật. Bên
cạnh đó, trong các đám ma, đám cưới, nghi lễ lên nhà mới, người dân

chủ yếu mổ gà, mổ vịt. Vì thế chăn nuôi gia cầm tại nơi TĐC là hoạt
động không thể thiếu. Tuy nhiên, đa số người dân nuôi gia cầm với số


14
lượng vừa phải và chủ yếu phục vụ các nhu cầu thường ngày trong gia
đình chứ chưa bán nhiều.
3.2.3. Nuôi thủy sản
Do nguồn nước và diện tích đất tại nơi TĐC rất ít nên người Thái
TĐC hầu như không còn đào ao nuôi cá như trước đây. Đối với người
dân TĐC ven lòng hồ, tận dụng lợi thế sống ven sông Đà, trong khoảng
5 năm trở lại đây người dân đang phát triển mạnh mô hình nuôi cá lồng
(cá rô, cá trắm, cá tầm...). Hiện số lượng lồng cá của người dân TĐC
trên địa bàn tỉnh Sơn La là 579 lồng với 249 hộ gia đình tham gia.
Nhiều hợp tác xã nuôi cá đã được hình thành tại các điểm TĐC, góp
phần cải thiện sinh kế cho các hộ gia đình.
3.3. Các nghề thủ công
Hiện nay, các nghề thủ công truyền thống của người Thái TĐC
đang dần bị mai một. Chỉ một số ít người dân vẫn còn gắn bó với nghề
dệt nhằm bảo tồn văn hóa truyền thống và nghề mộc để phục vụ đóng
thuyền ven sông. Các nghề khác rất ít người làm.
3.4. Trao đổi hàng hóa và dịch vụ
Trước khi TĐC, người Thái vùng lòng hồ vẫn chủ yếu dựa trên nền
tảng kinh tế tự cung tự cấp. Ngày nay, khi kinh tế thị trường trong vùng
đã khá phát triển, nhu cầu mua bán và họp chợ của người dân ở địa
phương cũng ngày càng tăng cao. Thay cho vay mượn trước đây, việc
mua bán trong cộng đồng người Thái TĐC ở các thôn bản bắt đầu được
mở rộng. Tại tất cả các điểm TĐC đều có hộ gia đình mở cửa hàng tạp
hóa, buôn bán nhỏ.
3.5. Khai thác các nguồn lợi tự nhiên

Diện tích và chất lượng của tài nguyên rừng, ao, hồ, sông, suối tại
nơi TĐC đều suy giảm, trong khi dân số ngày càng tăng, nên sản phẩm
thu được từ việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên của người dân TĐC
hiện nay giảm đi đáng kể so với trước.


15
3.6. Các hoạt động sinh kế khác
Cùng với công cuộc TĐC thay đổi chỗ ở thì nhiều hoạt động sinh
kế mới cũng xuất hiện thích ứng với điều kiện tự nhiên mới như làm
công nhân cho các công ty cao su, công ty chè... Với người dân sống ở
các điểm TĐC đô thị, nhiều người có nguồn thu từ lương, trợ cấp và đặc
biệt có nhiều hộ gia đình đã chuyển sang kinh doanh, dịch vụ như đi
chợ, làm photocopy, bán quán ăn, mở cửa hiệu… Bên cạnh đó, không ít
người dân đi làm thuê, bốc vác, xúc cát… Hiện người dân TĐC cũng
bắt đầu xuất hiện hình thức đi làm ăn xa, làm công nhân tại các nhà
máy ở ngoài tỉnh Sơn La.
3.7. Kết quả sinh kế tại nơi tái định cƣ
Kể từ khi TĐC, cuộc sống của người Thái TĐC đã thay đổi rõ nét.
Thu nhập của người dân TĐC đã tăng lên, gấp 4 lần nếu tính theo con
số thống kê thu nhập đơn thuần, gấp 1,5 lần nếu tính theo giá lạm phát
so với trước đây. Tuy nhiên, có sự chênh lệch về thu nhập giữa 8 huyện,
thành phố TĐC. Khu vực TĐC đô thị có thu nhập cao hơn khu vực
TĐC nông thôn. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 42 % xuống còn 18 %. Sự
phân hóa giàu nghèo rõ rệt. Những người dân có khả năng thích nghi
với nơi ở mới sớm phát triển kinh tế, trong khi những người dân còn lại
(đặc biệt là những người dễ bị tổn thương) gần như dậm chân tại chỗ
sau khi TĐC. Đa phần người dân được hỏi đều đánh giá cuộc sống hiện
nay đỡ vất vả hơn, tốt hơn trước nhiều do đường sá đi lại thuận tiện, con
cái đi học thuận lợi, gia đình có đầy đủ tiện nghi hơn…

Tiểu kết chƣơng 3
Hoạt động sinh kế của người dân TĐC đang có sự thay đổi rõ nét. Với
mỗi loại hình TĐC khác nhau lại có những đặc trưng sinh kế khác nhau.
Trong hoạt động trồng trọt người Thái hiện nay đã thay đổi giống cây
trồng theo hướng đa dạng hơn, phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ
nhưỡng, khí hậu… của nơi TĐC. Đa phần người dân ở các điểm TĐC


16
đã chuyển sang trồng các loại cây như sắn cao sản, ngô, lúa nương, chè,
cao su…
Cách thức chăn nuôi và các giống vật nuôi của người Thái TĐC đã
có nhiều thay đổi, chủ yếu chuyển sang nuôi nhốt trong nhà, đặc biệt
với các loại gia súc như trâu, bò. Nhiều giống vật nuôi mới đang được
người dân thay thế cho các giống cũ. Mô hình khai thác thủy sản và
nuôi cá lồng hiện đang phát triển mạnh ở người Thái TĐC ven lòng hồ
và đem lại hiệu quả cao.
Các ngành nghề thủ công truyền thống của người Thái đang ngày
càng mai một do không còn phù hợp với bối cảnh cuộc sống mới ở nơi
TĐC. Nhiều hoạt động sinh kế đã lần đầu xuất hiện trong cộng đồng
người Thái TĐC như làm thuê, làm công nhân, làm dịch vụ (may mặc,
photo, gội đầu)…
Cho đến nay, sau 10 năm ổn định và phát triển sản xuất tại các
điểm TĐC, cuộc sống của đa phần người dân đã tốt hơn so với trước khi
TĐC. Tuy nhiên, sự phân hóa thể hiện rõ nét giữa các hộ gia đình
TĐC, một bộ phận hộ gia đình trở nên khá giả nhưng cũng còn một bộ
phận hộ gia đình đang gặp nhiều khó khăn trong đảm bảo sinh kế và an
ninh lương thực. Vấn đề hậu TĐC đặt ra hết sức quan trọng trong định
hướng phát triển một cách bền vững ở vùng TĐC TĐSL hiện nay.
CHƢƠNG 4

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN SINH KẾ BỀN VỮNG
CHO NGƢỜI THÁI TÁI ĐỊNH CƢ
4.1. Những vấn đề sinh kế đặt ra trong công tác di dân, tái định
cƣ, ổn định đời sống của ngƣời dân tái định cƣ
4.1.1. Những điểm tích cực của dự án đối với sinh kế của người
Thái tái định cư
Ban quản lý dự án đã có những rút kinh nghiệm kịp thời, điều
chỉnh lại các quy hoạch cũng như các khoản đền bù hỗ trợ cho các hộ


17
gia đình TĐC. Nhờ những mô hình thử nghiệm ban đầu tại huyện Mộc
Châu, các phương án di dân và hỗ trợ người dân TĐC đã đáp ứng kịp
thời được nhu cầu của người dân.
Đời sống văn hóa của người dân vùng TĐC được giữ gìn, phát huy
và nâng cao, bảo tồn các giá trị văn hoá tộc người, đồng thời tăng cường
sự giao lưu, phát triển vốn văn hoá và vốn con người cho người dân TĐC.
Chính phủ đã ban hành các chính sách linh hoạt, phù hợp với từng
giai đoạn nhằm ổn định cuộc sống của người dân
4.1.2. Những điểm chưa phù hợp trong quá trình thực hiện dự
án ảnh hưởng đến sinh kế của người dân tái định cư
Theo đánh giá của người dân và cán bộ cơ sở, nhiều điểm quy
hoạch TĐC của dự án chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tiễn. Ở
một số địa phương, công tác quy hoạch đất cho người dân TĐC còn
nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, một số người dân chưa thực sự thoả mãn
với các điều kiện hỗ trợ sản xuất và ổn định đời sống.
Đặc biệt, công tác quản lý như đền bù và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất còn chậm và kéo dài, gây ra mâu thuẫn, tranh chấp
trong cộng đồng. Một số công trình hạ tầng cơ sở đầu tư dang dở hoặc
chậm tiến độ thi công, gây nhiều khó khăn trong đời sống của người

dân TĐC. Một số công trình xuống cấp, chất lượng công trình thấp gây
mất lòng tin đối với người dân TĐC.
Tại một số điểm TĐC, chính quyền cơ sở và người dân chưa linh
hoạt trong chuyển đổi cây trồng, vật nuôi. Năng lực cán bộ chưa đáp
ứng được yêu cầu về công tác đền bù và tổ chức TĐC.
4.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng cuộc sống và đảm bảo sinh
kế bền vững cho ngƣời Thái tái định cƣ

4.2.1. Nhóm giải pháp trực tiếp nâng cao chất lượng năm nguồn vốn
- Giải pháp về vốn tự nhiên
+ Nhà nước đầu tư cải tạo các loại đất hoang, đất bạc màu, đất


18
trống đồi núi trọc… vẫn còn trong vùng thành đất sản xuất nông nghiệp
sau đó giao lại cho các hộ gia đình còn thiếu đất sản xuất.
+ Cho phép người dân TĐC ven lòng hồ được khai thác, sử dụng
vùng đất bán ngập của lòng hồ TĐSL để mở rộng sản xuất.
+ Cần quy hoạch và cắm mốc lại các loại đất rừng và giao cho
người dân để người dân có thêm đất sản xuất phù hợp với quỹ đất thực
tế tại địa phương.
+ Thực hiện linh hoạt chính sách chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất
trong các điểm TĐC, nhất là ở những vùng trồng cao su không đạt hiệu
quả trong khi người dân thiếu đất trồng cây lương thực.
- Giải pháp về vốn con người
+ Tập huấn nâng cao năng lực cho người dân TĐC và chuyển giao
công nghệ.
+ Mở các lớp học, cử người về các điểm TĐC hướng dẫn kỹ càng
cho người dân về các kiến thức, kỹ thuận trồng trọt, chăn nuôi mới. Mở
các lớp bồi dưỡng, tập huấn và truyền nghề cho người dân TĐC để nâng

cao kiến thức, kỹ năng sản xuất, quản lý nguồn vốn của hộ gia đình.
+ Đối với hộ gia đình TĐC đô thị, chăn nuôi quy mô hộ gia đình vẫn
là một hướng sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế, giúp giải quyết việc làm
và tăng thu nhập của người dân. Các cơ quan chuyên môn cần hướng dẫn
kỹ thuật giúp các hộ gia đình chọn giống vật nuôi, xây dựng chuồng
trại… phù hợp với điều kiện của điểm TĐC và của hộ gia đình.
+ Hỗ trợ đào tạo nghề để người dân TĐC có thể vào các công ty
làm công nhân hoặc đi xuất khẩu lao động. Đây là hướng đi trong tương
lai để giải quyết việc làm cho người dân TĐC.
- Giải pháp về vốn xã hội
+ Mối quan hệ dòng họ bền chặt là đặc trưng văn hóa của người
Thái. Chính ưu điểm này đã giúp người dân cố kết, cùng tồn tại và
phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào,


19
người Thái luôn có truyền thống đoàn kết, ý thức giúp đỡ nhau bằng
cả vật chất và tinh thần. Do đó, tiếp tục gìn giữ và phát huy đặc tính
tốt đẹp này chính là một trong những điều kiện để cả điểm TĐC cùng
phát triển.
+ Công tác quản lý thôn bản cần tổ chức tốt vì đây chính là cầu
nối giữa người dân TĐC và chính quyền. Đặc biệt, chính quyền cần kết
nối chặt chẽ với các điểm TĐC thông qua trưởng bản cũng như những
người có uy tín trong cộng đồng, dòng họ.
+ Cho phép người dân TĐC tham gia đóng góp nhiều hơn nữa vào
việc góp ý, tham gia triển khai các mô hình sản xuất mới như trồng
nấm, trồng cao su, nuôi bò sữa...
+ Cần có cơ chế kiểm soát và giải quyết mâu thuẫn một cách kịp
thời. Chính quyền cần chủ động đứng ra dàn xếp, giải quyết các mâu
thuẫn xảy ra hay tiềm ẩn trong quá trình TĐC. Bên cạnh đó, phải nâng

cao chất lượng phục vụ, năng lực cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở
là người dân tộc thiểu số để xây dựng nền tảng vững bền cho mối quan
hệ cố kết bên trong tộc người và xây dựng quan hệ hài hòa, bình đẳng
thực sự giữa các tộc người, giữa cộng đồng TĐC và dân cư sở tại.
- Giải pháp về vốn vật chất
+ Dự án cần nhanh chóng hoàn thiện hạ tầng cơ sở (đường giao
thông, mạng lưới điện) đang xây dựng dang dở để sớm đưa vào phục vụ
người dân.
+ Dự án cần thiết kế, tìm nguồn kinh phí để duy tu, sửa chữa
những công trình đã xuống cấp, không còn sử dụng được, nhất là hệ
thống thủy lợi phục vụ sản xuất, hệ thống đường giao thông phục vụ đi
lại và trao đổi, mua bán hàng hóa của người dân. Bên cạnh đó, dự án
cần tiếp tục xin kinh phí đầu tư, nâng cấp hệ thống cấp nước để giúp
người Thái TĐC có đủ nguồn nước sản xuất và sinh hoạt.


20
- Giải pháp về vốn tài chính
+ Dự án cần giải quyết đền bù nhanh các thiệt hại về đất còn tồn
đọng. Một mặt, tránh việc người dân khiếu kiện kéo dài, vượt cấp để an
dân, mặt khác nguồn vốn tài chính đó có thể được đầu tư cho việc ổn
định đời sống, hoặc phát triển sản suất tại nơi ở mới.
+ Chính quyền cần phối hợp với các tổ chức thu mua sản phẩm
nông nghiệp của người dân một cách ổn định. Việc thu mua ổn định
cũng giúp người dân có thêm nguồn thu nhập, giảm bớt gánh nặng lên
vai cộng đồng và xã hội.
+ Chính quyền các cấp cũng cần tuyên truyền và linh hoạt hơn cho
người dân trong việc tiếp cận nguồn vốn. Đồng thời đề xuất cơ chế vay
vốn thông thoáng hơn nữa với người dân TĐC, cả về đối tượng, số tiền,
thời gian vay và thủ tục pháp lý.

4.2.2. Các giải pháp khác
Cùng với các giải pháp hoàn thiện chính sách đối với vùng dân tộc
thiểu số và vùng TĐC của người Thái, cần chú trọng quan tâm đến giải
pháp xây dựng và nhân rộng mô hình phát triển nông nghiệp, ngư
nghiệp ở vùng TĐC. Tăng cường giải pháp tuyên truyền nâng cao nhận
thức của người dân TĐC. Hỗ trợ đào tạo cán bộ dự án và cán bộ cấp cơ
sở, đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống sản xuất của người
dân. Các nghiên cứu khoa học cũng cần tiếp tục được triển khai theo
hướng chuyên sâu, tăng cường nghiên cứu phản biện, đánh giá chính
sách tại các điểm TĐC.
Tiểu kết chƣơng 4
Dự án TĐC TĐSL đã đạt được những kết quả tích cực sau hơn 10
năm triển khai, giúp người dân TĐC về cơ bản có cuộc sống mới tốt
hơn so với trước đây. Tuy nhiên, một số công việc chưa được thực hiện
tốt như công tác quy hoạch, công tác đền bù, giải quyết tranh chấp, cấp
sổ đỏ... đã ảnh hưởng bất lợi tới cuộc sống và sinh kế của người dân,
nhất là những hộ gia đình TĐC ven lòng hồ.


21
Với công trình TĐSL, khi đa số người dân TĐC là người Thái
và hầu hết vẫn đang TĐC tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì giải
pháp cần chú trọng nhất trong giai đoạn hiện nay là nâng cao nguồn vốn
tự nhiên. Cụ thể là các giải pháp nhằm phân bổ thêm diện tích đất (khai
thác đất bán ngập, đất hoang hóa) và nâng cao chất lượng đất sản xuất.
Bên cạnh đó, các giải pháp để giúp người dân TĐC phát huy có hiệu
quả các nguồn vốn con người, vốn xã hội, vốn vật chất, vốn tài chính
cũng được luận án đưa ra. Đồng thời, cần chú trọng đến các giải pháp
về chính sách, về tuyên truyền, nâng cao chất lượng cán bộ thực hiện
dự án, giải pháp về khoa học. Song song với việc tăng hiệu quả năm

nguồn vốn, các giải pháp này sẽ giúp quá trình ổn định, phát triển sinh
kế của người dân TĐC dần được cải thiện và bền vững.
KẾT LUẬN
1. TĐSL là dự án thủy điện lớn nhất ở Việt Nam tính tới thời điểm
hiện tại. Cùng với quá trình xây dựng công trình này, một số lượng lớn
người dân đã phải di dời. Tại tỉnh Sơn La, số lượng người Thái phải
TĐC phục vụ dự án chiếm hơn 80%. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về sinh kế của người Thái TĐC
trên địa bàn tỉnh Sơn La, nhất là sau thời điểm tháng 4 năm 2010 (thời
điểm BQLDA TĐC TĐSL công bố hoàn thành công tác di dân TĐC).
2. TĐC là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm và có nhiều cách thức để
tiếp cận, phân chia các loại hình TĐC như: theo tính chất TĐC, theo địa
bàn nơi TĐC, theo hình thức bố trí các điểm TĐC… Với các dự án thủy
điện, còn có một hình thức TĐC đặc trưng, đó là di vén tức di chuyển từ
dưới lòng hồ lên trên mực nước hồ. Trong nghiên cứu này, tác giả luận
án tập trung xem xét ba loại hình chính, đó là TĐC đô thị, TĐC nông
thôn ven lòng hồ và TĐC nông thôn ngoài lòng hồ. Phương pháp
nghiên cứu chủ đạo được luận án sử dụng là điền dã dân tộc học. Khung
phân tích SKBV của DFID đã được tác giả luận án lựa chọn để tiếp cận
nghiên cứu về sinh kế của người Thái TĐC ở tỉnh Sơn La.


22
3. Năm nguồn vốn của người Thái TĐC đã có những thay đổi khác
biệt so với khi còn ở quê cũ. Với những hình thức TĐC khác nhau,
những nguồn vốn này cũng khác nhau. Trên địa bàn tỉnh Sơn La, nguồn
vốn quan trọng nhất và bị ảnh hưởng lớn nhất của người dân chính là
vốn tự nhiên, đặc biệt là tài nguyên đất phục vụ sản xuất nhằm đảm bảo
sinh kế. Tuy nhiên, diện tích đất sản xuất tại nơi TĐC thường có chất
lượng thấp dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao, người dân phải sử

dụng khoa học kỹ thuật để bù đắp. Riêng với người dân TĐC tại huyện
Mộc Châu, họ phải đối mặt với sự thay đổi về thời tiết, khí hậu khác
biệt so với quê cũ. Với bản tính chân thật, hiền lành, hòa đồng… của
người Thái, vốn xã hội hầu như ít thay đổi. Vốn con người, vốn vật chất
và vốn tài chính đều tăng mạnh. Đối với người Thái TĐC TĐSL, vốn tự
nhiên và vốn con người chính là hai yếu tố có ý nghĩa quyết định đối
với hoạt động sinh kế của họ.
4. Các nguồn vốn thay đổi dẫn tới sinh kế của người Thái TĐC
cũng thay đổi, diễn ra toàn diện trong tất cả các hoạt động trồng trọt,
chăn nuôi, nghề thủ công, trao đổi hàng hóa và dịch vụ, khai thác các
nguồn lợi tự nhiên. Cùng với đó là các hoạt động sinh kế mới đã xuất
hiện. Với người dân TĐC đô thị, hiện nay họ chủ yếu chuyển sang làm
các công việc phi nông nghiệp như buôn bán, xe ôm, bốc vác, công
nhân … Với người dân TĐC nông thôn, họ đã chuyển sang phát triển
các loại cây hàng hóa (bán sản phẩm lấy tiền và sử dụng tiền đó để mua
các sản phẩm khác) thay vì tự cung tự cấp như trước đây. Trong hoạt
động nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng thay đổi mạnh. Đa
phần người dân có xu hướng chuyển đổi từ cây trồng, vật nuôi truyền
thống sang những loại cây trồng, vật nuôi mới có giá trị kinh tế cao.
Trong trồng trọt, người dân chuyển từ trồng lúa sang trồng ngô lai, sắn
cao sản… Trong chăn nuôi, người dân chuyển từ các giống lợn, bò
truyền thống sang giống mới như lợn nái, bò thịt, bò lai… Tại nhiều


23
điểm TĐC, người dân đã chuyển từ trồng trọt là chủ đạo sang trồng trọt
phục vụ chăn nuôi (trồng sắn, trồng cỏ chỉ để phục vụ nuôi cá, nuôi dê,
nuôi bò…). Các nghề thủ công truyền thống ít đem lại hiệu quả kinh tế
nên không còn được duy trì (nghề dệt, nghề gốm, nghề rèn…). Thay
vào đó, những nghề mới đã xuất hiện như cung cấp dịch vụ du lịch cộng

đồng, mở cửa hàng dịch vụ, làm thuê… Trao đổi hàng hóa phát triển do
giao thông thuận lợi và xu hướng hội nhập kinh tế của các điểm TĐC,
vùng TĐC.
5. Cho đến nay, nhìn chung cuộc sống của người dân TĐC đã tốt
hơn nhiều so với trước. Theo số liệu thống kê, thu nhập bình quân của
người dân TĐC toàn tỉnh Sơn La tăng 1,5 lần so với trước TĐC. Mức
thu nhập này cao nhất ở khu vực đô thị và ở huyện Mai Sơn, là những
nơi người dân dễ dàng tiếp cận với thị trường hàng hóa. Tỷ lệ hộ nghèo
trong người dân TĐC giảm từ 42 % xuống còn 18 %. Tuy nhiên, cũng
có một số vấn đề đang đặt ra trong việc đảm bảo sinh kế theo hướng
bền vững cho người dân TĐC. Ngoài diện tích đất sản xuất bị thu hẹp,
chất lượng đất có xu hướng giảm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng,
vật nuôi thì việc phân hóa trong cộng đồng ngày càng rõ nét. Nhiều hộ
gia đình TĐC đã nhanh chóng thích ứng được với cơ chế thị trường, sản
xuất hàng hóa tăng thêm thu nhập, nhưng cũng có một số hộ gia đình
vẫn lệ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và không có đủ đất cho sản xuất,
mất nguồn thu từ rừng, đời sống của họ trở nên khó khăn hơn nhiều so
với trước khi TĐC.
6. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của dự án và giúp người dân có
cuộc sống sau TĐC ngày càng bền vững, nhiều giải pháp vẫn cần được
triển khai và triển khai sớm. Bên cạnh những giải pháp nâng cao hiệu
quả của năm nguồn vốn là các giải pháp mang tính liên kết và toàn diện
về chính sách, tuyên truyền, nâng cao chất lượng cán bộ dự án và áp
dụng khoa học. Trong những giải pháp này, nhóm giải pháp ưu tiên


×