Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Một số vấn đề pháp lí và thực tiễn liên quan đến việc đảm bảo quyền lợi việc làm cho người khuyết tật ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.71 KB, 80 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.
6.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
MỤC TIÊU
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
KẾT QUẢ THU ĐƯỢC

PHẦN NỘI DUNG

Chương I. Khái quát chung một số vấn đề về người khuyết tật và pháp luật
người khuyết tật ở Việt Nam
1.

Khái niệm về người khuyết tật

1.

Định nghĩa về người khuyết tật

2.

Đặc điểm người khuyết tật


2.

3.

Khái quát chung về pháp luật người khuyết tật
2.1.

Khái niệm pháp luật về người khuyết tật

2.2.

Các nguyên tắc cơ bản xây dựng nên pháp luật về người
khuyết tật.

Quy định của pháp luật về việc làm đó với người khuyết tật
3.1.

Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa việc làm đối với người
khuyết tật.

3.2.

Quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật trong lĩnh vực việc
làm.

3.3.

Chế độ hỗ trợ việc làm với người khuyết tật và một số chủ thể
có trách nhiệm trong việc hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật.



Chương II: Thực tiễn giải quyết việc làm cho người khuyết tật trong thực tế
và 1 số vấn đề pháp lí trong việc đảm bảo cơ hội việc làm cho người khuyết
tật.
1.

2.

Một số vấn đề pháp lý về giải quyết và đảm bảo cơ hội việc làm trong
pháp luật về người khuyết tật.
1.1.

Những ưu điểm của pháp luật quy định về việc làm cho người
khuyết tật.

1.2.

Những bất cập tồn tại trong pháp luật về đảm bảo cơ hội việc làm
người khuyết tật:
1.2.1.

Về vấn đề dạy nghề

1.2.2.

Về vấn đề sử dụng lao động:

1.2.3.

Về các chính sách hỗ trợ:


Thực tiễn trong việc giải quyết việc làm cho người khuyết tật trong thực
tế ở Việt Nam.
2.1.
Tình hình người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
2.2.
Sự cần thiết đảm bảo việc làm và thu nhập cho người khuyết tật.
2.3.
Thực trạng thực hiện pháp luật và thực tiễn giaỉ quyết việc làm
cho người khuyết tật trong thực tế – kết quả và hạn chế.
2.3.1. Về vấn đề dạy nghề:
2.3.2. Về vấn đề tìm việc làm:
2.3.3. Về vấn đề sử dụng lao động:
2.3.4. Về các ưu đãi, hỗ trợ:
2.3.5. Về vấn đề việc làm của phụ nữ khuyết tật

Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao đảm bảo
cơ hội việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam.
1. Quan điểm và định hướng cho việc hoàn thiện quy chế pháp
lý đối với vấn đề việc làm của người khuyết tật
2.

Giải pháp và kiến nghị

PHẦN KẾT LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài:

Việt Nam là một trong những nước có nguồn nhân lực dồi dào. Chính vì thế
việc đảm bảo việc làm cho người lao động luôn là một trong những ưu tiên hàng
đầu của chính phủ. Đảng và nhà nước đã đã đề ra rất nhiêù chính sách pháp luật
về việc làm được thực thi với mục tiêu tạo ra nhiều điều kiện và cơ hội để mọi
người lao động có việc làm, có thu nhập để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và
gia đình đồng thời đóng góp cho xã hội. Bên cạnh đó các chính sách việc làm và
giải quyết việc làm của Đảng và nhà nước còn đặc biệt quan tâm tới những người
lao động yếu thế trong xã hội, cụ thể là đối tượng người khuyết tật (NKT) nhằm
giúp đỡ và tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường lao động, ổn định cuộc
sống, vượt các rào cản và hòa nhập với cuộc sống.
Các chính sách về việc làm, đảm bảo an sinh xã hội cho người khuyết tật là
tiền đề giúp hình thành nên nhiều văn bản pháp luật và hệ thống các luật chuyên
ngành như: Bộ luật Lao động; Luật người khuyết tật; Luật bảo vệ và chăm sóc,
giáo dục trẻ em; ......Các văn bản pháp luật này được ban hành nhằm tạo hành lang
pháp lý đảm bảo những quyền cơ bản của con người, tham gia vào đời sống và sự
phát triển của xã hội. Người khuyết tật đã được nhà nước và xã hội trợ giúp chăm
sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng những
đặc quyền khác theo quy định của pháp luật.
Sau nhiều năm thực hiện các chính sách pháp luật về người khuyết tật đặc
biệt là chính sách việc làm, đảm bảo an sinh xã hội, nhà nước đã tạo ra hành lang
pháp lý giúp đỡ người khuyết tật hòa nhập cộng đồng, cải thiện đời sống; đồng
thời giúp các tổ chức, cá nhân có lòng hảo tâm trong và ngoài nước hỗ trợ giúp đỡ
người khuyết tật.
Tuy nhiên , bên cạnh những cố gắng, kết quả đạt được từ những chính sách
pháp lệnh về người khuyết tật, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm vẫn còn nhiều hạn
chế bất cập. Theo thống kê của Bộ lao động thương binh và xã hội, hiện vẫn còn
hơn 50% người khuyết tật ở Việt Nam chưa có việc làm, số có việc làm thì thu
nhập thấp, không ổn định. Vẫn còn nhiều vấn đề nan giải trong việc đào tạo việc

làm, đào tạo nghề cho người khuyết tật cũng như khả năng tiếp cận các dịch vụ xã
hội.Cơ hội để người khuyết tật tham gia hòa nhập cộng đồng cũng đang gặp thách
thức lớn.


Việt Nam đang là nước phát triển,đang trong tiến trình xây dựng tăng
trưởng nền kinh tế thị trường kêt hợp tiến bộ xã hội. Đảng và nhà nước ta tạo mọi
điều kiện khơi dậy nguồn lực, nhân lực giúp đất nước phát triển , tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy hơn lúc nào hết cần chú trọng việc đảm
bảo việc làm , tổ chức tốt hoạt động thực hiện pháp luật với người khuyết tật.
Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết thiết trên, nhóm em đã chọn đề tài
nghiên cứu “Một số vấn đề pháp lí và thực tiễn liên quan đến việc đảm bảo
quyền lợi việc làm cho người khuyết tật ở việt nam” với nôi dung nghiên cứu
đưa ra một số vấn đề pháp lí về đảm bảo quyền lợi việc làm cho người khuyết tật
và liên hệ thực tiễn để tìm ra những điểm được và chưa được của việc đảm bảo
quyền lợi việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam. Bài nghiên cứu của nhóm
em chú trọng vào một số nội dung chủ yếu sau:

1.

1.

Đưa ra các khái niệm về người khuyết tật, một số quy định pháp lí về
người khuyết tật.

2.

Tìm hiểu chế độ việc làm theo quy định của pháp luật hiện hành đối với
người khuyết tật


3.

Điểm mạnh và hạn chế của pháp luật hiện hành đối với người khuyết tật

4.

Việc đảm bảo quyền lợi việc làm cho người khuyết tật ở việt nam đã
thực hiện tốt hay chưa?

5.

Cần đưa ra các giải pháp gì để giải quyết?

Mục tiêu nghiên cứu:

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề pháp lí về người khuyết tật, các chính
sách việc làm đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và nhà nước đối với người khuyết
tật,....để bổ sung kiến thức cơ bản về người khuyết tật vào vốn hiểu biết của bản
thân; tìm ra những điều còn chưa rõ về pháp lí trong việc đảm bảo quyền lợi việc
làm cho người khuyết tật và liên hệ với thực tế về việc đảm bảo quyền lợi việc
làm cho người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay để đưa ra các giải pháp giải quyết
hợp lí mang tính khả thi cao góp phần đảm bảo thực hiện quyền lợi việc làm của


người khuyết tật cũng như các quyền lợi cơ bản khác, tạo điều kiện và cơ hội cho
người khuyết tật hòa nhập cộng đồng.
2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.


-

Đối tượng : các quy định pháp luật về vấn đề việc làm cho người khuyết tật ở việt
nam và thực trạng áp dụng các quy định đó

-

Phạm vi nghiên cứu :


Phạm vi về thời gian : từ năm 2005 đến nay



Phạm vi về đối tượng : người khuyết tật



Phạm vi về không gian : Việt Nam

3.

Phương pháp nghiên cứu.

-

Pp quan sát : quan sát thực trạng việc làm của người khuyết tật

-


PP nghiên cứu tài liệu : nghiên cứu trên sách, báo, tài liệu liên quan

-

PP thu thập thông tin.
4.

Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Nghiên cứu những vấn đề pháp lý về Luật việc làm cho người khuyết tật ở Việt
Nam. Hệ thống hóa kiến thức khái niệm về người khuyết tật, phân tích vai trò thực
hiện các chính sách chế độ việc làm cho người khuyết tật.

-

Phân tích đánh giá thực trạng và hoạt động việc thi hành các chính sách đảm bảo
quyền lợi về việc làm trong lao động của người khuyết tật, những ưu điểm và hạn
chế cũng như nguyên nhân để khắc phục.

-

Đưa ra quan điểm và các giải pháp tổng thể đảm bảo cho việc hoạt động đảm bảo
quyền lợi việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam.
5.

Kết quả thu được



NỘI DUNG
Chương I. Khái quát chung một số vấn đề về người khuyết
tật và pháp luật người khuyết tật ở Việt Nam
1.

Khái niệm người khuyết tật và luật người khuyết tật.
1.1.
Khái niệm người khuyết tật

Trong thế kỷ trước, người ta đã chứng kiến một cuộc cách mạng lớn về vấn
đề người khuyết tật, qua đó thay đổi cách đề cập, nhìn nhận, tương tác và hỗ trợ
đối với họ. Từ mô hình “chăm sóc y tế” của những năm 1950, trong suốt thời gian
dài vấn đề người khuyết tật được xem là vấn đề phúc lợi xã hội, theo đó một quan
niệm phổ biến là người khuyết tật cần được hỗ trợ, chăm sóc và họ không thể và
không đủ khả năng chăm lo cho cuộc sống của mình. Nói cách khác, người khuyết
tật bị coi là các đối tượng của phúc lợi xã hội mà không phải là các chủ thể có
quyền như một công dân bình thường. Các văn bản pháp luật quốc tế liên quan
đến quyền con người được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960
(ví dụ: Tuyên ngôn toàn thế giới của Liên hợp quốc về Quyền con người năm
1948, Công ước của Liên hợp quốc về Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966
và Công ước của Liên hợp quốc về Quyền dân sự và chính trị năm 1966…) đều
không đề cập trực tiếp đến người khuyết tật. Đến năm 1970, xuất phát từ Hoa Kỳ
– bằng nhiều hình thức khác nhau, người khuyết tật và các hiệp hội của họ đã
minh chứng rằng họ hoàn toàn có khả năng và có quyền được sống và lao động
như những người bình thường. Sự nỗ lực bền bỉ của họ cùng với sự thay đổi về
nhận thức trong xã hội đã dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ về chính sách và pháp
luật của Hoa Kỳ về người khuyết tật. Đến những năm 1980, những quan niệm
nhân quyền tiến bộ của Hoa Kỳ về người khuyết tật được phổ biến ở nhiều nước
như Thụy Điển, Nhật Bản, Brazin…và gần đây là Hàn Quốc, Thái Lan… Tư
tưởng cốt lõi của nhận thức mới này là các vấn đề về người khuyết tật được xem

xét dưới góc độ quyền con người, dựa trên quan điểm tất cả mọi người đều có
quyền được sống một cuộc sống đầy đủ và có phẩm giá đã được ghi nhận trong
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948. Tuy nhiên, quá trình
chuyển nhận thức về người khuyết tật như một vấn đề phúc lợi xã hội sang nhận
thức coi vấn đề khuyết tật là một vấn đề bình thường trong xã hội và coi trọng khả


năng, năng lực của người khuyết tật đã diễn ra trong khoảng thời gian tương đối
dài và không phải đã hết sự khác biệt.

-

Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy đã có các quan điểm khác nhau về khái
niệm người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: Quan điểm khuyết tật cá
nhân và quan điểm khuyết tật xã hội.
Quan điểm khuyết tật cá nhân (cá thể) hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế
(y học): Cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, là ở chính con người đó, chú
trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường
vật thể xung quanh người khuyết tật. Quan niệm này cho rằng người khuyết tật có
thể hưởng lợi từ phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các công nghệ cải
thiện chức năng. Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem
trọng việc trị liệu xã hội. Như vậy, mô hình y tế nhìn nhận người khuyết tật là một
vấn đề và đưa ra giải pháp để làm người đó “bình thường”. Mô hình y tế đưa đến
việc cung cấp giáo dục đặc biệt, giao thông đặc biệt, nghề trị liệu, vật lý trị liệu…
Nó cũng có thể dẫn đến việc chọn lọc khả năng sinh tồn, ngăn trẻ sơ sinh khuyết
tật bằng cách ngăn chặn cả người mẹ khuyết tật và người mẹ bình thường sinh ra
nó. Lý giải rõ thêm cho quan điểm này, theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới,
có ba mức độ suy giảm là: khiếm khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và
tàn tật (handicap). Khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không bình thường của
cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc/và sinh lý. Khuyết tật chỉ đến sự giảm

thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn tàn tật đề cập
đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của
môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ (WHO, 1999).
Như vậy, mô hình cá nhân (cá thể) hay y tế nhìn nhận người khuyết tật như
những người có vấn đề về thể chất và cần phải chữa trị. Điều này đã đẩy những
người khuyết tật vào thế bị động của người bệnh. Mục tiêu của hướng tiếp cận y tế
là làm cho những người khuyết tật cảm thấy trở lại trạng thái bình thường nhưng
vô hình trung lại khiến cho những người khuyết tật cảm thấy họ không bình
thường. Theo đó vấn đề khuyết tật được cho là hạn chế ở từng cá nhân. Khi bị
khuyết tật những người này cần phải thay đổi chứ không phải xã hội hay môi
trường xung quanh phải thay đổi.

-

Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: Vào cuối những năm 1990, mô hình
xã hội trở nên khá nổi trội trong những nghiên cứu khuyết tật trên thế giới, đó là


khái niệm được sử dụng phổ biến nhất. Mô hình xã hội là mô hình có cơ sở lý
thuyết và có quy tắc riêng được coi là nền tảng của những biến chuyển của vấn đề
người khuyết tật.
Trong mô hình xã hội, khuyết tật được nhìn nhận là hệ quả bị xã hội loại trừ
và phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ chức không tốt nên những người khuyết tật
phải đối mặt với một số phân biệt đối xử như: Thái độ: thể hiện sự sợ hãi, sự thiếu
hiểu biết và ít kỳ vọng (ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng); Môi trường: dẫn
đến việc không tiếp cận về vật chất, ảnh hưởng đến tất cả các mặt của đời sống
(trường học, cửa hàng, tòa nhà công cộng, giao thông…); Thể chế: là những phân
biệt mang tính pháp lý (ví dụ như không được lập gia đình hay có con, không
được nhận vào trường học…). Mô hình xã hội đưa ra cơ sở để hiểu được những
vấn đề phức tạp về khuyết tật. Nó thể hiện khuyết tật là lát cắt ngang các vấn đề

xã hội và chính sách cơ bản làm thay đổi tình trạng và hoàn cảnh mà người khuyết
tật bị hạn chế hay ngăn cản tham gia đầy đủ như một công dân bình đẳng. Mô
hình xã hội về khuyết tật cho rằng nhiều người bị khiếm khuyết ở các cách khác
nhau nhưng chỉ xã hội biến họ thành khuyết tật. Con người bị khiếm khuyết
nhưng xã hội bị khuyết tật. Nói cách khác, mô hình xã hội khuyết tật coi xã hội là
vấn đề, giải pháp là phải thay đổi xã hội. Chính xã hội và chính sách cần phải cải
tổ chứ không phải người khuyết tật. Hiểu khiếm khuyết hay khuyết tật là riêng
biệt và khác nhau trong mô hình xã hội, trong đó khuyết tật là hạn chế và rào cản.
Tuy nhiên, mô hình xã hội không phủ nhận tầm quan trọng cũng như sự khác nhau
của khiếm khuyết. Đặc biệt trước đây sự khác biệt về khuyết tật chỉ được nhìn
nhận theo cách tiêu cực, điều này dẫn đến việc người khuyết tật bị phân biệt và
loại trừ khỏi đời sống xã hội. Mô hình xã hội giúp thừa nhận sự khác biệt theo
cách tích cực hoặc trung lập và khiến người khuyết tật được hưởng quyền công
dân và quyền con người. Vì mô hình xã hội phân biệt những rào cản khuyết tật và
khiếm khuyết nên nó tạo điều kiện cho người khuyết tật chỉ tập trung vào khả
năng và những điều cần làm là loại bỏ các yếu tố rào cản trợ giúp cho các khiếm
khuyết và được đối xử như những người khác. Mô hình xã hội giúp người khuyết
tật hiểu điều gì cần thực hiện để tiếp cận với quyền công dân và quyền con người.
Điều có ý nghĩa ở đây là chính người khuyết tật cũng phải nhận thức được đầy đủ
các nghĩa vụ của mình với tư cách là một công dân trong mọi lĩnh vực đời sống,
kinh tế, chính trị, xã hội mà mình tham gia.


Nhiều nghiên cứu đã cố gắng chỉ ra những điểm khác biệt và tương đồng,
mối quan hệ giữa quan điểm y tế và quan điểm xã hội từ đó xác định vị trí và vai
trò của từng mô hình nói trên. Trước hết, sự khác biệt chủ yếu dựa vào khởi nguồn
của vấn đề gây nên khuyết tật đã được xác định: trong mô hình y tế là ở cá nhân,
trong mô hình xã hội là ở xã hội. Khuyết tật được nhìn nhận như là khó khăn và
khiếm khuyết của cá nhân trong mô hình y tế là sản phẩm của tổ chức xã hội trong
mô hình xã hội. Sự khác biệt thứ hai của hai mô hình là bản chất của khuyết tật:

Mô hình y tế tập trung vào khiếm khuyết và cá nhân, do vậy bản chất của khuyết
tật là sự suy giảm về mặt thể chất, cảm giác và trí tuệ. Người khuyết tật mất khả
năng bởi những điều họ không thể làm được. Mô hình xã hội tập trung vào những
rào cản mà người khuyết tật phải đối mặt, do đó, bản chất của khuyết tật là các rào
cản (như là thái độ, nạn đói nghèo, rào cản về thể chất và môi trường, rào cản về
chính trị…) ngăn cản người khuyết tật tham gia vào các hoạt động kinh tế – văn
hóa – xã hội. Sự khác biệt thứ ba giữa quan điểm y tế và xã hội là việc sử dụng
các thuật ngữ. Thuật ngữ được sử dụng trong mô hình y tế là tiên lượng bệnh,
chẩn đoán, kê đơn, tai nạn, thiếu hụt…(ví dụ: khiếm thính, khiếm thị, khiếm
khuyết, rối loạn, phục hồi chức năng, phòng ngừa và chữa trị…). Trong khi đó,
thuật ngữ được sử dụng trong mô hình xã hội là áp bức, phân biệt, tương đồng –
khác biệt, kinh nghiệm, rào cản, quyền công dân, cấu thành xã hội… Việc sử dụng
các khái niệm được hiểu như cách phản ánh hiểu biết của mỗi mô hình. Cuối cùng
nghiên cứu về mô hình y tế đang cố gắng tìm ra cách thức chữa trị người khuyết
tật để họ khắc phục tốt hơn về tình trạng sức khỏe và giúp họ điều chỉnh bản thân
để chung sống cùng những bất lợi một cách tự lập. Ngược lại, nghiên cứu về mô
hình xã hội tập trung xác định lý do môi trường khó tiếp cận và cách thay đổi để
những người khiếm khuyết thích nghi. Thực ra mô hình y tế về khuyết tật thật sự
bao hàm khiếm khuyết và đặc điểm của người bị khiếm khuyết chứ không nói về
khuyết tật. Trong khi đó, mô hình xã hội nói về khuyết tật. Nói cách khác, mô
hình xã hội đề cập đến việc tìm ra cách mà xã hội người bị khiếm khuyết không
thể điều chỉnh sự khác biệt của mình. Lúc đó ưu tiên cơ bản để nghiên cứu là kiểm
nghiệm những đặc điểm của xã hội bị hạn chế khả năng hơn là người bị khiếm
khuyết. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, các quan điểm khác nhau về người
khuyết tật vẫn có những ưu thế nhất định trong tương lai nghiên cứu về khuyết tật.
Trong bối cảnh toàn cầu và đa văn hóa, tất cả các mô hình đều xuất hiện mặc dù
có thể được chấp nhận khác nhau phụ thuộc vào những bối cảnh nhất định.


Như vậy, mỗi quan niệm nói trên có những điểm mạnh và hạn chế nhất

định: Quan điểm khuyết tật cá nhân hoặc y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh
vực cụ thể như y tế phục hồi chức năng và bảo đảm xã hội. Quan điểm khuyết tật
theo mô hình xã hội là công cụ quan trọng để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ
của người khuyết tật bị tách biệt khỏi cuộc sống chung. Vấn đề về những bất lợi
và vấn đề phân biệt đối xử. Mô hình xã hội ghi nhận rằng câu trả lời cho câu hỏi
liệu một ai đó có bị xếp vào danh sách người khuyết tật hay không có liên quan
chặt chẽ đến các yếu tố như văn hóa, thời gian và môi trường.
Qua hai quan điểm trên có thể thấy chưa có khái niệm nào về người khuyết
tật được thống nhất. Tuy nhiên dựa trên các yếu tố mà hai quan điểm trên đưa ra
về người khuyết tật ta có thể nhìn nhận định nghĩa chung về người khuyết tật
thông qua các đặc điểm cơ bản: khiếm khuyết, suy giảm một phần hoặc nhiều
phần về thể chất, cảm giác hoặc trí tuệ; gặp rào cản và bị hạn chế trong việc tham
gia vào môi trường xã hội;.....
Khái niệm người khuyết tật, cơ sở pháp lý để công nhận ai là người khuyết
tật và từ đó được bảo vệ bởi hệ thống pháp luật liên quan, phụ thuộc rất nhiều vào
mục tiêu mà luật hoặc chính sách cụ thể theo đuổi. Do vậy, không có một khái
niệm chung về người khuyết tật áp dụng chung cho các nước.

-

o

o

Tương ứng với các quan điểm đã nói đến ở trên, có những định nghĩa khác nhau
về người khuyết tật theo quy định pháp luật của các nước.
Như đã trình bày, định nghĩa theo quan điểm y tế thường tập trung vào sự khiếm
khuyết về thể trạng, tinh thần, thính giác, thị giác và sức khỏe tâm thần… Có một
số định nghĩa theo quan niệm này như sau:
Trung Quốc: Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người

khuyết tật ban hành năm 1990, Điều 2 quy định: “Người khuyết tật là một trong
những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng,
tâm lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ
hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình
thường.“Người khuyết tật” là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc
khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật
nhiều và / hoặc khuyết tật khác”.
Ấn Độ: Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 (về cơ hội bình đẳng, bảo vệ
quyền và đảm bảo cho người khuyết tật tham gia mọi hoạt động xã hội) định


o

o

nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh phong; thị
lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm
thần. Trong khi đó định nghĩa về người khuyết tật lại được nêu “một người bị bất
kỳ một khuyết tật nào không dưới 40% theo xác nhận của cơ quan y tế có thẩm
quyền”
Theo đạo luật số 7277 với tên gọi là “Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức năng, tự
phát triển và tự tin cho người khuyết tật và hòa nhập người khuyết tật vào xã hội
và các mục đích khác” Được thông qua bởi Thượng nghị viện và Hạ nghị viện
của Quốc hội Phillipines vào ngày 12 tháng 7 năm 1991; quy định: “Người
khuyết tật – là người có sự khác biệt về khả năng và hạn chế do khiếm khuyết về
giác quan, vận động, và tâm thần để thực hiện một hoạt động được coi là bình
thường”.
Cùng với khái niệm về người khuyết tật, đạo luật số 7277 của Philipine còn giải
thích một số thuật ngữ khác có liên quan đến người khuyết tật, cụ thể như sau:
* Sự khiếm khuyết là sự mất, giảm hay rối loạn về chức năng, hay cấu trúc

cơ thể, tâm lý và hành vi.
* Khuyết tật có nghĩa là sự khiếm khuyết về vận động hay trí não mà có ảnh
hưởng đáng kể một hoặc nhiều chức năng vận động, tâm thần của một cá nhân
hay các hoạt động của cá nhân, hoặc được coi là có khiếm khuyết.

-

o

o

o

Định nghĩa người khuyết tật theo quan điểm xã hội là sự kết hợp giữa sự khiếm
khuyết và các yếu tố môi trường và tiếp cận dưới góc độ quyền của người khuyết
tật. Sau đây là một số định nghĩa người khuyết tật theo quan điểm này:
Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm của người
khuyết tật (năm 1983), khoản 1, Điều 1 quy định: “Người khuyết tật dùng để chỉ
một cá nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó
và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể
chất và tâm thần được thừa nhận”
Công ước về Quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc (năm 2006), Điều 1
quy định: “Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần
kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng
loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người
khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”.
Ở Đức, sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa: “Người khuyết tật là người có
các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lý tiến triển không bình thường so với



o

o

o

người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này
là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội”
Luật bình đẳng về việc làm của Nam phi định nghĩa người khuyết tật là “người bị
suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp diễn
nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc phát
triển nghề nghiệp”.
Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA – Americans with
Disabilities Act of 1990) định nghĩa “người khuyết tật là người có sự suy yếu về
thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan
trọng trong cuộc sống”. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao
gồm: khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần,
bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo
cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và
bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng).
Ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua luật Người khuyết tật, có hiệu
lực từ 01/01/2011, chính thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay cho khái
niệm “người tàn tật”, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới
về vấn đề khuyết tật. Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Luật này thì “Người
khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp khó khăn.”
Theo cách hiểu này thì người khuyết tật bao gồm cả những người bị khuyết
tật bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do tai nạn, thương binh, bệnh binh,..Như vậy,
luật Người khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm người khuyết tật dựa vào mô

hình xã hội, tuy nhiên còn chung chung so với khái niệm trong Công ước về
quyền của người khuyết tật.
Thông qua quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau cho thấy để đưa
ra một khái niệm thuyết phục và thống nhất về người khuyết tật là không dễ dàng.
Việc nghiên cứu để đưa ra một định nghĩa quốc tế về người khuyết tật là một
thách thức do những mô hình của khuyết tật chịu ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa,
điều kiện kinh tế – xã hội và các tiêu chí xác định khuyết tật. Tuy nhiên, cũng cần
khẳng định rằng định nghĩa về người khuyết tật, dù tiếp cận dưới bất cứ góc độ
nào, nhất thiết phải phản ánh một thực tế là người khuyết tật có thể gặp các rào
cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi tham gia vào mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội. Và họ phải được đảm bảo rằng, họ có quyền và trách


nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ công dân nào với tư
cách là các quyền của con người. Với cách tiếp cận đó, có thể khái niệm người
khuyết tật như sau:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài
trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình
đẳng với những chủ thể khác.”
1.2.

Đặc điểm người khuyết tật.

Người khuyết tật trước hết là những con người nên họ mang những đặc
điểm chung về mặt kinh tế – xã hội, đặc điểm tâm sinh lý như mọi người khác
trong xã hội. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên
nhóm người khuyết tật nói chung lại có những nét đặc thù so với nhóm người
không khuyết tật và mỗi nhóm người khuyết tật dạng này lại có nét đặc thù tương
đối so với nhóm người khuyết tật dạng khác. Về phương diện pháp lý, làm rõ các

đặc điểm của người khuyết tật là một trong những cơ sở, căn cứ khoa học tác động
đến việc quy định, ban hành, thực thi, áp dụng pháp luật và chính sách với người
khuyết tật. Theo đó, các quy định pháp luật, chính sách của nhà nước phải đảm
bảo điều chỉnh mối quan hệ của cái chung giữa người khuyết tật với các công dân
bình thường khác trong xã hội; giữa người khuyết tật nói chung với nhau. Đồng
thời, phải đảm bảo cái riêng giữa người khuyết tật với cộng đồng còn lại của xã
hội, cái đặc thù của những người khuyết tật với các dạng tật khác nhau của chính
người khuyết tật. Nói cách khác, về phương diện triết học điều chỉnh mối quan hệ
giữa người khuyết tật với “phần còn lại” của xã hội và giữa người khuyết tật với
nhau thì “cái chung” phải bao hàm “cái riêng” nhưng “cái riêng” thì bao giờ cũng
phong phú hơn “cái chung”.
1.2.1.

Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế –
xã hội.

Trước hết người khuyết tật là nhóm cư dân đặc biệt phải chịu thiệt thòi về
mặt kinh tế – xã hội và nhân khẩu học: Những gia đình có người khuyết tật có xu
hướng hoặc là thiếu nhân lực lao động (vì vậy có năng lực sản xuất thấp) hoặc có
quá nhiều người sống phụ thuộc (gánh nặng về kinh tế). Học vấn của các thành
viên trong những gia đình người khuyết tật thường không cao (chất lượng lao


động thấp). Nhiều chủ hộ gia đình lại chính là người khuyết tật có sức khỏe yếu.
Tài sản của gia đình người khuyết tật thường nghèo nàn, thu nhập ở mức thấp – vì
vậy, điều kiện sống và sinh hoạt là không tốt, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, sức
khỏe, phúc lợi của các thành viên trong gia đình. Ngoài ra, người khuyết tật từ 15
tuổi trở lên rất khó có việc làm, hầu hết người khuyết tật hoặc chưa bao giờ đi làm
hoặc đã từng đi làm nhưng lại bị thất nghiệp. Khuyết tật là nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng thất nghiệp của họ.

Mặt khác, vì tình trạng do khuyết tật gây ra, người khuyết tật phải gánh
chịu rất nhiều thiệt thòi trong mọi mặt cuộc sống. Khuyết tật là nguyên nhân chính
gây ra nhiều khó khăn cho người khuyết tật trong việc thực hiện các công việc
sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn,
sinh con và tham gia các hoạt động xã hội. Để khắc phục những khó khăn này,
người khuyết tật chủ yếu dựa vào gia đình, nguồn giúp đỡ chính đối với họ.
Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn do thái độ tiêu cực của cộng đồng
đối với người khuyết tật.
Quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu cực, dẫn đến sự kì thị và
phân biệt đối xử. Điều này diễn ra dưới nhiều hình thức, ở nhiều bối cảnh khác
nhau (gia đình, cộng đồng, trường học, bệnh viện, nơi làm việc và các tổ chức ở
địa phương). Trong cộng đồng, nhiều dân cư coi người khuyết tật là “đáng
thương”, không có cuộc sống “bình thường”, là “gánh nặng” của xã hội… Về
nhận thức pháp luật, nhiều người không hề biết đến quy định của pháp luật về
người khuyết tật. Từ đó dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối xử và nó diễn ra ở nhiều
nơi, nhiều lĩnh vực: gia đình, nơi làm việc, giáo dục, hôn nhân gia đình, tham gia
hoạt động xã hội, thậm chí sự kì thị từ chính người khuyết tật (hầu hết người
khuyết tật cho rằng mình kém cỏi hơn, mặc cảm, thấy khó hòa nhập cộng đồng).
Hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật còn rất hạn chế, thực tế cho thấy có
sự khác biệt lớn giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp đỡ mà họ nhận
được. Sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng mang tính từ thiện nhiều hơn là phát
triển con người. Hầu hết người khuyết tật được hỗ trợ như bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, lương thực… nhưng lại ít được trợ giúp trong việc làm, dạy nghề và
tham gia hoạt động xã hội.


1.2.2.

Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật
và mức độ khuyết tật.


Khuyết tật được phân loại dựa theo các quan điểm khác nhau của các nhà
nghiên cứu nhưng nói chung thường dựa trên tiêu chí của sự khiếm khuyết bộ
phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng. Ở Việt Nam, việc phân loại người khuyết
tật dựa trên quy định về dạng tật và mức độ khuyết tật. Theo đó các dạng tật bao
gồm: Khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần
kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mỗi loại khuyết tật này có
những đặc điểm nhất định về tâm, sinh lý qua đó tác động đến các nhu cầu và sự
hòa nhập của người khuyết tật.
-

-

-

Khuyết tật vận động: Là những người có cơ quan vận động bị tổn thương, biểu
hiện dễ nhận thấy là có khó khăn trong ngồi, nằm, di chuyển, cầm, nắm…Do đó,
người khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui
chơi, học tập và lao động. Tuy nhiên, đa số người khuyết tật vận động có bộ não
phát triển bình thường nên họ tiếp thu được chương trình học tập, làm được việc
có ích cho gia đình, bản thân và xã hội. Người khuyết tật về vận động cần được sự
hỗ trợ về phương tiện đi lại (xe lăn, gậy chống…) và đặc biệt là không gian cần
thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển khi làm việc, đảm bảo các nhu cầu cuộc
sống bình thường của con người và tham gia các hoạt động xã hội.
Khuyết tật nghe, nói (khuyết tật ngôn ngữ): Người khuyết tật nghe, nói là người có
khó khăn đáng kể về nói và/hoặc về đọc viết làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình
giao tiếp và học tập. Khó khăn về nói, nghe, đọc của người khuyết tật ngôn ngữ
ảnh hưởng trực tiếp đến giao tiếp từ đó làm hạn chế sự làm việc, học tập, hòa nhập
cộng đồng của họ. Điều này làm họ dễ cảm thấy mất tự chủ, thiếu tự tin trong giao
tiếp với người xung quanh – nếu như khiếm khuyết của họ thay vì nhận được sự

cảm thông lại vấp phải thái độ giễu cợt hoặc thiếu kiên nhẫn của người nghe.
Khiếm thính: Theo quan điểm y tế (lâm sàng) thì người khiếm thính là những
người bị mất hoặc suy giảm về sức nghe kéo theo những hạn chế về phát triển
ngôn ngữ nói cũng như khả năng giao tiếp. Đặc điểm của những người khó khăn
về nghe (khiếm thính) là những người bị phá hủy cơ quan thính giác ở các mức độ
khác nhau dẫn đến việc người khiếm thính không có khả năng tri giác thế giới âm
thanh đặc biệt ngôn ngữ âm thanh. Hỗ trợ cần thiết với họ là phát hiện, chẩn đoán,
chữa trị sớm; cung cấp phương tiện trợ giúp (máy trợ thính); giao tiếp tổng hợp.


-

-

Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Là những người có tật về mắt như:
hỏng mắt, không đủ sức nhận biết thế giới hữu hình bằng mắt hoặc nhìn thấy
không rõ ràng. Tổ chức y tế thế giới (1992) còn đưa ra các khái niệm để phân biệt
mức độ khuyết tật nhìn khác nhau: Khiếm thị, nhìn kém, mù (hoàn toàn). Người
khuyết tật nhìn có trí tuệ phát triển bình thường, có hai cơ quan phân tích thường
rất phát triển: thính giác và xúc giác, nếu được huấn luyện sớm và khoa học hoàn
toàn có thể thay thế cơ quan thị giác bị phá hủy. Ngôn ngữ, tư duy, hành vi, cách
ứng xử của những người này cũng giống người bình thường. Tuy nhiên, cũng có
những tồn tại nhất định như ngôn ngữ thiếu hình ảnh, không thể viết và đọc bằng
chữ phẳng. Ít di chuyển nên thể lực giảm sút, cơ bắp thiếu linh hoạt nên dễ tự ty
và thiếu niềm tin ở bản thân. Môi trường cần thiết với họ là tránh tiếng ồn, đảm
bảo đủ ánh sáng, dùng những màu tương phản, hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt
động khác, cung cấp thiết bị phóng đại hình ảnh, công cụ di chuyển hỗ trợ thông
minh, lối đi thuận tiện và dễ nhận biết…
Khuyết tật trí tuệ: Xét về mức độ, đây là nhóm khuyết tật thường chịu nhiều sự
thiệt thòi và khó khăn trong cuộc sống. Khuyết tật về trí tuệ được xác định khi:

chức năng trí tuệ dưới mức trung bình (chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp
hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân); bị thiếu hụt hoặc khiếm
khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc,
sống tại gia đình, kỹ năng xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự
định hướng, kỹ năng học đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn; tật xuất
hiện trước 18 tuổi.
Người khuyết tật về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống
bình thường của họ và người thân cả về trí tuệ (phần lớn chỉ dùng ở mức độ tư
duy trực quan cụ thể, mức độ, nhịp độ tư duy của các thành phần không giống
nhau):
• Về trí nhớ (gặp khó khăn về trí nhớ cả ngắn hạn và dài hạn, khó khăn trong
việc nhớ những gì mang tính trìu tượng hay có quan hệ logic, dễ quên
những gì gần gũi với cuộc sống và không gắn với nhu cầu bản thân).
• Về chú ý (phần đông người khuyết tật có khó khăn khi phải tập trung và
duy trì sự chú ý vào một công việc nào đó, đặc biệt là chú ý đến lời nói. Do
duy trì chú ý kém nên việc tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin của người
khuyết tật thường gặp khó khăn).
• Về kỹ năng giao tiếp xã hội (đa phần người khuyết tật trí tuệ yếu kém về
các kỹ năng xã hội, rất ít thậm chí không có nhu cầu giao tiếp).




Về hành vi (người khuyết tật trí tuệ thường có những hành vi làm cho họ
khó hòa nhập: hành vi tự lạm dụng, quá hiếu động, quá ù lì…).

Trên đây là những nhóm người khuyết tật chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số
người khuyết tật. Xét ở góc độ đặc điểm về tâm, sinh lý cho thấy tính đa dạng của
khuyết tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp lý
cũng cần tính đến yếu tố đặc thù của các dạng khuyết tật khác nhau.

Ngoài các nhóm trên còn có những nhóm người khuyết tật như: người bị rối
loạn hành vi cảm xúc, người mắc hội chứng tự kỉ, người bị rối loạn ngôn ngữ,
người đa tật…
2. Khái quát chung về pháp luật người khuyết tật:
2.1.
Khái niệm pháp luật người khuyết tật.
Người khuyết tật là một bộ phận của xã hội, dù chỉ là một nhóm nhỏ nhưng
cũng là thành phần cấu thành của cộng đồng xã hội. Quốc gia nào cũng có người
khuyết tật, và hơn 2/3 trong đó tập trung ở các nước đang phát triển. Nhiều ý kiến
cho rằng sự thiệt thòi, tình trạng bất lợi thậm chí có những trường hợp được cho là
bất công của người khuyết tật trong nhiều lĩnh vực của đời sống là hậu quả không
thể tránh khỏi từ sự sút kém về tinh thần và thể chất của người khuyết tật. Trong
đó việc từ chối các cơ hội việc làm công bằng cho người khuyết tật chính là một
trong những nguyên nhân gốc rễ dẫn đến sự nghèo đói và tình trạng bị phân biệt
đối xử cho nhiều trong số những người khuyết tật. Có nhiều bằng chứng cho thấy
người khuyết tật dễ vấp phải những bất lợi, bị đứng ngoài lề và bị phân biệt đối xử
trên thị trường lao động và cả ở những nơi khác hay trong các lĩnh vực khác nhau.
Biểu hiện của hậu quả là tỉ lệ người khuyết tật không có việc làm cao hơn tỉ lê
những người khác. Kể cả khi họ có việc làm thì đó cũng là những công việc không
chính thức trong thị trường lao động với đồng lương rẻ mạt, vị trí tri thức kĩ năng
thấp, không đòi hỏi tay nghề, có ít hoặc không có cơ hội thăng tiến trong nghề
nghiệp.


Mỗi quốc gia đều có luật pháp phù hợp với hoàn cảnh riêng của đất nước
nhằm tăng cường các cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật trên thị trường lao
động, trong các lĩnh vực đời sống của xã hội cũng như có các biện pháp chính
sách để thực thi pháp luật cho người khuyết tật. Hệ thống pháp luật Việt Nam
cũng đã có những quy định tương thích có hiệu lực cao để đảm bảo thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật dưới góc độ quyền con người dựa trên

chân lý đơn giản nhưng quan trọng rằng người nào cũng là con người và họ phải
được tôn trọng, bình đẳng như nhau. Tương ứng với các quyền của từng cá nhân,
nhà nước có trách nhiệm bảo vệ, tôn trọng và thực thi các quyền con người.
Luật người khuyết tật là nội dung mới được nhà nước đưa vào nghiên cứu
và giảng dạy. Các quy phạm pháp luật về người khuyết tật nằm rải rác ở nhiều loại
văn bản pháp quy thuộc các lĩnh vực khác nhau (dân sự, lao động, hôn nhân gia
đình, giáo dục, đào tạo…). Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu, giảng dạy về luật
người khuyết tật cũng chưa được đầu tư, quan tâm thỏa đáng cho nên khái niệm
pháp lý nước ta chưa có sự thống nhất về khái niệm pháp luật người khuyết tật.
Tuy nhiên, về phương diện lý luận và từ quan điểm tiếp cận so sánh có thể xem
xét khái niệm luật người khuyết tật dưới góc độ đặc thù của đối tượng – cụ thể là
người khuyết tật từ đặc điểm của người khuyết tật, các quan hệ xã hội của người
khuyết tật trong các lĩnh vực của đời sống như y học, giáo dục, tâm lý, dân sự, lao
động,....
Luật người khuyết tật theo nghĩa chung là một lĩnh vực pháp luật bao gồm
các quy phạm được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật
khác nhau (Hiến pháp, hành chính, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, an sinh xã
hội, tài chính, hình sự…) điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền của
người khuyết tật với tư cách là các quyền con người. Theo nghĩa riêng, luật người
khuyết tật bao gồm các quy phạm nhằm điều chỉnh các quan hệ trực tiếp làm phát


sinh cũng như cách thức thực thi và đảm bảo các quyền và trách nhiệm cụ thể của
người khuyết tật. Cụ thể đó là các quan hệ xã hội nhằm xác định mức độ khuyết
tật; quan hệ chăm sóc sức khỏe; quan hệ trong lĩnh vực giáo dục, việc làm, học
nghề; quan hệ bảo trợ xã hội; quan hệ về việc xác định trách nhiệm của các chủ
thể… với người khuyết tật. Như vậy, luật người khuyết tật là tổng thể các quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình đảm bảo các quyền và trách nhiệm của người khuyết
tật.

2.2.

Các nguyên tắc cơ bản xây dựng nên pháp luật người khuyết
tật.

Nước ta là thành viên của ILO (Tổ chức lao động quốc tế) và đã tham gia
ký Công ước Liên hợp quốc về Quyền của người khuyết tật, pháp luật Việt Nam
cần phải và đã bước đầu nội luật hóa các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Công
ước.Xong khác với một số nước, Luật Người khuyết tật của Việt Nam không có
điều luật cụ thể quy định về các nguyên tắc. Tuy nhiên, trên cơ sở nội dung pháp
luật đã được ban hành và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam có thể xác định một số
nguyên tắc cơ bản của pháp luật người khuyết tật như sau:
2.2.1.

Nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của
Người khuyết tật:

Ngày nay, với sự nỗ lực của người khuyết tật, tổ chức xã hội của họ và cộng
đồng quốc tế – trên cơ sở các quyền con người, Đại hội đồng Liên hiệp quốc tại
kỳ họp 61 ngày 06/12/2006 đã thông qua Công ước về quyền của người khuyết
tật, tại khoản 1 Điều 4 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo đảm và
thúc đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do của tất cả
người khuyết tật mà không có bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào do bị khuyết
tật”. Hiện nay, khái niệm quyền của người khuyết tật được chia sẻ ở cấp độ toàn


cầu và nhờ đó nó dần là một phương tiện mà người khuyết tật có thể sử dụng như
một công cụ để biến đổi nhận thức xã hội.Quyền của người khuyết tật dần mang
tính phổ quát có nghĩa là chúng được thừa nhận và áp dụng ở khắp nơi. Ở phạm vi
quốc gia, quyền của người khuyết tật trong phạm vi, mức độ khác nhau được văn

bản pháp lý cao nhất – Hiến pháp quy định. Ở Việt Nam, tại Điều 67 Hiến pháp
1992 quy định sự cam kết của nhà nước và xã hội về những đảm bảo cho người
khuyết tật. Ngoài ra, Quốc hội Việt Nam đã thông qua luật Người khuyết tật (ngày
17 tháng 06 năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011) trong đó tư
tưởng pháp lý chủ đạo là tiếp cận quyền của người khuyết tật trong mối quan hệ
với quyền con người theo tinh thần của Công ước về Quyền của người khuyết tật
mà Việt Nam đã ký kết.Tuy nhiên, với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của luật
người khuyết tật – cũng cần tiếp cận một cách cân bằng mối quan hệ giữa quyền
của người khuyết tật với trách nhiệm của họ trong rất nhiều mối tương quan với
vấn đề quyền con người.
2.2.2.

Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử:

Theo điều 2 luật người khuyết tật Việt Nam năm 2010 thì:
“ Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng người
khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó.”


Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ

báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật
của người đó.”
Nguyên tắc bình đẳng liên quan mật thiết đến khái niệm nhân phẩm.
Nguyên tắc này xuất phát từ tư tưởng cho rằng tất cả mọi người, bất kể họ khác
nhau về trí lực, thể lực và các đặc điểm khác, đều có giá trị và tầm quan trọng
ngang nhau. Mỗi một con người đều có quyền được hưởng và cần được nhận sự


quan tâm và tôn trọng như nhau. Điều 1 của Tuyên Bố Toàn cầu về Nhân Quyền

(1948) thì: " Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do, bình đẳng về nhân phẩm và
quyền ...". Tuyên bố của Tổ chức Lao động Quốc tế tại Philadelphia (1944) đã
khẳng định mọi con người, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng tôn giáo, giới
tính, đều có quyền được mưu cầu sự đầy đủ về vật chất và phát triển về tinh thần
trong điều kiện tự do, bảo đảm nhân phẩm, bảo đảm kinh tế và bình đẳng (trên
danh nghĩa, về cơ hội, về kết quả). Điều này có nghĩa là tất cả mọi người, kể cả
nam và nữ, cần được đối xử công bằng và có cơ hội bình đẳng để tham gia các
hoạt động xã hội, kể cả thị trường lao động. Vì vậy, người khuyết tật có quyền
được đối xử công bằng và không bị phân biệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006 cũng đã ghi nhận nguyên
tắc này. Pháp luật các nước trên thế giới ở những mức độ khác nhau cũng đã quy
định vấn đề này trong các văn bản luật.
Nguyên tắc bình đẳng ở đây được hiểu là sự ngang nhau trong việc tiếp cận
các cơ hội về học tập, việc làm; chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ công… của người
khuyết tật trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Tuy nhiên, nguyên tắc bình đẳng không
có nghĩa là bằng nhau hoặc/và như nhau. Người khuyết tật gặp phải những dạng
tật khác nhau và mức độ khuyết tật không giống nhau cần phải được sự đảm bảo
khác nhau (ví dụ: Một người bị khuyết tật đặc biệt nặng cần phải có sự bảo trợ
hoàn toàn của xã hội, trong khi một người bị khuyết tật nhẹ thì không cần phải
như vậy). Tương tự, việc ngăn cấm phân biệt đối xử không có nghĩa là quy cho
mọi hình thức phân biệt là trái pháp luật (ví dụ: Trong quan hệ lao động, người sử
dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động phải có những kỹ năng và trình
độ cần thiết mà công việc hoặc môi trường công việc đòi hỏi và những yêu cầu
này là chính đáng. Do đó, dẫn đến khả năng loại trừ một số người khuyết tật khỏi
danh sách người tham gia làm việc, nhưng những trường hợp như vậy không được


coi là phân biệt đối xử – Chẳng hạn: Một công ty vệ sĩ tuyển nhân viên và đưa ra
những tiêu chuẩn về hình thức, sức khỏe, chiều cao, phản xạ…dẫn đến người
khuyết tật (khiếm thính, khiếm thị…) không được vào làm việc. Những yêu cầu

trong trường hợp như trên là hợp pháp và đúng mức, do vậy nó đơn thuần là một
yêu cầu mang tính nghề nghiệp và không bị coi là phân biệt đối xử.
3.

Việc làm đối với người khuyết tật.
3.1.

Khái niệm, ý nghĩa và các nguyên tắc cơ bản của việc làm
đối với người khuyết tật.
3.1.1.

Khái niệm việc làm đối với người khuyết tật

Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người. Lao động không chỉ
tạo ra của cải vật chất mà còn cải tạo con người, biến con người thành sinh vật xã
hội có ý thức, tham gia các quan hệ xã hội, hình thành xã hội. Lao động được thực
hiện chủ yếu dưới hình thức việc làm. Con người có thể lao động bằng cách tham
gia vào một quan hệ nào đó để được trả công (làm việc cho người khác) hoặc
dùng tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của mình để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự làm công việc cho hộ gia đình của
mình (tự tạo việc làm). Bởi vậy, theo nghĩa chung nhất việc làm là công việc mà
người lao động tiến hành để có thu nhập.Việc làm cũng có thể là một hoặc là sự
tập hợp của một số công việc, thuộc hệ thống ngành nghề kinh tế quốc dân, do
người lao động thực hiện thông qua các hoạt động lao động (làm việc) nhằm tạo ra
những giá trị với mục đích thỏa mãn những nhu cầu của đời sống.
Ở Việt Nam, khái niệm việc làm chính thức được ghi nhận trong văn bản
pháp luật trong Bộ luật lao độngvào năm 1994. Trước đây, trong các văn bản pháp
luật, tuy có ít nhiều đề cập đến vấn đề việc làm nhưng chủ yếu là dưới góc độ cơ
chế chính sách đảm bảo việc làm cho người lao động chứ không đưa ra khái niệm,



định nghĩa chính thức về việc làm. Khái niệm việc làm trong BLLĐ đã không chỉ
phản ánh được nội dung kinh tế-xã hội của việc làm mà còn phản ánh tính chất
pháp lý của việc làm. Cụ thể điều 13 BLLĐ việc làm được hiểu là mọi hoạt động
lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm. Hoạt động lao động nói
chung được hiểu là sự tác động của sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản
phẩm và dịch vụ. Tuy nhiên, những hoạt động được coi là việc làm ở đây phải là
những họat động có tính thường xuyên liên tục và mang tính nghề nghiệp. Vì vậy,
người được coi là có việc làm phải là người thực hiện các hoạt động lao động
trong phạm vi nghề nhất định và trong thời gian tương đối ổn định. Đồng thời các
hoạt động lao động này phải tạo ra thu nhập và hoạt động đó phải là hợp pháp.
Việc làm cũng được đặt ra đối với người khuyết tật. Việc làm không chỉ
giúp người khuyết tật có thu nhập ổn định cuộc sống mà giúp họ hòa nhập vào
công đồng, cảm thấy mình là người có ích cho xã hội và đặc biệt là để họ thấy
rằng mình cũng được bình đẳng như những người bình thường khác. Người
khuyết tật cũng có thể tự mình tự tạo việc làm hoặc tham gia quan hệ lao động để
có việc làm. Việc làm đối với người khuyết tật cũng tương tự như những người
lao động khác. Vì vậy, việc làm đối với người khuyết tật cũng được hiểu là các
hoạt động lao động tạo ra thu nhập cho người khuyết tật và không bị pháp luật
cấm.
Tuy nhiên, đề cập đến vấn đề việc làm cho người khuyết tật là đề cập dưới
góc độ cơ hội việc làm cho họ. Việc làm ở đây bao gồm cả việc tiếp nhận đào tạo
nghề, được tiếp nhận việc làm và các loại nghề nghiệp và cả các điều kiện sử dụng
lao động cũng như đảm bảo việc làm, tức là đề cập đến cả một quá trình làm việc
của người khuyết tật. Đây cũng chính là quan niệm về việc làm theo quan niệm
của ILO trong công ước số 111- công ước về phân biệt đối xử trong việc làm nghề


nghiệp. Theo đó, người khuyết tật cũng được đối xử bình đẳng về cơ hội việc làm
như những người lao động khác mà không bị phân biệt đối xử.


3.1.2.
-

Ý nghĩa của việc làm đối với người khuyết tật.

Việc làm giúp người khuyết tật có thu nhập, ổn định cuộc sống.
Việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động bởi nó giúp
họ có được thu nhập, ổn định đời sống. Đối với người khuyết tật, việc làm càng có
ý nghĩa hơn. Từ xưa đến nay, theo quan niệm truyền thống và đạo đức, người ta
thường nhìn nhận người khuyết tật như là một đối tượng yếu thế cần phải có sự
trợ giúp. Xã hội, cộng đồng cũng như gia đình cần phải trợ giúp và chăm lo cho
họ. Người khuyết tật sống chủ yếu dựa vào gia đình, xã hội và cộng đồng nên đời
sống vật chất tinh thần của họ còn gặp nhiều khó khăn. Hiện có tới 80% người
khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết tật ở nông thôn sống dựa vào gia đình,
người thân và trợ cấp xã hội, 32,5% thuộc diện nghèo. Chính vì vậy, người khuyết
tật đôi khi bị tâm lý chán nản vì cho rằng mình là người “ăn bám” gia đình và xã
hội. Do đó, nếu người khuyết tật có việc làm, đời sống vật chất cũng như tinh thần
của người khuyết tật sẽ được nâng cao. Họ sẽ có thu nhập để nuôi sống chính bản
thân mình, không cần phải sống dựa vào sự giúp đỡ của người khác, thâm chí họ
có thể hỗ trợ gia đình và đóng góp cho xã hội theo nhiều hình thức khác nhau.
Quan niệm, cũng như cách nhìn nhận về người khuyết tật vì vậy sẽ có sự thay đổi.
Từ quan điểm nhìn nhận người khuyết tật dưới góc độ đạo đức, đó là đối tượng
cần trợ giúp sẽ chuyển sang góc độ tiếp cận quyền của người khuyết tật. Đó là
quyền được làm việc, được cống hiến sức lao động của mình để tạo ra thu nhập
cho mình và xã hội.


-


Việc làm giúp người khuyết tật hòa nhập vào cộng đồng và tự tin hơn trong cuộc
sống.
Việc làm không chỉ giúp người khuyết tật có thu nhập ổn định đời sống mà
quan trọng hơn là nó giúp người khuyết tật có thể hòa nhập vào cộng đồng và tự
tin hơn trong cuộc sống. Nhiều người mặc dù bị khuyết tật nhưng vẫn ý thức được
vai trò và vị trí của họ trong xã hội, tự mình vươn lên trong cuộc sống học tập và
lao động như những người bình thường nhưng cũng có một bộ phận người khuyết
tật luôn luôn trong trạng thái tự ty, mặc cảm với số phận kém may mắn và phó
mặc số phận cho trời quyết định và chỉ biết sống dựa vào gia đình và sự trợ giúp
của Nhà nước. Chính vì vậy mà họ ngại hòa nhập vào cộng đồng. Đây chính là
những rào cản khiến họ trở nên không tự tin trong cuộc sống, thu hẹp mình lại,
ngại giao tiếp. Việc làm sẽ là điều kiện và cơ hội tốt nhất để người khuyết tật trở
nên tự tin trong cuộc sống và tái hòa nhập cộng đồng. Môi trường lao động là môi
trường có sự tham gia của nhiều người, hoạt động lao động bao giờ cũng là hoạt
động mang tính tập thể. Bởi vậy, khi người khuyết tật có việc làm, họ sẽ được tiếp
xúc với nhiều người và làm việc trong môi trường tập thể. Điều đó sẽ nhanh
chóng giúp họ tái hòa nhập vào cộng đồng. Mặt khác, việc làm tạo ra thu nhập cho
người khuyết tật nên họ sẽ cảm thấy tự tin hơn trong cuộc sống khi thấy mình
cũng làm việc và cũng có ích như những người khác . Đồng thời, nó cũng xây
dựng nên lòng tự tin và tạo ra các kênh tương tác xã hội từ đó mang lại lòng tự
hào và nhân phẩm cho người khuyết tật. Theo ông Tim de Meyer, chuyên gia về
các tiêu chuẩn lao động quốc tế và luật Lao động, văn phòng tiểu khu vực của ILO
tại khu vực Đông Á, Băng cốc thì: “ việc làm là công cụ quan trọng nhất để có
thể tái hòa đồng những người thường có xu hướng bị bỏ bên rìa xã hội” .

-

Việc làm cho người khuyết tật góp phần phát huy nguồn nhân lực cho xã hội.



×