MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, bảo hiểm chính là biện pháp hữu hiệu và chắc chắn trong
việc khắc phục các tổn thất tài chính mà rủi ro mang đến. Sự ra đời và tồn tại của các
phương thức bảo hiểm đóng vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mọi
cá nhân, tổ chức và cả quốc gia.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo chắc chắn cho việc bồi
thường thiệt hại, khắc phục kịp thời về tài chính đối với người bị thiệt hại và người có
trách nhiệm bồi thường. Ngày nay, trong xu thế hội nhập cùng nền kinh tế khu vực và
thế giới, các sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng và phong phú hơn, các đối tượng
quan tâm đến bảo hiểm nói chung, bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng cũng gia
tăng. Cùng với đó là sự gia tăng những tranh chấp trong quá trình ký kết và thực hiện
hợp đồng; những hành vi trục lợi bảo hiểm ngày càng tăng và trở nên tinh vi hơn,
cũng bởi vì những kiến thức của người tham gia bảo hiểm cịn hạn chế, cùng với đó
những quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ đã tạo lỗ hổng cho các hoạt động
gian lận bảo hiểm. Vì lẽ đó, những phân tích, lý giải cụ thể các quy định của pháp luật
về các yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, cũng như thực tiễn
về vấn đề này là rất cần thiết. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, trong khn
khổ bài học kỳ em xin trình bày vấn đề “ Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo
quy định của pháp luật hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiền.”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
Có thể nói, bảo hiểm là một hình thức khắc phục thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khi
gặp những sự kiện rủi ro gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của mình. Khi
có rủi ro xảy ra, người tham gia bảo hiểm được tổ chức bảo hiểm bồi thường thiệt hại
nhằm khắc phục hậu quả xảy ra. Mức độ bồi thường bao nhiêu phụ thuộc vào hợp
đồng bảo hiểm mà các bên thoả thuận. Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì hợp
đồng bảo hiểm là một nội dung cơ bản, quan trọng và không thể thiếu.
Có lẽ vì thế mà trong Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (Luật KDBH), đã quy
định về Hợp đồng bảo hiểm ở ngay chương II của luật sau phần những quy định
chung. Khoản 1 điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm định nghĩa: "Hợp đồng bảo hiểm
là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua
bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm". Cùng với đó, Điều 567 BLDS cũng quy định : “hợp đồng bảo hiểm là sự thoả
thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, cịn bên bảo
hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm”. Như vậy có thể hiểu hợp đồng bảo hiểm là việc tổ chức bảo hiểm cam kết bảo
đảm bồi thường một số tiền nhất định cho cá nhân, tổ chức khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra và có gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm trong một thời gian nhất định, cịn
bên mua bảo hiểm phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.
Có rất nhiều loại hợp đồng bảo hiểm tùy thuộc vào tiêu chí phân loại khác nhau. Căn
cứ vào đối tượng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm có thể được phân chia thành các loại
sau: Hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự.
II. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
1. Lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
2
1.1. Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là hợp đồng về bảo hiểm trách nhiệm
dân sự hay chính là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm (doanh nghiệp bảo
hiểm) với bên tham gia bảo hiểm (tổ chức, cá nhân), theo đó doanh nghiệp bảo hiểm
cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba thay cho
bên được bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp
đồng, cịn bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang những đặc điểm chung của hợp đồng
bảo hiểm, đồng thời có những đặc trưng riêng.
1.2 Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Ngoài những đặc điểm chung giống như mọi hợp đồng bảo hiểm khác, hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cịn có những đặc trưng riêng biệt như:
Thứ nhất, bảo hiểm trách nhiệm dân sự có bản chất là một loại hình bảo hiểm
thiệt hại.
Bảo hiểm thiệt hại là loại hình bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là những giá trị
vật chất tính được thành tiền. Loại hình bảo hiểm thiệt hại có bản chất là sự thỏa
thuận bồi thường toàn bộ hay một phần giá trị thiệt hại vật chất đã xảy ra cho người
tham gia bảo hiểm hoặc cho người được bảo hiểm, trên cơ sở số phí bảo hiểm tương
ứng mà khách hàng tham gia bảo hiểm phải đóng góp cho nhà cung cấp dịch vụ bảo
hiểm. Trong thực tiễn, người ta từng biết đến hai loại hình bảo hiểm thiệt hại đó là
bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Như vậy, để yêu cầu doanh nghiệp
bảo hiểm bồi thường thì nhất thiết người tham gia bảo hiểm phải chứng minh được
rằng đã có thiệt hại xảy ra cho tài sản của họ (trường hợp đối với bảo hiểm tài sản)
hoặc đã phát sinh trách nhiệm dân sự - trách nhiệm bồi thường của họ đối với người
thứ ba (trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự) Vì vậy, trong hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự đối tượng được hướng đến là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại,
“ Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của
người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp luật ”. (Điều 52
Luật kinh doanh bảo hiểm)
3
Đây chính là điểm khác biệt giữa loại hình bảo hiểm thiệt hại với các loại hình
bảo hiểm khác như bảo hiểm con người mà ở trong đó, yếu tố thiệt hại khơng nhất
thiết là cần có.
Thứ hai, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, lỗi của người tham gia
bảo hiểm trong khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người thứ ba chính là cơ sở để
phát sinh trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm.
Trong khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người thứ ba chính là cơ sở để
phát sinh trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba và do
đó, cũng làm cơ sở để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của bên bảo hiểm đối với
người thứ ba, thay cho bên tham gia bảo hiểm.
Yếu tố lỗi trong trường hợp này được hiểu là lỗi vô ý hoặc cố ý vi phạm quy
định của pháp luật mà gây ra thiệt hại cho người thứ ba, chứ không phải cố ý trực tiếp
gây thiệt hại nhằm mục đích trục lợi. Trên thực tế lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi
suy đoán, nên người gây thiệt hại bị suy đốn là có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt
hại, trừ trường hợp họ chứng minh được thiệt hại xảy ra trong trường hợp phịng vệ
chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt
hại. Căn cứ vào mức độ lỗi để xác định người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ,
một phần hoặc liên đới bồi thường, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm xác định trách
nhiệm bồi thường của mình.
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng bảo hiểm là trách
nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba (người bị thiệt
hại)
Khác với hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự ln
có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường về kinh tế mà người được bảo hiểm ,
người tham gia bảo hiểm có thể phải đảm nhận vì đã gây thiệt hại về vật chất cho
người khác trong tương lai. Do vậy, đối tượng của loại hợp đồng này thường khó xác
định và có thể dẫn đến tranh chấp giữa người bảo hiểm với người được bảo
hiểm/người tham gia bảo hiểm và người được trả tiền bồi thường/ người bị thiệt hại.
Về lý thuyết, trách nhiệm pháp lý dân sự - trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
4
được bảo hiểm/người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba sẽ phát sinh khi có đủ
ba điều kiện sau đây:
- Phải có hành vi gây thiệt hại của người tham gia bảo hiểm/ người được bảo
hiểm đối với người thứ ba. Hành vi gây thiệt hại ở đây được hiểu là hành vi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, hoặc hành vi gây thiệt hại trái
pháp luật. Trong thực tế, có những hành vi gây thiệt hại cho người khác nhưng không
bị coi là trái pháp luật và do đó người gây thiệt hại khơng có trách nhiệm bồi thường
(ví dụ, cảnh sát dùng xe máy, ô tô để đuổi bắt tội phạm, gây thiệt hại về tài sản, tính
mạng, sức khỏe cho người thứ ba trong khi đang thi hành công vụ…)
- Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem
xét đến nghĩa vụ bồi thường có phát sinh hay khơng. Thiệt hại bao gồm những thiệt
hại về tài sản và thiệt hại về con người. Đối với những thiệt hại về tài sản, về nguyên
tắc phải là những thiệt hại thực tế, thực sự xảy ra và có thể tính tốn được bằng tiền.
Đối với thiệt hại về con người, những thiệt hại này khó có thể đo được bằng tiền và ở
những người khác nhau thì mức độ thiệt hại có thể khác nhau nhưng với mục đích an
ủi, động viên đối với những người bị thiệt hại và thân nhân của họ, tồn án có thể
phán quyết bằng những khoản tiền nhất định.
- Có mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi gây thiệt hại của người tham gia
bảo hiểm và hậu quả thiệt hại của bên thứ ba. Được coi là có mối quan hệ nhân quả
khi thiệt hại xảy ra đúng là kết quả tất yếu của hành vi gây thiệt hại do người tham gia
bảo hiểm thực hiện và ngược lại, những hành vi đó thực sự là nguyên nhân trực tiếp
của thiệt hại xảy ra.
Thứ tư, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, doanh nghiệp bảo hiểm
chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi người được bảo hiểm nhận được yêu cầu
phải bồi thường của người bị thiệt hại.
Nếu đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng người thứ ba khơng
địi người tham gia bảo hiểm phải bồi thường, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không
phải chịu trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm. Việc bồi thường thiệt hại có
thể là bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, cũng có thể là bồi thường thiệt hại theo
5
hợp đồng. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người thứ ba có thể là
bất kì tổ chức hoặc cá nhân nào bị thiệt hại. Còn bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
thì người thứ ba được xác định cụ thể là người có một quan hệ hợp đồng đối với
người tham gia bảo hiểm và bị thiệt hại từ hợp đồng đó do hành vi của người tham gia
bảo hiểm gây ra. Hợp đồng bảo hiểm chỉ tồn tại giữa người tham gia bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm, người thứ ba khơng có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp
trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu pháp luật khơng
có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền địi bồi thường đối với người tham gia
bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường cho người tham
gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba thuộc về người tham gia
bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm có thể thoả thuận về
việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại.
Trong một số trường hợp, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt
hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị
thiệt hại, pháp luật quy định người thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp
bảo hiểm để yêu cầu bồi thường.
2. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm gồm: Bên nhận bảo hiểm (bên bán bảo
hiểm) và bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm).
Bên nhận bảo hiểm: Bên nhận bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của người
tham gia bảo hiểm và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo quy định của
pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là một tổ chức có
tư cách pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được gọi là doanh
nghiệp bảo hiểm.
Bên tham gia bảo hiểm: Bên tham gia bảo hiểm là bên đã nộp cho bên nhận bảo
hiểm một khoản tiền là phí bảo hiểm. Khác với bên nhận bảo hiểm, bên tham gia bảo
hiểm là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi có nhu cầu bảo hiểm về một đối tượng bảo
6
hiểm nhất định hoặc trong trường hợp pháp luật buộc phải tham gia bảo hiểm về một
trách nhiệm dân sự nhất định. Nếu bên tham gia bảo hiểm là cá nhân thì phải có đủ
năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng tự có của chủ thể trong
việc thực hiện kiểm sốt và làm chủ hành vi của mình. Chủ thể tham gia hợp đồng
bảo hiểm bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình…
2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Theo quy định của pháp luật thì hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn
bản, văn bản hợp đồng bảo hiểm được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một trong ba loại hợp đồng bảo hiểm, do đó cũng tuân
theo các quy định pháp luật về hình thức hợp đồng. Hiện nay, đa phần các hợp đồng
bảo hiểm được thể hiện dưới hai dạng là giấy chứng nhận bảo hiểm và đơn bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trong trường hợp mà việc tham gia bảo hiểm là bắt buộc theo quy định của
pháp luật thì người tham gia bảo hiểm thường phải chứng minh với người thứ ba rằng
họ đã tham gia bảo hiểm và hợp đồng đó đang có hiệu lực pháp luật . Nghĩa là họ ln
phải mang theo bên mình một bằng chứng chứng minh hợp đồng bảo hiểm đang có
hiệu lực. Vì vậy hình thức của hợp đồng bảo hiểm này thường được thiết kế dưới
dạng giấy chứng nhận bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm thường là hình thức của hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, có thể có
các dạng khác nhau và thường bao gồm nhiều trang. Các thông tin ghi trên đơn chi
tiết, cụ thể tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm: tên, địa chỉ của chủ
doanh nghiệp bảo hiểm; bên mua bảo hiểm; đối tượng bảo hiểm; số tiền bảo hiểm;
phạm vi bảo hiểm; điều kiện bảo hiểm; điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; thời
hạn bảo hiểm; mức phí và phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; giải quyết
tranh chấp. Đơn bảo hiểm thường kèm theo các phụ lục để chi tiết hố các thơng tin
đặc điểm của từng khách hàng cụ thể, đồng thời giải thích thuật ngữ trong đơn bảo
hiểm. Nội dung đơn bảo hiểm gồm phần mở đầu; phần quy định về các điều khoản
7
chính; phần quy định về các điều khoản loại trừ; phần quy định về các điều kiện; chữ
ký, ghi rõ họ tên của người đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm.
2.3. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hiểu theo nghĩa chung
nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm. Điều bắt buộc
đối với một người trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại là việc người đó phải bằng
tài sản của mình gánh chịu việc bù đắp những thiệt hại về vật chất và tổn thất tinh
thần do hành vi của mình gây ra cho người khác. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại khi có đủ bốn yếu tố:
Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật.
Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật là những hành vi xâm phạm tới tài sản, sức
khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể khác được thực hiện không phù hợp với quy định của pháp luật. Những hành vi có
gây ra thiệt hại cho người khác nhưng được thực hiện phù hợp với quy định của pháp
luật thì người thực hiện những hành vi đó khơng phải bồi thường. Ví dụ: hành vi gây
thiệt hại trong các trường hợp trong giới hạn phịng vệ chính đáng, trong giới hạn của
tình thế cấp thiết, do sự kiện bất ngờ.
Có thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng nhằm mục đích khắc phục một
phần hoặc tồn bộ tổn thất tài chính cho người bị thiệt hại. Do đó, chỉ khi có thiệt hại
xảy ra thì mới phải bồi thường; vì vậy cần phải xác định xem có thiệt hại xảy ra hay
không và thiệt hại là bao nhiêu. Thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành
tiền, bao gồm: những mất mát, hư hỏng, huỷ hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất,
chi phí nhằm ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khoẻ, tính
mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
8
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là hậu
quả trực tiếp do hành vi trái pháp luật của họ gây ra, hay hành vi trái pháp luật là
nguyên nhân gây ra hậu quả đó.
Có lỗi của người gây thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra có thể do hành vi cố ý hoặc vơ ý gây ra, cũng có thể do nguồn
nguy hiểm cao độ hoặc do cây cối, súc vật gây ra. Song với bản chất của bảo hiểm là
chỉ bảo hiểm rủi ro nên phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm chỉ bao gồm các
thiệt hại do hành vi vô ý; do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra;
khơng bảo hiểm với những thiệt hại do hành vi cố ý gây ra. Vậy đối tượng của hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do hành
vi vô ý gây ra.
2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự.
Quyền của bên bảo hiểm là sự đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên tham gia
bảo hiểm và bên được bảo hiểm và ngược lại.
* Việc lựa chọn giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có quyền lựa chọn mua bảo hiểm ở bất kỳ doanh nghiệp bảo
hiểm nào miễn là doanh nghiệp đó đang tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm
trên lãnh thổ Việt Nam. Bên mua bảo hiểm có thể lựa chọn mua bảo hiểm ở doanh
nghiệp bảo hiểm nào có mức phí bảo hiểm đối với loại bảo hiểm đó thấp nhất và chất
lượng cao nhất.
Về phía mình, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm
cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp
đồng bảo hiểm; và có nghĩa vụ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho
bên mua bảo hiểm sau khi giao kết hợp đồng và thu phí bảo hiểm
* Phí bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm; cịn bên mua bảo hiểm có
nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận
9
trong hợp đồng bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo
đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bởi hợp đồng
bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm.
Tuỳ từng loại sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà thời hạn và phương thức nộp phí bảo
hiểm được quy định cụ thể hoặc theo thoả thuận của các bên. Bên mua bảo hiểm phải
đóng tồn bộ phí bảo hiểm trong một lần trước khi bên bảo hiểm cấp giấy chứng nhận
bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm; hoặc phí bảo hiểm được đóng nhiều lần theo định
kỳ thì bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm vào định kỳ đầu tiên trước khi được
cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm và phải tiếp tục đóng phí của
các kỳ sau theo đúng định kỳ.
Phí bảo hiểm trách nhiệm cơng cộng khó xác định cụ thể và mức phí thay đổi
một cách đáng kể tuỳ thuộc vào từng rủi ro. Phí bảo hiểm được xác định căn cứ vào
số tiền bảo hiểm, nghề nghiệp của người tham gia bảo hiểm, quy trình kinh doanh, vị
trí, phạm vi hoạt động, loại hình sản xuất kinh doanh của người tham gia bảo hiểm,
doanh thu của người tham gia bảo hiểm, khả năng xuất hiện bên thứ ba tại địa điểm
sản xuất kinh doanh…
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm thường được tính
trên cơ sở doanh thu, khối lượng sản phẩm sản xuất ra.
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp được xác định
dựa trên quy mô hoạt động nghề nghiệp của chủ thể tham gia; số lượng và trình độ
nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác của các thành viên; cơ sở vật chất để tổ chức tiến
hành nghề nghiệp; giới hạn bồi thường…
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
trên nguyên tắc là do pháp luật quy định. Ngoài ra, mức phí cịn tính theo tỷ lệ phần
trăm mức phí theo năm đối với thời hạn bảo hiểm ngắn hạn và dài hạn.
Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động đối với người lao
động về cơ bản được tính căn cứ vào số tiền bảo hiểm đã thoả thuận, đồng thời căn cứ
vào thời hạn bảo hiểm và loại nghề nghiệp của người lao động. Phí bảo hiểm trong
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không là số tiền mà hãng hàng không
10
phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Phí
bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không được xác định trên
các yếu tố: mức giới hạn trách nhiệm; số vụ tai nạn và mức độ tổn thất của các vụ tai
nạn trong khu vực và trên thế giới; việc đào tạo và kinh nghiệm của phi công; loại
máy bay được sử dụng trong việc chuyên chở; số lượng hàng hoá, hành lý chuyên chở
trong năm; số lượng và loại hành khách; tuyến bay, tần suất bay; vị trí pháp lý của
hãng hàng khơng.
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu là khoản
tiền do bên bảo hiểm thu trên cơ sở biểu phí do Bộ tài chính quy định áp dụng cho
từng loại tàu, nhóm tàu theo các điều kiện bảo hiểm cụ thể. Phí bảo hiểm có thể tăng
hoặc giảm tuỳ vào tình hình tổn thất hàng năm của các đội tàu tham gia bảo hiểm.
* Trả tiền bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có
quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho
người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo
hiểm; có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối
bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba
đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm; có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế
tổn thất theo quy định của pháp luật. (Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
Còn bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận
trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Đồng thời có nghĩa vụ áp dụng
các biện pháp đề phịng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật; thông báo cho
doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, khai báo trung thực về tình
hình diễn biến của rủi ro, thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về
thiệt hại để làm cơ sở cho việc xét bồi thường. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả
11
tiền bảo hiểm so với thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc pháp luật đã quy
định thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả lãi đối với số
tiền chậm trả theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm trả tiền
tương ứng với thời gian chậm trả.
Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, nhằm nâng cao ý thức của
người mua bảo hiểm, tránh tình trạng người tham gia bảo hiểm chuyển hết mọi trách
nhiệm sang cho doanh nghiệp bảo hiểm, pháp luật quy định bên mua bảo hiểm phải
thực hiện tất cả các biện pháp phòng ngừa thiệt hại và các biện pháp cần thiết khác để
hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại. Bên mua bảo hiểm phải thực hiện các biện
pháp đó trong thời gian đã được doanh nghiệp bảo hiểm khuyến nghị. Nếu bên mua
bảo hiểm không thực hiện và sự kiện bảo hiểm chưa xảy ra thì phải thơng báo cho
doanh nghiệp bảo hiểm để xem xét tính tăng phí bảo hiểm hoặc chấm dứt hợp đồng
bảo hiểm.
* Chuyển yêu cầu bồi hồn.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền u cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo
hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người
thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự. Trong hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, bên bảo hiểm phải bồi thường cho bên mua bảo hiểm hoặc trực tiếp trả
lời cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm thiệt hại mà bên mua bảo
hiểm gây ra cho người thứ ba theo quy định của pháp luật. Người thứ ba trong trường
hợp này không phải là chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự nhưng là
chủ thể của quan hệ nghĩa vụ bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi
trách nhiệm bảo hiểm, người thứ ba là bên có quyền được hưởng việc bồi thường theo
mức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra khơng hồn toàn do lỗi của bên mua bảo
hiểm hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của chủ thể khác thì người mua bảo hiểm
phải chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp
người khác cùng có lỗi gây thiệt hại cho người thứ ba và doanh nghiệp bảo hiểm đã
trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải
12
chuyển quyền u cầu người đó bồi hồn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho
doanh nghiệp bảo hiểm.
* Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là ý chí của một trong hai bên về
việc không tiếp tục duy trì hợp đồng theo các điều khoản đã cam kết vì bên kia có
hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau: cố
ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo
hiểm hoặc để được bồi thường; không thông báo cho bên bảo hiểm những trường hợp
có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong
quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm dù bên bảo hiểm đã yêu cầu; khi có sự thay
đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, đẫn đến tăng các rủi ro được bảo
hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại
của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp bên mua bảo hiểm khơng chấp nhận tăng
phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm
trong các trường hợp sau: trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp
thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trường hợp này doanh nghiệp
bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp
thơng tin sai sự thật; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm,
dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền u cầu doanh
nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian cịn lại của hợp đồng bảo hiểm,
trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm khơng chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên
mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng
phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm.
13
III.
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
1. Nhận xét về thực trạng
Từ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng thi hành pháp luật về hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở Việt Nam, ta có thể thấy rằng với sự ra đời của Luật
Kinh Doanh Bảo Hiểm có hiệu lực từ ngày 1/4/2001, chúng ta đã có khung pháp lý cơ
bản về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, Luật đã tạo ra một cơ chế đảm bảo cho
quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự. Hoạt động kinh doanh loại hình bảo hiểm này đã thể hiện được vai trị
là một cơng cụ đảm bảo an tồn tài chính một cách hữu hiệu cho người tham gia bảo
hiểm cũng như của người bị thiệt hại. Tuy nhiên , do tính chất phức tạp của hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự , yêu cầu hoàn thiện chế định về hợp đồng bảo hiểm vẫn
cần phải đặt ra bởi những nguyên nhân chủ yếu sau:
Về mặt thực tiễn, qua hoạt động áp dụng và thi hành pháp luật về hoạt động
kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở Việt Nam, ta có thể thấy về phía các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm, do chưa có những chế định cụ thể về một số hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm nên mỗi doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm lại đưa ra các quy
tắc, chế định áp dụng riêng cho mình về số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phạm vi bảo
hiểm, loại trừ bảo hiểm do đó tạo nên sự không đồng bộ trong cách áp dụng và ký kết
hợp đồng gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm cũng như không đảm bảo được các quyền lợi của người tham gia bảo hiêm
và của người bị thiệt hại. Ví dụ như hiện nay các văn bản pháp luật về bảo hiểm trách
nhiêm dân sự mới chỉ có Nghị định số 115/1997/NĐ – CP về chế độ bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Quyết định số 23/2003/ QĐ – BTC ra đời
thay thế Quyết định số 299/1998/QĐ – BTC về việc cho phép Tổng công ty bảo hiểm
Việt Nam. Tuy nhiên những văn bản pháp luật này chỉ có giá trị áp dụng cho Tổng
cơng ty bảo hiểm VN (Bảo Việt), vì trước đây Bảo Việt là doanh nghiệp kinh doanh
14
bảo hiểm duy nhất ở Việt Nam nhưng nay đã có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm khác ra đời mà vẫn chưa có văn bản pháp luật khác thay thế những văn bản
trên. Vì vậy, hiện nay có sự áp dụng không đồng bộ giữa các doanh nghiệp kinh
doanh các loại hình bảo hiểm trách nhiệm này do những bất cập nêu trên.
Một điểm đáng chú ý hơn nữa là thị trường kinh doanh bảo hiểm hiện nay ở
Việt Nam đang diễn ra rất sôi động, hàng loạt các loại hình kinh doanh bảo hiểm trách
nhiệm dân sự ra đời như bảo hiểm trách nhiệm công cộng, bảo hiểm trách nhiệm của
chủ sử dụng lao động, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp – nhưng chưa có văn bản
pháp luật chuyên ngành nào quy định chi tiết để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh
bảo hiểm này.
Về mặt lý luận, một số điều khoản quy định về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự trong Luật kinh doanh bảo hiểm hiện nay còn rất sơ sài và chưa cụ thể dẫn đến
khó áp dụng hoặc áp dụng khơng thống nhất như Điều 53 – Luật kinh doanh bảo
hiểm: “Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh nếu người thứ ba yêu
cầu người được bảo hiểm bồi thường thiệt hại do lỗi của người đã gây ra cho người
thứ ba trong thời hạn bảo hiểm”. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là trách nhiệm của
doanh nghiệp bảo hiểm phát sinh ngay sau khi người thứ ba yêu cầu người được bảo
hiểm bồi thường thiệt hại hay phải đợi có quyết định của tịa án về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người được bảo hiểm gây ra cho người thứ ba? Do đó, trong
trường hợp người được bảo hiểm và người bị thiệt hại thỏa thuận giải quyết vụ việc
bằng thương lượng mà không khởi kiện ra tịa án thì liệu doanh nghiệp bảo hiểm có
bồi thường khơng? Điều này dễ dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian của doanh nghiệp
bảo hiểm khi họ nói rằng họ chỉ bồi thường khi tòa án phán quyết là người tham gia
bảo hiểm phải chịu trách nhiệm bồi thường (trong trường hợp này người bị thiệt hại là
phải khởi kiện và chờ quyết định của tòa án sẽ rất mất thời gian đồng thời sẽ làm mất
đi tính năng giải quyết tình hình tài chính kịp thời cho người tham gia bảo hiểm bà
người bị thiệt hại cỉa hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự)
Một vấn đề khác nữa trong quy định này là người thứ ba (người bị thiệt hại) ở
đây là người chưa thành niên hoặc người bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần,
15
người bị thương nặng hoặc đã chết trong khi xảy ra tai nạn khơng thể tự mình bày tỏ ý
chí u cầu địi bồi thường thì dù luật khơng quy định liệu có thể hiểu rằng người đại
diện của họ đương nhiên có quyền thay mặt họ để yêu cầu hay khơng? Hoặc người
thứ ba này có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người tham gia bảo
hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có chịu trách nhiệm bồi thường khi người thứ ba này
yêu cầu không? Bởi vì có những trường hợp do sự quy định khơng rõ ràng này của
pháp luật nên người tham gia bảo hiểm đã gây thiệt hại cho người thứ ba mà mình có
quan hệ ni dưỡng để nhận tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm rất khó xác
minh tai nạn xảy ra có phải do ý muốn chủ quan của người gây thiệt hại hay khơng?
Vì vậy, vơ hình chung có một số người thối hóa phẩm chất đã đặt vật chất lên trên
tình cảm con người, đang tâm gây tai nạn cho chính những người ruột thịt của mình.
2 Kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự
2.1. Về việc cụ thể hóa mục 4, chương II – Luật kinh doanh bảo hiểm về hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Như đã đề cập ở trên, sau Luật kinh doanh bảo hiểm hiện nay chỉ có một số văn
bản dưới luật NĐ 115, QĐ 23, QĐ 101 quy định về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản
tiền gửi có kỳ hạn. Cịn một số loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự như bảo hiểm
trách nhiệm công cộng, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm công
cộng, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm… rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay lại
chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh chi tiết để tránh sự áp dụng không đồng bộ
giữa các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy, ở khía cạnh này tác giả cho rằng
do tính phức tạp của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự nên những quy định của
Luật kinh doanh bảo hiểm chỉ mang tính chất định khung, còn đối với các nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm cụ thể cần ban hành những văn bản dưới luật riêng để điều
chỉnh chi tiết. Ví dụ ban hành các nghị định, quyết định quy định về chế độ bảo hiểm
trách nhiệm công cộng, quy tắc bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm.
16
1.2 Về Điều Luật 53 Luật kinh doanh bảo hiểm
Như các nhận xét ở trên, Điều 53 – Luật kinh bảo hiểm quy định thiếu rõ ràng,
cụ thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến sự áp dụng thiếu thống nhất.
Vì vậy, Khoản 1 Điều 53 nên quy định rõ hơn từng trường hợp người đại diện
của người thứ ba bị thiệt hại có quyền yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải bồi
thường với quy định như sau: “ Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh
nếu người thứ ba hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu người được bảo hiểm
bồi thường thiệt hại do lỗi của người đó gây ra cho người thứ ba trong thời hạn bảo
hiểm”.
Trong trường hợp người tham gia bảo hiểm và người thứ ba bị thiệt hại hoặc
đại diện hợp pháp của họ đã thương lượng được mức bồi thường thì pháp luật hên quy
định cụ thể rằng trong trường hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm
bồi thường ngay nếu tại nạn xảy ra thỏa mãn các điều kiện bồi thường của hợp đồng
bảo hiểm đã ký kết.
Nên quy định rõ người thứ ba (người bị thiệt hại) trong khoản 1 – Điều 53 này
là những đối tượng nào thì doanh nghiệp bảo hiểm mới chịu trách nhiệm bồi thường.
1.3
Một số đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mẫu
Một điều đáng lưu ý nữa là lý do phát sinh tranh chấp còn tiềm ẩn ngay trong
những khe hở của các điều khoản hợp đồng mẫu. Với chất lượng hợp đồng mẫu cần
nhiều loại sản phẩm bảo hiểm như hiện nay thì việc phát sinh tranh chấp từ những
điều khoản mập mờ, không rõ ràng, những tình huống thực tế mà hợp đồng bảo hiểm
chưa bao quát hết những lo ngại có cơ sở.
KẾT LUẬN
Trước thềm hội nhập của nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh
tế, thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng có nhiều
triển vọng phát triển mạnh mẽ. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm càng đa dạng, phong
phú thì trách nhiệm phát sinh từ các hoạt động càng nhiều. Vì vậy, để bảo hiểm trách
nhiệm ấy, các doanh nghiệp sẽ tham gia nhiều hơn vào thị trường bảo hiểm trách
17
nhiệm dân sự để đảm bảo an toàn khả năng tài chính của mình. Trong một tương lai
khơng xa, thị trường kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự sẽ phát triển vượt bậc
hơn nữa. Muốn vây, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cũng như sự giúp đỡ của các cơ quan pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam Tập hai – NXB Giáo dục Việt Nam
2. Bộ luật Dân sự 2005
3. />4. />5. Luật kinh doanh bảo hiểm 2001
18