Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Quần thể di tích lịch sử văn hóa phố hiến thị xã hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.26 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
----------***___▼▲▼___***---------

TRẦN THỊ MINH AN

QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
PHỐ HIẾN - THỊ XÃ HƯNG YÊN
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. NGUYỄN QUANG NGỌC

HÀ NỘI - 2009


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như dòng chảy quanh co bên bồi bên lở của sông Hồng, thương cảng Phố Hiến
xưa - thị xã Hưng Yên ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm thịnh suy. Một
thương cảng sầm uất bậc nhất của Đàng Ngoài thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII
với cảnh đông vui trên bến dưới thuyền, với những khu phố tấp nập kẻ bán người mua
đã bị vùi sâu dưới lớp lớp phù sa. Một Hưng Thành được xây dựng kiên cố với tư cách
lị sở hành chính thế kỷ XIX cũng đã biến mất chỉ còn để lại những phế tích và địa
danh cổ. Năm tháng đã phủ bụi mờ lên nhiều trang sử của miền đất này. Nhưng vẫn
còn đó một quần thể di tích (QTDT) đa dạng về loại hình, đặc sắc về kiến trúc với vẻ
đẹp độc đáo của tập quán tín ngưỡng và lễ hội dân gian tồn tại trên các phố phường.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, thị xã Hưng Yên hiện còn trên 130 di tích phân


bố trên địa bàn 12 phường, xã bao gồm các loại hình đình, đền, chùa, miếu, phủ, hội
quán, nhà cổ, nghĩa trang người nước ngoài, văn miếu, võ miếu, nhà thờ Thiên Chúa
giáo, nhà thờ họ, bia đá…Số liệu này cho thấy mật độ đậm đặc và tính đa dạng của di
tích lịch sử văn hóa trong khu vực.
Mỗi di tích đều tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với điều kiện địa – văn hoá, địa
– lịch sử của vùng đất nơi nó sinh ra. Nói cách khác, di tích không chỉ đơn thuần là
dấu vết của quá khứ mà nó còn là hệ quả, là chứng tích phản ánh những biến thiên
thăng trầm ở mỗi khu vực, mỗi địa phương. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến
– Hưng Yên cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.
Sự vận động của các yếu tố tự nhiên, sự biến thiên của lịch sử văn hoá vùng Phố
Hiến – Hưng Yên đã tạo tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống di
tích tại đây. Ngược lại, chính hệ thống di tích lịch sử văn hóa lại là nguồn sử liệu trực
tiếp cung cấp cho ta những thông tin quan trọng để tìm về quá khứ, làm sáng rõ và
gắng kết các mảng vỡ lịch sử văn hóa, giúp ta hình dung rõ nét hơn diện mạo và tiến
trình phát triển của vùng đất này không chỉ trong giai đoạn thịnh đạt của thương cảng
Phố Hiến thế kỷ XVI-XVII.
Số lượng, sự phân bố, nét độc đáo trong kiến trúc, mối quan hệ giữa các di tích và
đặc biệt là sự phù hợp, thống nhất giữa truyền thuyết dân gian với điển tích các nhân
vật được thờ tự, địa danh cổ và tập quán, lễ hội dân gian xoay quanh hệ thống di tích
đã hé lộ nhiều điều về lịch sử phát triển của Phố Hiến – Hưng Yên. Không chỉ nổi
danh với tư cách là đô thị “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, Hưng Yên còn là
miền đất cổ có vị trí chiến lược với những đóng góp lớn trong tiến trình phát triển
chung của lịch sử đất nước qua nhiều thời kỳ. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, trọng tâm


nghiên cứu về vùng đất này vẫn tập trung vào giai đoạn thế kỷ XVI - nửa đầu XVIII
với sự hình thành, hưng thịnh và suy tàn của thương cảng Phố Hiến. Ngược lại, sự
phát triển của vùng đất này giai đoạn tiền Phố Hiến và hậu Phố Hiến mới chỉ được
hình dung trên đại thể, nhiều vấn đề lịch sử còn bỏ ngỏ.
Trong khi đó, trải qua bao mưa nắng thời gian, dưới tác động của khí hậu, chiến

tranh và đặc biệt là bàn tay con người, QTDT Phố Hiến – Hưng Yên - nguồn sử liệu
trực tiếp để nghiên cứu về tiến trình lịch sử văn hóa của vùng đất này đang đứng trước
nhiều nguy cơ. Nhiều di tích đã bị phá huỷ hoàn toàn không còn dấu vết, nền móng
cũng bị vùi lấp trong cát. Những di tích còn lại chủ yếu là các công trình công cộng,
trong đó nhiều di tích đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Cổ vật bị hư hại,
thất lạc và trộm cắp. Một số công trình đang bị sụp đổ từng bộ phận. Một số đã được
trùng tu nhưng không đúng cách dẫn đến kiến trúc cổ bị biến dạng, không gian di tích
bị trần tục hoá. Tính thiêng cũng như những giá trị tâm linh khác của di tích cũng theo
đó mà bị biến đổi, mất đi bản sắc ban đầu. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn tư liệu vô
giá đối với việc nghiên cứu tiến trình lịch sử của vùng đất này đang bị mai một, thậm
chí có nguy cơ biến mất hoàn toàn. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần khẩn trương nghiên
cứu chuyên sâu về lịch sử, văn hóa Phố Hiến – Hưng Yên một cách toàn diện và khoa
học ngay từ hôm nay.
Mặt khác, nghiên cứu về lịch sử vùng đất Phố Hiến – Hưng Yên còn cung cấp
những hiểu biết căn bản và tổng thể giúp ích cho chính sự nghiệp bảo tồn, tôn tạo và
phát huy giá trị của QTDT lịch sử - văn hóa tại đây. Trong tình hình thị xã Hưng Yên
đang đô thị hóa mạnh mẽ để chuyển mình thành thành phố, vấn đề này càng có ý nghĩa
quan trọng. UBND thị xã Hưng Yên đã và đang tiến hành xây dựng một đề án tổng thể
nhằm nâng cấp thị xã thành thành phố tương lai với những quy hoạch đồng bộ về cơ
sở hạ tầng. Diện mạo đô thị đang có những thay đổi nhanh chóng. Một đô thị Hưng
Yên hiện đại đang dần hình thành và phát triển mạnh mẽ bên cạnh một Phố Hiến cổ
kính với QTDT lịch sử văn hóa đặc sắc. Vấn đề mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển
đang đặt ra bức thiết. Quy hoạch mặt bằng tổng thể phát triển thị xã trong tương lai
phải giải quyết được bài toán đô thị hoá, phải tạo ra được sự đối thoại uyển chuyển,
hài hoà giữa di sản kiến trúc truyền thống và các công trình hiện đại, cao tầng. Thực tế
đó càng đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho công cuộc nghiên cứu QTDT. Cần phải nhanh
chóng tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể dựa trên những khảo cứu nghiêm túc,
toàn diện và tỉ mỉ, đảm bảo cung cấp những căn cứ khoa học để xây dựng quy hoạch
đô thị mới vừa hiện đại, vừa bảo tồn được QTDT lịch sử văn hóa truyền thống.



Nghiên cứu về QTDT còn phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế địa phương.
Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa với nhiều giá trị độc đáo là tiềm năng lớn để thị xã
Hưng Yên phát triển thương mại du lịch, tạo ra sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế. Di
tích được bảo tồn, du lịch phát triển sẽ đem lại nguồn lợi lớn cho ngân sách, người dân
cũng được hưởng lợi nhiều hơn qua việc tham gia vào các hoạt động dịch vụ du lịch,
các làng nghề truyền thống quanh khu vực thị xã sẽ có cơ hội phục hồi. Điều này có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế bền vững của thị xã –
thành phố tương lai.
Tuy nhiên, để khơi dậy được tiềm năng đó, để thực sự biến di tích thành nguồn lợi
vật chất, phải bảo tồn được nét cổ, vốn cổ của mỗi di tích, phải hiểu và trả lại cho di
tích những giá trị đích thực của nó. Điều đó đòi hỏi những nỗ lực nghiên cứu QTDT
lịch sử - văn hoá thật sự nghiêm túc, công phu từ phía các nhà nghiên cứu và quản lý
văn hoá.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên và với tấm lòng tri ân của một người con quê
hương, chúng tôi đã chọn “Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến – Hưng Yên”
làm đề tài luận văn thạc sỹ Việt Nam học.
Với địa bàn mang đậm yếu tố sông nước và những giá trị văn hóa lịch sử truyền
thống lâu đời, Phố Hiến - Hưng Yên có thể coi như một khu vực có tính đặc thù.
Nghiên cứu Phố Hiến - Hưng Yên với tư cách một khu vực đặc thù và tiếp cận nghiên
cứu QTDT lịch sử - văn hóa theo hướng liên ngành sẽ đem đến hiểu biết tổng thể và
sâu sắc cho người nghiên cứu. Hơn nữa, chỉ có đặt QTDT lịch sử - văn hóa trong mối
quan hệ tổng thể của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực mới có thể đề
ra được phương án bảo tồn, tôn tạo hợp lý nhất và tạo tiền đề để phát huy giá trị di tích
một cách hiệu quả nhất.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phố Hiến đã từ lâu đi vào lịch sử Việt Nam cũng như tâm thức dân gian với câu ca
quen thuộc “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Những công trình đầu tiên có ghi
chép về Phố Hiến là các bộ sử liệu biên niên được các triều đình phong kiến biên soạn
như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử Thông giám cương mục…Tuy nhiên, những ghi

chép này rất sơ lược, chủ yếu chỉ phản ánh chính sách của chính quyền chúa Trịnh đối
với thương thuyền nước ngoài, ghi chú về việc chúa Trịnh cho phép các thương nhân
Hoa kiều, Nhật Bản và phương Tây lưu trú và lập hội quán, thương điếm tại Phố Hiến.
Dưới triều Nguyễn, Phố Hiến được ghi chép chi tiết hơn trong nhiều bộ địa chí lớn.
Phan Huy Chú trong phần Dư địa chí của bộ bách khoa thư Lịch triều hiến chương
loại chí có mô tả về địa thế của Phố Hiến trong phần ghi chú về phủ Khoái Châu, trấn


Sơn Nam. Mặc dù còn rất sơ lược song Phan Huy Chú đã cho biết một chi tiết quan
trọng là vùng Phố Hiến – bãi Xích Đằng là địa bàn then khóa, kho lưu trữ của các đời
và ghi chú về các sở đánh thuế tuần ty trên sông Xích Đằng (đoạn sông Hồng chảy qua
Phố Hiến).
Đại Nam nhất thống chí phần viết về tỉnh Hưng Yên cũng có ghi chép Phố Hiến là
nơi đặt trị sở cũ của trấn Sơn Nam. Các bến đò ngang, đò dọc trên đoạn sông Hồng
chảy qua Phố Hiến cũng được liệt kê tỉ mỉ cùng với hệ thống chợ tại Phố Hiến và các
khu vực xung quanh. Những chi tiết trên sẽ góp phần giúp người nghiên cứu hình dung
về một Phố Hiến xưa với hoạt động của các sở thu thuế, hệ thống chợ buôn bán và
phương thức vận chuyển hàng hóa. Đồng thời, thông tin ghi chép trong bộ địa chí này
cũng là sử liệu trực tiếp để nghiên cứu và lịch sử vùng đất Hưng Yên thế kỷ XIX – giai
đoạn hậu Phố Hiến.
Thành tỉnh Hưng Yên – Hưng Thành xây dựng đời Minh Mạng cũng được mô tả
trong Đại Nam nhất thống chí cùng với bản liệt kê chợ, phố, cầu, bến, đường đê, một
số di tích tiêu biểu và địa điểm đặt lỵ sở các huyện Kim Động, Tiên Lữ. Đây là sử liệu
quan trọng để hình dung về diện mạo của đô thị hậu Phố Hiến, từ đó nhận định về sự
suy tàn của thương cảng Phố Hiến, so sánh để thấy sự chuyển biến của Phố Hiến từ
một đô thị thương cảng sang một đô thị hành chính vào thế kỷ XIX.
Cuối XIX, đầu XX, nhiều bộ địa chí chuyên khảo về Hưng Yên đã ra đời. Đáng kể
tới là các bộ địa chí Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược, phần Hưng Yên tỉnh (Quốc
sử quán triều Nguyễn); Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, Tỉnh Hưng Yên – La Pronvince
de Hungyen (Tiếng Pháp, khuyết danh); Hưng Yên địa chí (Trịnh Như Tấu). Các bộ

địa chí này ngoài thông tin về một số di tích tiêu biểu của Phố Hiến còn ghi chép một
số cổ tích dân gian có liên quan đến lịch sử vùng đất này giai đoạn Phố Hiến và giai
đoạn hậu Phố Hiến. Thành tỉnh Hưng Yên và các phố, phường hành chính của đô thị
Hưng Yên nửa cuối XIX, đầu XX cũng được liệt kê cùng với hệ thống chợ và bến đò
ngang, đò dọc sông Hồng.
Tất cả những công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc ghi chép về Phố Hiến trên một
số mặt với tư cách là những sử liệu quan trọng chứ chưa phải là những công trình
nghiên cứu về Phố Hiến.
Công trình mang tính chất nghiên cứu đầu tiên về Phố Hiến phải kể đến Les
comptoirs hollandais de Pho Hien ou Pho Khach, pres Hung Yen au XVII siecle,
BHDG 1895 (Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến hoặc Phố Khách vào thế kỷ XVII) của
học giả người Pháp G. Dumoutier. Ông đã đưa ra quan điểm về thời điểm hình thành
Phố Hiến gắn với sự thành lập thương điếm Hà Lan tại đây và đã xác định được chính


xác vị trí của Phố Hiến trên thực địa. Năm 1906, A. Shreiner - một học giả phương
Tây cũng đề cập đến Phố Hiến trong tác phẩm Abrégé de l’s histoire d’ Annam (Lược
sử An Nam). Năm 1939, học giả Kim Vĩnh Kiện (Triều Tiên) cũng đã hoàn thành một
chuyên khảo về Phố Hiến với tên gọi Về Phố Khách ở Hưng Yên xứ Bắc Kỳ thuộc
Đông Pháp (Tokyo 1939). Khác với G. Dumoutier, Kim Vĩnh Kiện lại cho rằng niên
đại hình thành Phố Hiến liên quan đến chính sách dồn dân Hoa kiều của chúa Trịnh.
Nhìn chung, các tác giả trên đều không nhìn Phố Hiến như một đô thị của người
bản địa. Họ đều cho rằng Phố Hiến là một đô thị kinh tế của thương nhân ngoại quốc,
được hình thành và phát triển gắn liền với cộng đồng người Hoa và sự xuất hiện của
thương điếm Hà Lan năm 1637. Ngoài ra, Phố Hiến cũng được đề cập đến rải rác trong
bài viết về quan hệ buôn bán giữa phương Tây và Đàng Ngoài của các tác giả P.Villai,
Ch.Maybon, W.J.Buch. Trong các công trình này, Phố Hiến được gọi bằng các tên gọi
khác nhau như Hean, Heen, Hiên Nội, Hiến Nam hay Vạn Lai Triều. Vị trí, diện mạo
của đô thị này cũng được phác dựng.
Những thập kỷ cuối thế kỷ XX, Phố Hiến được các học giả quan tâm nghiên cứu

nhiều hơn. Phố Hiến đã được nhắc đến và đánh giá trong những công trình nghiên cứu
về ngoại thương Việt Nam như Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, đầu XIX
(Thành Thế Vỹ, Hà Nội, 1961), Tình hình công thương nghiệp Việt Nam trong thời Lê
Mạt (Vương Hoàng Tuyên, Hà Nội, 1959) cũng như các công trình nghiên cứu về đô
thị Việt Nam như Đô thị cổ Việt Nam (Viện sử học, Hà Nội, 1989).
Bên cạnh những nghiên cứu về Phố Hiến thông qua khảo cứu nguồn thư tịch và
văn bia, nhằm tiến tới hiểu biết toàn diện và sâu sắc hơn nữa về Phố Hiến, công tác
điều tra và khai quật khảo cổ học cũng đã bước đầu được tiến hành. Năm 1968, trường
Đại học Sư phạm I đã hai lần đào thám sát khu thương điếm ngoại quốc ở Hiến Hạ.
Tiếp theo, năm 1989, khai quật khảo cổ học tại khu Văn Miếu Xích Đằng đã phát hiện
phế tích lò gốm và chồng bát kết dính có niên đại thế kỷ XVII, cho thấy khu vực này
là nơi sản xuất gốm thủ công của thương cảng Phố Hiến khi xưa.
Năm 1992, trước thềm Hội thảo khoa học về Phố Hiến, Sở Văn hóa Thông tin Hải
Hưng đã đào thám sát và tiến hành khai quật một số hố. Kết quả đã phát hiện được một
số dấu tích lò gốm, nền kiến trúc cổ, gạch ngói, gốm sứ Việt Nam và nước ngoài có
khung niên đại thế kỷ XVII-XVIII. Đặc biệt, kết quả khai quật còn thu được những di
vật có niên đại sớm hơn như mảnh gốm Trần (thế kỷ XIII-XIV), chân đèn Mạc (thế kỷ
XVI)…Những di vật này cho phép hình dung phần nào về lịch sử của vùng đất này
giai đoạn tiền Phố Hiến. Ngoài ra, cũng trong năm này, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng kết
hợp với một số nhà khoa học đã tiến hành đợt điều tra tổng thể di sản văn hoá vật thể


khu vực Thị xã Hưng Yên lần đầu tiên. Kết quả là đã thống kê được 60 di tích trên địa
bàn thị xã, trong đó có 24 đền miếu, 1 hội quán, 17 chùa, 1 nhà thờ thiên chúa giáo, 10
đình, 1 nhà dòng, 2 nhà thờ họ, 1 nghĩa địa người nước ngoài, 1 văn miếu, 1 võ miếu,
1 chợ [69, 89].
Năm 1990, hội thảo khoa học về đô thị cổ Hội An được tổ chức với sự tham gia
của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Bên cạnh những
nghiên cứu chuyên sâu về Hội An, Phố Hiến cũng được đề cập đến trong các tham
luận nghiên cứu về quan hệ thông thương giữa Hội An với các địa phương trong nước

cũng như vị trí của các cảng thị ven biển Đông Nam Á trong lịch sử.
Năm 1992, một hội thảo khoa học quy mô về Phố Hiến lần đầu tiên được tổ chức
tại thị xã Hưng Yên. Hội thảo đã quy tụ đông đảo các giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học
thuộc nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của các trung tâm nghiên cứu và
giảng dạy trong nước và quốc tế. Sự ra đời của Phố Hiến, cơ sở kinh tế - xã hội, kết
cấu dân cư, đời sống văn hóa cũng như quan hệ thông thương của Phố Hiến với trong
và ngoài nước, vấn đề sự hưng thịnh, suy tàn của Phố Hiến và việc bảo tồn, tôn tạo
QTDT Phố Hiến…đều được thảo luận. Cho đến nay, đây vẫn là công trình nghiên cứu
chi tiết nhất, quy mô nhất, toàn diện nhất về lịch sử đô thị Phố Hiến.
Sau hội thảo, năm 1998, nhằm phục vụ công tác giới thiệu, quảng bá hình ảnh Phố
Hiến, giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ Hưng Yên, Sở Văn hóa Thông tin
Hưng Yên kết hợp với Hội văn học Nghệ thuật Hưng Yên đã xuất bản công trình Phố
Hiến – lịch sử văn hóa. Với bản in màu đẹp, đây là công trình đầu tiên đem đến cho
độc giả trực quan sinh động về các di tích tiêu biểu của Phố Hiến. Di tích và danh
thắng tiêu biểu của Phố Hiến một lần nữa được tập hợp và giới thiệu trong cuốn sách
Những danh thắng tiêu biểu của Phố Hiến của tác giả Lâm Hải Ngọc (HY, 2005). Tuy
nhiên, các tuyển tập này mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu những di tích tiêu biểu nhất
của Phố Hiến chứ chưa đem đến cho độc giả cái nhìn tổng quan về toàn bộ QTDT Phố
Hiến với những đặc trưng riêng độc đáo của nó.
Ngoài những công trình nghiên cứu, sưu tầm, khảo sát được đề cập đến ở trên, Phố
Hiến còn là chủ đề được quan tâm với nhiều bài viết, chuyên khảo đăng tải trên các tạp
chí chuyên ngành lịch sử văn hoá. Năm 1968, đề tài Phố Hiến lần đầu tiên được đề cập
đến trên tạp chí đầu ngành của sử học Việt Nam – Nghiên cứu lịch sử - với bài viết
“Bước đầu tìm hiểu về Phố Hiến” của hai tác giả Trương Hữu Quýnh và Đặng Huyền
Chi. Còn trên tạp chí Xưa và Nay, đáng chú ý là ba bài viết của các tác giả Tôn Nữ
Quỳnh Trân (1996) – “Người Pháp tại PH”, Hoàng Kim Đáng (1999) – “Phố Hiến
qua một tấm bản đồ cổ”, Nguyễn Văn Chiến (2005) – “Thương điếm Hà Lan ở Phố


Hiến”. Các bài viết trên đã phần nào làm rõ nét hơn về cơ cấu dân cư, vị trí các

phường xã, thương điếm trong cơ cấu đô thị của thương cảng Phố Hiến.
Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật cũng đăng tải một số chuyên khảo về Phố Hiến. Đáng
chú ý là hai bài viết của tác giả Trần Quốc Vượng (2001) với “Sông Nhị Hồng với
Hưng Yên - một tiếp cận địa văn hoá” và tác giả Nguyễn Quang Ngọc (2001) với
“Sông Đàng Ngoài với vị thế Phố Hiến xưa”. Trong khi giáo sư Trần Quốc Vượng
làm sáng tỏ phần nào vị thế của vùng đất Phố Hiến – Hưng Yên dựa trên những nghiên
cứu tiếp cận từ khía cạnh địa văn hoá thì giáo sư Nguyễn Quang Ngọc lại đặt Phố Hiến
trong mối tương quan với tuyến sông Đàng Ngoài. Đây cũng là chuyên khảo đầu tiên
chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa Phố Hiến với hai cảng thị cũng nằm trên tuyến sông
này là Thăng Long và Domea (thuộc Hải Phòng ngày nay).
Với việc tiếp cận được một số bản đồ cổ được vẽ bởi các nhà du hành phương Tây
đã từng đến Đàng Ngoài trong thế kỷ XVI, XVII và nguồn tư liệu lưu trữ của công ty
Đông Ấn VOC tại Hà Lan, nghiên cứu về thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII đã đạt
được những thành tựu mới. Liên tục trong ba năm 2005 – 2008, hàng loạt bài viết của
nhóm tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Văn Kim, Đỗ Thuỳ Lan, Hoàng Anh Tuấn
liên tục xuất hiện trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Với những chuyên khảo “Vùng cửa
sông Đàng Ngoài thế kỷ XVI-XVII” (Đỗ Thùy Lan, 2005); “Công ty Đông Ấn Hà Lan
ở Đàng Ngoài” (2005), “Kế hoạch Đông Á và sự thất bại của Công ty Đông Ấn Anh ở
Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua tư liệu phương Tây” (2005), “Mậu dịch tơ lụa của công
ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài 1637-1670” (2006), “Hải cảng miền Đông Bắc
và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua các nguồn tư liệu phương Tây”
(2007) của tác giả Hoàng Anh Tuấn và các bài viết “Vị trí của Phố Hiến và Domea
trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVI-XVIII” (Nguyễn Văn Kim, 2007),
“Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII, XVIII” (Nguyễn Quang
Ngọc, 2007), bức tranh toàn cảnh về thương mại Đàng Ngoài được phục dựng khá rõ
nét. Hệ thống tuyến giao thương và vị trí của từng thương cảng cũng như mối quan hệ
buôn bán giữa Đàng Ngoài với Anh, đặc biệt là với Hà Lan được các tác giả khảo cứu
tỉ mỉ. Trong đó, vị thế của Phố Hiến được làm sáng tỏ hơn trên từng chức năng tuần ty
thu thuế, kiểm soát cũng như chức năng thương mại của nó. Tuy nhiên, từ những
nguồn tư liệu phương Tây, các tác giả nhận định về vai trò của Phố Hiến với nhiều

quan điểm chưa thống nhất với nhau. Mặc dù vậy, những chuyên khảo này đã góp
phần đem đến những hiểu biết xác đáng, toàn diện và khách quan hơn về vị thế của
Phố Hiến trong toàn cảnh thương mại Đàng Ngoài.


Năm 2004, Phòng Văn hóa Thông tin Thị xã Hưng Yên đã tiến hành kiểm kê và
biên soạn tập tài liệu QTDT Phố Hiến – Thị xã Hưng Yên. Tuy nhiên đây vẫn chỉ là
một bản thống kê di tích còn chưa đầy đủ, chưa đem đến nhận thức chung về vẻ đẹp,
tính hệ thống và giá trị của QTDT lịch sử văn hóa trên địa bàn 12 phường của thị xã.
Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề, có thể thấy rõ Phố Hiến - Hưng Yên là một
vùng đất trọng tâm được các học giả nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên, do hạn chế về
tư liệu, nhiều vấn đề còn chưa có điều kiện làm sáng tỏ, đặc biệt là lịch sử vùng đất
này giai đoạn tiền và hậu Phố Hiến. Về mặt di tích đã có tổng kiểm kê di tích song vẫn
chưa đầy đủ và chưa làm sáng tỏ tính hệ thống cũng như giá trị của di tích.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn thị xã Hưng Yên bao gồm 12 phường xã,
đồng thời mở rộng phạm vi khảo sát thực địa sang bờ hữu ngạn sông Hồng đối diện
với Phố Hiến thuộc đất Duy Tiên (Hà Nam) và vùng ngã ba cửa Luộc thuộc Lý Nhân
(Hà Nam) và Hưng Nhân (Thái Bình). Nhằm tìm mối liên hệ và làm sáng tỏ vị trí của
các bến đò và hệ thống di tích dọc sông Hồng, sông Luộc, địa bàn khảo sát thực địa
cũng được mở rộng sang các huyện Kim Động và Tiên Lữ của tỉnh Hưng Yên.
Luận văn được tiến hành dựa trên kết quả tổng kiểm kê di tích và hệ thống hồ sơ
di tích của Bảo tàng tỉnh Hưng Yên, Phòng Văn hoá Thông tin thị xã Hưng Yên kết
hợp với việc kế thừa thành quả nghiên cứu trực tiếp của Hội thảo khoa học năm 1992.
Đặc biệt, nguồn tư liệu đóng vai trò chủ yếu để hình thành nên các luận điểm khoa học
trong luận văn là tư liệu dân gian dựa trên kết quả tập hợp, thống kê, điều tra điền dã
của tác giả qua các đợt khảo sát thực địa trong năm 2008.
Luận văn mong muốn đem đến cái nhìn toàn diện về QTDT lịch sử văn hóa Phố
Hiến với các loại hình di tích đa dạng, phong cách kiến trúc độc đáo. Trên cơ sở thống
kê, phân loại, luận văn tập trung tìm hiểu và phân tích đặc điểm, mối quan hệ giữa các

di tích. Qua đó, phác dựng diện mạo đô thị Phố Hiến theo từng thời kỳ lịch sử, làm rõ
nét hơn tiến trình lịch sử của vùng đất này không chỉ trong giai đoạn hưng thịnh của
thương cảng Phố Hiến thế kỷ XVII – XVIII mà còn phác dựng lịch sử giai đoạn tiền
Phố Hiến và hậu Phố Hiến.
Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn dựa trên những kết quả nghiên cứu về bức
tranh toàn cảnh của QTDT trong tương quan các điều kiện tự nhiên, xã hội sẽ cung cấp
thêm hiểu biết để các nhà quy hoạch, quản lý văn hoá đề ra các biện pháp bảo tồn, giữ
gìn hệ thống di tích này một cách hiệu quả trong quy hoạch thành phố tương lai.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn


Qua nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hóa, góp phần phác dựng lại diện mạo đô thị
Phố Hiến cũng như tiến trình phát triển của Phố Hiến - Hưng Yên trong lịch sử.
Luận văn tiến hành theo phương pháp liên ngành, nghiên cứu QTDT lịch sử - văn
hóa trong mối quan hệ tổng thể với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, nghiên cứu
di tích không tách rời khỏi các đặc trưng văn hóa dân gian của vùng. Từ đó, chúng tôi
Hưng Yên vọng đưa ra những giả thiết tổng hợp dựa trên những luận cứ khoa học về
các giai đoạn phát triển của Hưng Yên – Phố Hiến, đồng thời góp phần đề ra, kiến
nghị về phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong bối cảnh thị xã Hưng Yên
chuyển mình thành thành phố tương lai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của các ngành khoa học lịch
sử, văn hoá, bảo tồn, bảo tàng: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp
phỏng vấn, khảo sát thực địa, phương pháp so sánh, phân tích, đối chiếu, thống kê, tổng
hợp…
Ngoài những phương pháp truyền thống và cơ bản trên, cần thiết phải sử dụng
phương pháp liên ngành, khu vực học trong nghiên cứu đề tài này bởi:
Di tích lịch sử văn hoá không tồn tại một cách tự thân, tự phát mà nó ra đời, phát triển
và được bảo tồn trên cơ sở tổng hoà các điều kiện tự nhiên, lịch sử, tín ngưỡng, văn
hoá trong một thời kỳ nhất định hoặc trong cả một chuỗi các giai đoạn phát triển



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hóa, Huế.

2.

Phương Anh (1998), “Nhà ở dân gian trong lịch sử”, T/c Kiến trúc, số 3-4.

3.

Nguyễn Văn Âu (1997), Sông ngòi Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

4.

Đặng Văn Bài, “Suy nghĩ về việc bảo vệ và khai thác các di tích lịch sử và văn hoá ở
Phố Hiến”, Phố Hiến - Kỷ yếu hội thảo khoa học, tr.239-247, Sở Văn hoá Thông tin Thể thao Hải Hưng.

5.

Đặng Văn Bài (2008), “Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt
Nam”, T/c Di sản Văn hóa, số 2, tr.7-12.

6.

Ban nghiên cứu chính trị tỉnh Hưng Yên (1965), Lịch sử đất đai và thổ nhưỡng HY, Bản
viết tay lưu tại Thư viện tỉnh Hưng Yên.


7.

Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (2002), Tìm trong di sản
văn hoá Việt Nam: Thăng Long - Hà Nội, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

8.

Phòng Quản lý Đô thị Thị xã Hưng Yên (2004), Bản đồ hành chính Thị xã Hưng Yên.

9.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đình – đền – chùa Đào Đặng.

10.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích chùa Chuông.

11.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Mẫu.

12.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Trần.

13.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đình An Vũ.

14.


Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Trạ.

15.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Đằng Châu.

16.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Kim Đằng.

17.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Bà Đào Nương.

18.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đình – chùa Hiến.

19.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích chùa Nễ Châu.

20.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Bảo Châu.

21.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Văn miếu Xích Đằng.


22.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Đông Đô Quảng Hội.

23.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Chùa Phố.

24.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Võ Miếu.

25.

Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Thiên Hậu.


26.

Đỗ Bang (1991), “Dấu tích cảng thị Nước Mặn (Bình Định)”, Những phát hiện mới về
khảo cổ học, tr.193.

27.

Đỗ Bang (1992), “Phố cảng Thanh Hà và dấu tích phố cổ”, Những phát hiện mới về
khảo cổ học, tr.172 – 173.

28.


Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận - Quảng (Hội An - Thanh Hà - Nước Mặn) thế
kỷ XVII - XVIII, NXB Thuận Hóa, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.

29.

Đỗ Bang (1991), “Quan hệ và phương thức buôn bán giữa Hội An với trong nước”, Kỷ
yếu Đô thị cổ Hội An, tr.231-245, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

30.

Đỗ Bang (1994), “Mối quan hệ giữa các Phố Cảng Đàng Trong với Phố Hiến thế kỷ
XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.188-195, Sở Văn hóa Thông tinThể thao Hải Hưng.

31.

Nguyễn Chí Bền (2006), “Bảo tồn di sản văn hoá vật thể Thăng Long - Hà Nội: Những
vấn đề phương pháp luận”, Kỷ yếu hội thảo khoa học phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu chương trình KX.09, tr.147-155, NXB Hà Nội, Văn phòng Ban chỉ đạo
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

32.

Nguyễn Chí Bền (2008), “Văn hóa ven sông Hồng ở Việt Nam, vấn đề và sự tiếp cận”,
T/c Di sản văn hóa, số 2, tr.20-27.

33.

Nguyễn Bích (1994), “Cái đình và điêu khắc đình làng”, Kỷ yếu Bảo tàng Mỹ thuật
tháng 8-1993, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.


34.

Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1971), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn
Huệ, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

35.

Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

36.

Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, NXB Văn
hoá Dân tộc, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.

37.

Bộ Văn hoá Thông tin (2003), Luật di sản văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38.

Laurent Burel (1996), “Hoạt động truyền giáo của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (18561883)”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr.21-31.

39.

Trần Bá Chí (1994), “Quá trình thông thương giữa Xích Đằng-Phố Hiến với Càn HảiPhù Thạch”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.210-214, Sở Văn hóa Thông tin-Thể
thao Hải Hưng.

40.


Trần Bá Chí (2003), Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, NXB Quân đội Nhân
dân, Hà Nội.

41.

Nguyễn Văn Chiến (2005), “Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến”, T/c Xưa và Nay, số 249.


42.

Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 2, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

43.

Phan Huy Chú (2005), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

44.

Cục Di sản Văn hóa (2005), Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, Hà Nội.

45.

William Dampier (2007), Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế
giới, Hà Nội.

46.

Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (1985), “Hoạt động thương nghiệp nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVIII-XIX”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr.26-34.


47.

Phan Đại Doãn, Trương Hữu Quýnh (1994), “Về sự suy tàn của PH”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học Phố Hiến, tr.215-219, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

48.

Nguyễn Đăng Duy (1993) , Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, Trường Đại học Văn hóa
Hà Nội.

49.

Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch sử - văn hoá, Bộ Văn
hoá - Thông tin, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội.

50.

Phạm Đức Dương (1998), Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt Hoa
trong lịch sử, NXB Thế giới, Hà Nội.

51.

Hoàng Kim Đáng (1999), “Phố Hiến qua một tấm bản đồ cổ”, T/c Xưa và Nay, số 63,
tr.21-22.

52.

Nguyễn Đình Đầu (1991), “Quá trình hình thành và phát triển phố cổ Hội An”, Kỷ yếu
Đô thị cổ Hội An, tr.161-166, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.


53.

Nguyễn Khoa Điềm (1998), “Văn hoá và bảo tồn di sản văn hoá”, T/c Xưa&Nay, số 53,
tr.4

54.

Trịnh Thị Minh Đức (2007), Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.

55.

Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

56.

Anthoyny Farrington (1994), “Những tài liệu của công ty Đông Ấn Anh liên quan đến
Phố Hiến và Đàng Ngoài”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.143-159, Sở Văn hóa
Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

57.

Riichiro Fujawara, (1994) “Quy chế người Hoa dưới chế độ họ Trịnh và Phố Hiến”, Kỷ
yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.96-100, Sở Văn hóa Thông tin -Thể thao Hải Hưng.

58.

Vũ Minh Giang (1991), “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”, Kỷ yếu
Đô thị cổ Hội An, tr.205-215, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.


59.

Vũ Minh Giang (1994), “Góp phần nhận diện Phố Hiến qua hai tấm bia”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học Phố Hiến, tr.115-122,Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.


60.

Pierre Gourou (2003), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Hội Khoa học lịch sử Việt
Nam, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

61.

Châu Hải (1994), “Người Hoa ở Phố Hiến trong mối quan hệ với người Hoa ở các đô thị
Việt Nam cùng thời kỳ”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.202-209, Sở Văn hóa
Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

62.

Nguyễn Duy Hinh (1994), “Thần điện Phố Hiến”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến,
tr.232-238, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

63.

Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.

64.


Nguyễn Kim Hoa (1996), “Di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ngàn năm
văn hiến”, T/c Kiến trúc, số 1, tr.64-65.

65.

Nguyễn Văn Hoàn (1991), “Hội An một trung tâm giao lưu văn hóa với thế giới của
Việt Nam ở thế kỷ XVII”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.278-293, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

66.

Tăng Bá Hoành (1994), “Di tích lịch sử văn hoá ở Phố Hiến”, Phố Hiến - Kỷ yếu hội
thảo khoa học, tr.221-227, Sở Văn hoá Thông tin - Thể thao Hải Hưng.

67.

Tăng Bá Hoành (1994), “Phố Hiến qua nghiên cứu khảo cổ học”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học Phố Hiến, tr.89-95, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

68.

Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định quy định về việc thi hành “Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng
di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh”, Hà Nội.

69.

Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1984), Pháp lệnh và
bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh thông qua ngày
31/03/1984.


70.

Hội Văn học Nghệ thuật Hưng Yên (2005), Văn hóa văn nghệ dân gian HƯNG YÊN –
đôi nét phác thảo, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

71.

Đỗ Đức Hùng (1997), Vấn đề trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế kỷ
XIX), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

72.

Nguyễn Quốc Hùng (2008), “Vai trò của di sản văn hóa trong sự nghiệp phát triển ở
nước ta hiện nay”, T/c Di sản văn hóa, số 2, tr.13-19.

73.

Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, Ngô Đức Thọ dịch, tài liệu lưu tại Thư viện tỉnh Hưng
Yên.

74.

Nguyễn Thừa Hỷ, Phan Hải Linh (1999), “Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt
Nam thế kỷ XVI-XVII”, Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản thế kỷ XV-XVII
qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.


75.

Nguyễn Thừa Hỷ (1994), “Phố Hiến qua các nguồn tư liệu nước ngoài”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học Phố Hiến, tr.83-88, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

76.

Nguyễn Thừa Hỷ (1994), “Sông Đàng Ngoài và Domea – Một đô thị cổ đã biến mất”,
T/c Xưa và Nay, số 4.

77.

Shigeru Ikuta (1991), “Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam Á từ đầu thế
kỷ III đến thế kỷ XIX”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.247-260, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 1991, .

78.

Katooiichi (1991), “Mậu dịch với Đông Dương với các thương điếm thuộc công ty Đông
Ấn Hà Lan tại Nhật Bản”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.217-229, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

79.

La province de Hung Yen (Tỉnh HY), khuyết danh, nguyên văn tiếng Pháp, Ngô Đức Thọ
dịch, tài liệu hiện lưu tại Phòng Địa chí, Thư viện tỉnh Hưng Yên.

80.

Trần Khánh (2004), “Tiếp xúc, hội nhập kinh tế Đông Á - Đông Nam Á ven biển trong
tiến trình lịch sử”, Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.91-102,
NXB Thế giới, Hà Nội.


81.

Vũ Ngọc Khánh (1994), “Phố Hiến giữa vùng Folklore Sơn Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học Phố Hiến, tr.123-128, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

82.

Nguyễn Khởi (2002), Bảo tồn và trùng tu các di tích kiến trúc, NXB Xây dựng, Hà Nội.

83.

Nguyễn Văn Kiệm (2001), Sự du nhập của Thiên chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII
đến thế kỷ XIX, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.

84.

Nguyễn Văn Kiệm (1995), “Họ Trịnh đối với các giáo sĩ phương Tây”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch sử, tr.229-240, Ban Nghiên cứu và biên soạn
lịch sử Thanh Hóa.

85.

Nguyễn Hồng Kiên (1991), “Bộ vì nóc của kết cấu nhà khung gỗ cổ truyền Việt Nam”,
T/c Văn hóa Nghệ thuật, số 97.

86.

Nguyễn Hồng Kiên (1996), “Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt Nam”, T/c Kiến trúc, số 3.

87.


Nguyễn Hồng Kiên (1999), “Những thành phần bao che trong kiến trúc gỗ cổ truyền của
người Việt”, T/c Kiến trúc, số 3.

88.

Nguyễn Hồng Kiên (1999), “Mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ truyền của người
Việt”, T/c Văn hóa Nghệ thuật, số 11.

89.

Nguyễn Hồng Kiên (2003), Đình làng Việt Nam thế kỷ XVI, Luận án tiến sĩ, Viện Khảo
cổ học, Hà Nội.

90.

Nguyễn Văn Kim (1999), “Vị trí của một số thương cảng Việt Nam trong hệ thống buôn
bán ở biển Đông thế kỷ XV-XVII”, Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản thế
kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.


91.

Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ XV-XVII, Giáo
trình chuyên đề, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

92.

Nguyễn Văn Kim (2002), “Hệ thống buôn bán ở biển Đông thế kỷ XVI-XVII và vị trí
của một số thương cảng Việt Nam (Một cái nhìn từ điều kiện địa-nhân văn)”, T/c Nghiên

cứu Lịch sử, số…, tr.45-52.

93.

Nguyễn Văn Kim (2007), “Vị trí Phố Hiến và Domea trong hệ thống thương mại Đàng
Ngoài thế kỷ XVI-XVIII”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr. …

94.

Hoàng Đạo Kính, Vũ Hữu Minh (1991), “Phân tích và đánh giá hiện trạng di tích kiến
trúc cổ Hội An”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.341-360, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

95.

Hoàng Đạo Kính, Hoàng Minh Ngọc, Vũ Hữu Minh, Nguyễn Hồng Kiên (1991), “Một
số khuyến nghị về bảo tồn và sử dụng các di tích ở Hội An”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An,
tr.361-374, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

96.

Hoàng Đạo Kính (2002), Di sản văn hoá bảo tồn và trùng tu, NXB Văn hoá - Thông tin,
Hà Nội.

97.

Sakurai Kiyohiko (1999), “Giao lưu văn hoá Đông Tây qua con đường tơ lụa trên biển”,
Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt - Nhật thế kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.

98.


Đỗ Thùy Lan, “Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII”, T/c Nghiên cứu lịch sử.

99.

Lê Văn Lan (1989), “Phố Hiến”, Đô thị cổ Việt Nam, tr.195-209, Viện Sử học, Hà Nội.

100. Lê Văn Lan (1991), “Hội An giữa các đô thị trung cổ Việt Nam”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội
An, tr.261-264, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
101. Lê Văn Lan (1994), “Vị trí của Phố Hiến trong lịch sử các đô thị cổ Việt Nam”, Kỷ yếu
hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.185-187, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
102. Vũ Tam Lang (1999), Kiến trúc cổ Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội.
103. Trần Lâm, Hồng Kiên (1987), “Diễn biến của các loại hình kiến trúc cổ Việt Nam”, T/c
Kiến trúc, số 2&3.
104. Vũ Tự Lập (1991), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Hồng, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
105. Phan Huy Lê (1962), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 2, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
106. Phan Huy Lê, Vũ Hoàng Tuyên, Chu Thiên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội.
107. Phan Huy Lê (1994), “Phố Hiến những vấn đề khoa học đang đặt ra”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học Phố Hiến, tr.18-28, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
108. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội.


109. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội.
110. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, NXB Giáo dục, Hà Nội.
111. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
112. Tạ Ngọc Liễn (1995), Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.

113. Charles Maybon (2006), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nguyễn Thừa Hỷ dịch,
NXB Thế giới, Hà Nội.
114. Phạm Quang Nghị, Lê Doãn Hợp, Đặng Văn Bài (2006), Một con đường tiếp cận di sản
văn hóa, NXB Thế giới, Hà Nội.
115. Nguyễn Đình Nhã (1994), “Cư dân và phong tục tập quán PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học Phố Hiến, tr.108-114, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
116. Nguyễn Đức Nghinh (1994), “Phố Hiến thế kỷ XVII-XVIII: Một số vấn đề kinh tế xã
hội”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.101-107, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao
Hải Hưng.
117. Nguyễn Quang Ngọc (1994), “Đôi nét về công ty Đông Ấn Hà Lan và thương điếm
PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.129-137, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao
Hải Hưng.
118. Nguyễn Quang Ngọc (2005), “Lê Hoàn và chiến thắng Bạch Đằng năm 981”, T/c
Nghiên cứu lịch sử, Số 6, tr.3-11.
119. Nguyễn Quang Ngọc (2007), “Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ
XVII – XVIII”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 10.
120. Lê Nguyễn (2004), Xã hội Đại Việt qua bút ký của người nước ngoài, NXB Văn Nghệ
Tp Hồ Chí Minh.
121. Nguyễn Danh Phiệt (1995), “Suy nghĩ về sự xuất hiện và vai trò của chúa Trịnh trong
lịch sử từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Chúa Trịnh vị
trí và vai trò lịch sử, tr 79-88, Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa.
122. Nguyễn Danh Phiệt (1990), Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
123. Phòng nông nghiệp và thủy văn huyện Tiên Lữ, Bản đồ HƯNG YÊN năm 1947.
124. Phòng Văn hoá - Thông tin Thị xã Hưng Yên (2004), Bản kiểm kê QTDT Phố Hiến - Thị
xã Hưng Yên, Hưng Yên.
125. Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Duy Tiên (2005), Bản thống kê các cơ sở tôn giáo tín
ngưỡng huyện Duy Tiên, Hà Nam.



126. Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Duy Tiên (1993), Hồ sơ di tích xã Trác Văn, Duy
Tiên, Hà Nam.
127. Nguyễn Vinh Phúc (1994), “Phố Hiến nhìn từ Thăng Long”, Kỷ yếu hội thảo khoa học
Phố Hiến, tr.176-184, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
128. Vũ Huy Phúc (1995), “Quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và các nước phương Tây
thế kỷ XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch sử,
tr.241-251, Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa.
129. Vũ Thị Phụng (1995), “Một vài nhìn nhận về những di sản pháp luật dưới thời Lê Trịnh thế kỷ XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch sử,
tr.125-135, Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa.
130. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1991), Mỹ thuật ở làng, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.
131. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Đại Nam nhất thống chí, Tập 3, NXB Thuận Hóa.
132. Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), Đồng Khánh địa dư chí, NXB Thế giới, Hà Nội.
133. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
134. Ngô Huy Quỳnh (2000), Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội.
135. Trương Hữu Quýnh (1994), “Sự ra đời và phát triển của PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học
Phố Hiến, tr.36-44, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
136. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1998), Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
137. Momoki Shiro (2004), “Đại Việt và thương mại ở Biển Đông từ thế kỷ X đến thế kỷ
XV”, Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.309-330, NXB Thế
giới, Hà Nội.
138. Momoki Shiro (1994), “Nhật Bản và Việt Nam trong hệ thống buôn bán châu Á vào thế
kỷ XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.45-54, Sở Văn hóa Thông tinThể thao Hải Hưng.
139. Kikuchi Seiichi (2004), “Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Hội An qua sự
phân bố các di tích”, Tham luận Hội thảo Việt Nam học lần 2, Tp Hồ Chí Minh.
140. Kikuchi Seiichi (2001), “Sự hình thành và phát triển khu phố cổ Hội An (Qua tư liệu văn
bia, thư tịch và KCH)”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 6, tr.50-56.
141. Kikuchi Seiichi (2004), “Gốm sứ Hizen ở Bắc Bộ và Trung Bộ Việt Nam”, Đông Á Đông Nam Á, những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.331-348, NXB Thế giới, Hà Nội.
142. Bùi Hoài Sơn (2008), “Các quan điểm lý thuyết về quản lý di sản”, Kỷ yếu hội thảo khoa

học phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chương trình KX.09, tr.156-163,
NXB Hà Nội, Văn phòng Ban chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.


143. Vũ Thanh Sơn (2001), Các vị thánh thần sông Hồng, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
144. Vũ Thanh Sơn (1994), Thiên sinh Thánh mẫu họ Đào, T/c Văn hóa Thể thao Hải Hưng,
Sở Văn hóa Thông tin Hải Hưng.
145. Sở Văn hoá Thông tin, Hội Văn học Nghệ thuật HƯNG YÊN (1998), Phố Hiến lịch sử văn hoá, HY.
146. Nguyễn Đức Tâm (1981), “Lịch sử hình thành các vùng đồng bằng ven biển Việt Nam”,
T/c Khảo cổ học, số 4, tr.1-9.
147. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (1993), Chùa Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
148. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (1998), Đình Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
149. Hà Văn Tấn (1998), “Bảo tồn di tích lịch sử - văn hoá trong bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”, T/c Xưa&Nay, số 53, tr.5-7.
150. Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (2003), Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông
thế kỷ XIII, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
151. Trịnh Như Tấu (1937), HƯNG YÊN địa chí, In tại nhà in Ngô Tử Hà, Hà Nội.
152. Lê Bá Thảo (2002), Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
153. Lê Bá Thảo (1994), “Những khía cạnh địa lý của vấn đề PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học
Phố Hiến, tr.30-35, Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Hải Hưng.
154. Nguyễn Đức Thiềm (1983), “Tìm hiểu về cấu trúc gian vì kèo trong nhà ở truyền thống
của người Việt”, T/c Dân tộc học, số 2.
155. Nguyễn Thịnh (1994), “Văn bia chùa Chuông và bóng dáng Phố Hiến xưa”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học Phố Hiến, tr.138-140, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
156. Ngô Đức Thọ (1994), “Đi tìm tư liệu bi ký về PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến,,
tr.55-59Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
157. Đặng Thu (1994), Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, Trung tâm Nghiên
cứu dân số và phát triển, Hà Nội.
158. Cao Huy Thuần (2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam
(1857-1914), NXB Tôn giáo, Hà Nội.
159. Chu Thuấn Thủy (1999), Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Hội

Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
160. Thư viện tỉnh HƯNG YÊN (1998), Trăm năm nhà thờ Hưng Yên (1898-1998), HY.
161. Phan Cẩm Thượng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.
162. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (Thế kỷ XIXIV), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.


163. Hoàng Anh Tuấn (2005), “Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Đàng Ngoài”, T/c Nghiên cứu
lịch sử, số 3.
164. Hoàng Anh Tuấn (2005), “Kế hoạch Đông Á và sự thất bại của công ty Đông Ấn Anh ở
Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua tư liệu phương Tây”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 9.
165. Hoàng Anh Tuấn (2006), “Mậu dịch tơ luụa của công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng
Ngoài 1637-1670”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 3+4.
166. Hoàng Anh Tuấn (2007), “Hải cảng miền đông bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài
thế kỷ XVII qua các nguồn tư liệu Phương Tây”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 1+2.
167. Nguyễn Khắc Tụng (1998), “Nhận biết yếu tố Hoa trong kiến trúc nhà ở cổ truyền của
người Việt và ngược lại”, Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá Việt - Hoa
trong lịch sử, tr.113-127, NXB Thế giới, Hà Nội.
168. Nguyễn Phước Tương (1997), Đô thị cổ Hội An và những di tích tiêu biểu, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
169. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
170. Chu Quang Trứ (1994), “Phố Hiến qua một số di tích mỹ thuật”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học Phố Hiến, tr.238-241, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.
171. Chu Quang Trứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ thuật, Hà
Nội.
172. Chu Quang Trứ (2002), Văn hoá Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Tập I, Viện Mỹ thuật NXB Mỹ thuật, Hà Nội.
173. Chu Quang Trứ (2002), Văn hoá Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Tập II, Viện Mỹ thuật NXB Mỹ thuật, Hà Nội.
174. Hoàng Anh Tuấn (2004), “Mậu dịch gốm sứ của Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng
Ngoài thế kỷ XVII”, Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.349372, NXB Thế giới, Hà Nội.
175. Trịnh Cao Tưởng (1981), “Kiến trúc đình làng”, T/c Khảo cổ học, số 2, tr 56-64.
176. Trịnh Cao Tưởng (1999), “Mở đầu việc nghiên cứu thương cảng cổ Việt Nam trong lịch

sử trên phương diện khảo cổ học”, T/c Khảo cổ học, số 4, tr.66-69.
177. Trịnh Cao Tưởng (1996), “Buớc đầu tìm hiểu về đồ gốm nước ngoài phát hiện ở các
thương cảng cổ Việt Nam”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr.56-61.
178. Trịnh Cao Tưởng (1991), “Tiếp xúc văn hoá ở Hội An nhìn từ góc độ kiến trúc”, Kỷ yếu
Đô thị cổ Hội An, tr.19-323, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
179. Trịnh Cao Tưởng (2007), Một chặng đường tìm về quá khứ, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.


180. A. de Rhodes (1994), Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, Bản dịch Hồng Nhuệ, Uỷ Ban
đoàn kết Công Giáo Thành phố Hồ Chí Minh.
181. UBND Thị xã Hưng Yên (2007), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2006, Phương hướng nhiệm vụ năm 2007, HY.
182. UBND Thị xã Hưng Yên (2008), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2007, Phương hướng nhiệm vụ năm 2008.
183. UBND Tỉnh Hưng Yên (2005), Hưng Yên 175 năm, Hưng Yên.
184. UBND Tỉnh Hưng Yên (2008), Đề án thành lập thành phố Hưng Yên thuộc tỉnh Hưng
Yên, Hưng Yên.
185. Tạ Thị Hoàng Vân (2006), Di tích kiến trúc Hội An trong tiến trình lịch sử, Luận án tiến
sỹ lịch sử Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội.
186. Tạ Thị Hoàng Vân (2005), “Vật liệu trong kiến trúc cổ Việt Nam”, T/c Văn hoá Nghệ
thuật, số 5, tr.91-96.
187. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII-XVIII đầu thế kỷ XIX,
NXB Sử học, Hà Nội.
188. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1990), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
189. Viện Nghiên cứu Kiến trúc (1997), Kiến trúc và khí hậu nhiệt đới Việt Nam, NXB Xây
dựng, Hà Nội.
190. Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, Đại học Quốc gia Tokyo (2006), Kỷ yếu hội
thảo khoa học Khu vực học - Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu, Hà

Nội.
191. Trần Thị Vinh (1994), “Thăng Long-Phố Hiến mối quan hệ giao thương ở thế kỷ XVIXVII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.196-201, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao
Hải Hưng.
192. Trần Quốc Vượng (1994), “Di tích và thể cảnh môi sinh”, T/c Xưa&Nay, số 1, tr.11-12.
193. Trần Quốc Vượng (2001), “Sông Nhị Hồng với HƯNG YÊN (một cách tiếp cận địa văn
hoá)”, T/c Văn hoá nghệ thuật, số 10.
194. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1963), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 1,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
195. Abe Yuriko (1999), “Lịch sử khu vực Hội An nhìn từ góc độ phân bố di tích”, Hội thảo
Quốc tế Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản thế kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.
196. Tư liệu khai thác trên một số website.



×