Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

DH03 002 nghệ thuật hoa văn trên bia văn miếu quốc tử giám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.42 KB, 21 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng Đại học s phạm hà nội
Khoa s phạm âm nhạc - Mỹ thuật
----------- -----------

Khoá luận tốt nghiệp
Ngành s phạm mĩ thuật

Đề tài: Nghệ

thuật hoa văn trên
văn bia Văn miếu Quốc Tử Giám

Giảng viên hớng dẫn: Th.S Đinh Gia Lê
Sinh viên: Vũ Mạnh Cờng
Lớp: Đại học SP Mỹ thuật - K1 Phú Thọ


N¨m 2007

2


Nghệ thuật hoa văn trên văn Bia tiến sĩ
ở văn miếu Quốc Tử Giám
A. Phần mở đầu.

1. Lí do chọn đề tài.
Văn miếu - Quốc tử giám là một di tích lịch sử nổi tiếng ở Hà Nội,
đây là trờng Đại học đầu tiên của Việt Nam. Nói đến Văn miếu - Quốc tử
giám thì ngời Hà Nội và triệu ngời Việt Nam không ai không biết đến, tuy vậy


không phải ai cũng hiểu biết đầy đủ giá trị lịch sử văn hoá nghệ thuật của
công trình này. Về nghệ thuật kiến trúc của khu di tích này đồng thời qua đó
giới thiệu đôi nét về nền giáo dục dới các triều đại phong kiến của Việt Nam
với những bí ẩn trong Văn miếu - Quốc tử giám về số 82 bia đá tiến sĩ trong
Văn miếu - Quốc tử giám cũng nh các kiến trúc của Văn miếu - Quốc tử giám.
Đã trải qua hàng ngàn năm Văn miếu Quốc Tử Giám vẫn giữ đợc
giáng vẻ cổ kính, với đặc điểm kiến trúc của nhiều triều đại và nhiều hiện vật
quý giá.
Nh điện Đại Thành, Khuê Văn Các, Bia tiến sĩ Văn miếu là một
trong những di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu từ lí do đó mà em cảm thấy giá trị
nghệ thuật hoa văn trong bia tiến sĩ là một bộ phận rất quan trọng, là kho tàng
di sản nghệ thuật Việt Nam. Xét về số lợng tác phẩm cũng nh tính thẩm mỹ
độc đáo của Bia tiến sĩ. Biểu tợng của 82 khoa thi đợc tổ chức vào những năm
1442 đến năm 1779.
Hoa văn bia là nết đẹp không gian trìu tợng.
Vì vạy Bia tiến sĩ là những pho sử liệu bằng đá quý giá về nền giáo
dục nho học Việt Nam.
Tính nghệ thuật sắc sảo trong hoa văn bia tại Văn miếu Quốc Tử Giám
khi tiếp xúc tạo nên sự hứng thú, mà thoạt nhìn bí ẩn tới ngỡ ngàng. Chính vẻ
đẹp đó tính nghệ thuật hoa văn bí ẩn đó đã khiến em chọn đề tài này tại Văn
miếu Quốc Tử Giám.

3


2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu về hoa văn bia tại Văn miếu - Quốc tử giám.
- Giúp hiểu biết thêm về trờng Đại học đầu tiên của Việt Nam.
3. Đối tợng nghiên cứu.
- Nghệ thuật hoa văn trên văn Bia tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám.

4. Phạm vi nghiên cứu.
- Hoa văn trên toàn bộ hoa văn còn tồn tại ở Văn miếu - Quốc tử giám
Việt Nam .
5. Phơng pháp nghiên cứu.
- Điền dã.
- Nghiên cứu tài liệu.
- Phân tích tổng hợp.
6. Bài học rút kinh nghiệm.
- Giúp bản thân cảm nhận một cách đúng đắn về nghệ thuật hoa văn
trên văn bia tiến sĩ tại Văn miếu - Quốc tử giám.
- Giúp hiểu biết thêm về trờng Đại học đầu tiên của Việt Nam đó là
Văn miếu - Quốc tử giám.
- Có thêm tài liệu hiểu biết về hoa văn bia trên văn bia tiến sĩ cho đồng
nghiệp tham khảo.
- giảng dạy cho học sinh biết trờng Đại học đầu tiên của Việt Nam ta
đó Văn miếu - Quốc tử giám.

4


B. Phần nội dung.

Chơng 1
Giới thiệu về Văn miếu Quốc Tử Giám,
tính nghệ thuật hoa văn bia.
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Văn miếu - Quốc tử giám.
- Qua các triều đại Lý - Trần, trải qua 4 thế kỷ (1010 - 1400) đã từng
xây dựng trong nớc khá nhiều công trình nghệ thuật kiến trúc. Thời kỳ Lý đã
xây dựng nhiều đền đài, chuà lớn nổi tiếng. Phần lớn nằm ở vũng kinh bắc phơng tây. Tiếp theo triều Trần xây dựng nhiều đền chùa, đền miếu năng mộ ở
kinh thành Thăng Long. Các triều đại Lý - Trần cũng xây dựng khá nhiều

công trình kỳ vĩ, nhng tiếc thay hầu hết các công trình đều bị phá huỷ. Những
công trình còn lại chẳng đợc là bao nhiêu. Văn miếu - Quốc tử giám của các
triều vua Lý - Trần luôn coi phật giáo, quốc giáo trong suốt thế kỷ XI - XII
đến triều Trần lòng đạo phật không mảy may giảm sút. Sau khi định đô ở
Thăng Long năm canh Tuất 1070 cách nay hơn 9 thế kỷ. Triều Lý cho dựng
ngay toà khổng Miếu ở phía Nam kinh thành. Thoạt đầu mới chỉ là ngôi miếu
nhỏ thờ Chu Công, Khổng Tử và bốn môn đồ của Khổng tử.
- Việc lập văn miếu còn mang một ý nghĩa giáo dục nh Đại việt sử ký
toàn th có ghi chép nêu rõ mùa thu tháng 8 làm Văm miếu đắp tợng Khổng
Tử. Chu Công và tứ phối vẽ tợng Thất thập nhị hiền bốn mùa cúng tế Hoàng
thái tử đến học tại Văn miếu - Quốc tử giám. Ngay từ đầu Lý Thánh Tông đã
lo việc học một cách chính quy vào năm ất mão 1075, mở khoa thi đầu tiên.
Trong số đó có 10 ngời trúng tuyển, Lê Văn Thịnh đõ thủ khoa. Bính Thìn
năm Anh Vũ Chiêu thắng thứ nhất 1076 tháng 4 nhà Quốc Tử giám tuyển các
văn thần có những ngời có Văn học.
- Nhà quốc học chính thức đầu tiên của lịch sử giáo dục Việt Nam gia
đời từ đó, đó là hoàng tử, hoàngtộc và các con em gia đình quý tộc. Thầy dạy
trờng Đại học Quốc tử giám là những bậc có chữ hay cả nớc. Việc học đợc đề
cao, nho sĩ đợc nhà nớc trọng vọng năm Bính dần 1086, những ngời đỗ cao đợc vào viện Hàn Lâm. Mạc Hiển Tích là ngời đầu tiên đợc hởng vinh hạnh đó.
5


Việc thành lập và xây dựng Văn miếu - Quốc tử giám phát triển theo
từng bớc của nền giáo dục nớc nhà. Tuy rằng việc giáo dục mới chỉ dành cho
lớp trên những vẫn có một số không nhiều thông minh học giỏi trong nhân
gian đợc tuyển vào học ở đó. Việc lập Văn miếu 1070 và Quốc tử giám 1076
hoàn toàn không đóng khung trong lĩnh vực Tôn giáo, bởi đất nớc vừa dành đợc quyền tự chủ sau hơn một ngàn năm. Tuy vậy Văn miếu cùng bia tiến sĩ
tồn tại đến ngày nay, đã đánh dấu truyền thống và sự hiếu học của dân tộc ta.
Bia tiế sĩ chỉ ghi đợc khao thi hội dới triều Lê sơ, Mạc, hậu Lê chỉ tồn tại có
82 tấm bia là một di sản văn hoá quý giá của dân tộc và có biết ngời bồi hồi

xúc động trớc những phiến đá cao bằng đầu ngời, nét chữ khắc trên bia và
những hoa văn bị thời gian bào mòn với những cái tên Văn miếu - Quốc tử
giám.
- Nói đến Quốc tử giám chúng ta phải nhắc đến về nghệ thuật Văn
miếu - Quốc tử giám thay đổi nhiều lần qua các triều đại. Khu di tích này toạ
lạc trên một khu đất hình chữ nhật rộng 6 mẫu Bắc Bộ, xung quanh có xây
gạch vồ bốn phía đợc chia thành 5 khu vực rõ ràng, đợc xây dựng ngăn cách
bởi những bức tờng ngang. Thực ra khu di tích lịch sử văn miếu gồm cả đờng
Quốc tử giám và Văn hồ trớc mặt hiện đã sửa chữa xong. Trong số có khu văn
hồ trớc cổng Văn miếu bên kia đờng Quốc tử giám có một cái hồ khá rộng,
giữa hồ nổi lên một gò đất. Trên gò xa vốn có nhà bia và bia, có cây cổ thụ. Di
tích này có tên là Văn hồ còn gọi là Thái hồ. Dân gian có câu: Nớc Văn hồ
tha hồ tắm mắt, Rợc Hồ Đình khao khat bạn làng văn. Đây chính là Tiểu
minh đờng của Văn miếu, là một bộ phận cấu thành tổng thể kiến trúc chung
của Văn miếu - Quốc tử giám.
Năm 1863, trong dịp sửa chữa nhà bia Văn miếu, Văn Hồ đợc một lần
tu sửa. Điều này đợc ghi rõ trên tấm bia đá dựng ở gò nổi giữa Văn Hồ.
Còn có Đình bia Văn Hồ, đình đợc làm xong khiến hồ thay đổi trở lên
đẹp đẽ, làm cho phong cảnh của Hồ của núi. Vào mùa thu năm Quý Hợi, niên
hiệu Tự Đức 1863 đã dựng bia tiến sĩ và sửa sang khu hồ. Đình làm xong gọi
là đình Văn Hồ cho khắc lại 10 bài thơ vịnh phán thuỷ.

6


Khu vực cổng chính: Trong về phơng Nam, ngoài sát mặt đờng nhựa
Quốc tử giám, có bốn cột trụ cao. Hai góc có hai bia Hạ Mã đặt trong hai
nàh bia nho nhỏ, xya gạch là mốc danh giới, chiều ngang phía trớc mặt. Điều
đó chứng tổ rằng ngày xa dù võng lọng hay ngữa xe hễ đi qua Văn miếu điều
phải xuống và đi bộ từ tấm bia Hạ Mã và bên kia Hạ Mã mới đợc lên xe vào

cuộc hành trình. Chứng tỏ rằng thời đó Văn miếu có vị trí rất tôn nghiêm,
ngoài ra có cả văn miếu môn tức Cổng Văn miếu, rồi đến Đại trung môn, tức
cửa Đại trung, Đại thành môn tức cửa Đại thành, Văn miếu.
Qua cửa đại thành tới khu vực chính với một sân rộng nát gạch, hai
bên phải trái là hai tả Tả vu và Hữu vu mỗi dãy 9 gian nơi đặt bài vị các vị tiên
hiền và danh nho của 72 học trò của Khổng Tử và 2 đại nho của Việt Nam là
Chu Văn An và Chơng Hán Siêu.
Ngoài Tả vu và Hữu vu, Đền Khải Thánh Quốc tử giám là nơi thờ mẹ,
cha của Khổng tử, túc là Thúc Lơng Ngột và Nhan Trơng Tại, khu này có nhà
Thủ Từ ngời canh gắc và miếu thổ địa.
1.2 Sơ lợc Thiên Quang Tỉnh và Bia tiến sĩ.
- Khu vực giếng Thiên Quang Tỉnh và hai bên nhà Bia tiến sĩ.
- Giữa có ba giếng đào hình vuông, hay còn gọi là Văn Trì (Văn Ao).
- Giếng Thiên Quan đợc coi là quả đất vì giếng có hình vuông. Còn
cửa chòn của Khuê Văn Các biểu tợng cho trời, vì vậy những tinh hoa của trời
đất đều đợc tập trung lại ở đất Hà Thành mà giá trị văn hoá giáo dục bất hủ
chẳng nơi nào sánh nổi.
- Hai bên tả hữu của Giếng Thiên Quan là những dãy hàng Bia tiến sĩ
đợc chia đều ở hai bên có 82 tấm mỗi bên là 41 tấm.
- Dựng thành hai hàng, nguy nga mặt bia đều quay về Giếng Thiên
Quan giữa mỗi vờn bia của mỗi bên xây dựng một toà đình vuông bốn mặt để
trống. Đây là toà đình thờ bia hay còn gọi là Bi Đình vào các năm cũng sửa lễ
vật cúng bái các vị tiên nho của nớc nhà đã đợc khắc lên bia.
- Trong 82 bia còn lại tới nay tấm biết đợc dựng sớm nhất là vào năm
1484 khắc tên các vị tiến sĩ đỗ ở Khoa Nhâm Thân.

7


- Tấm dựng cuối cùng là vào năm 1780 khắc tên các vị tiến sĩ đỗ ở

Khoa Kỷ Hợi.
Nếu tính đủ từ năm thứ 3 (1442 - thứ 40 năm 1787) của Đinh Mùi tính
đủ có tới 124 Khoa thi đình, nếu tính khoa Tiến sĩ có 117 Khoa thi theo quy
định của triều Lê là lập đủ 117 tấm bia để đề tên tiến sĩ là 2260 ngời do trải
qua nhiều năm binh lửa nhiều tấm bia bị thất lạc chỉ còn 82 tấm chữ mờ, hoa
văn mờ không đọc đợc và xem đợc, nhiều tấm bị sứt, vỡ phải gắn lại. Vào năm
1976 ngời ta đã tìm hai Rùa Đá đế để bia có 84 con Rùa vì vậy có 84 tiến sĩ.
Nhà bia xây dựng lại 2 lần vào năm 1863 và năm 1954 trên nền Quốc Tử
Giám xa là nơi tôn thờ 3 vị vua.
- Lý Thánh Tông (1023 - 1072) có công xây dựng Văn Miếu.
- Lý Nhân Tông (1066 - 1127) có công lập Quốc Tử Giám.
- Lê Thánh Tông (1442 - 1497) có công xây dựng Bia tiến sĩ.
cũng qua các tấm bia khắc đá này, các nhà triết học hoa văn bia có thể
thấy rõ vai trò nho giáo ở Việt Nam. Một số dòng họ qua các văn bia có thể
tìm thấy ông Tổ cuả dòng họ mình.

Sa bàn toàn cảnh Văn miếu - Quốc tử giám

8


Chơng 2
Nghệ thuật hoa văn trên văn Bia tiến sĩ
1.1 Nghệ thuật điêu khắc đá.
Chúng ta tự hào về nền nghệ thuật Việt Nam trong Văn miếu Quốc Tử
Giám cũng qua những tấm bia khắc đá này, các nhà nghiên cứu nghệ thuật
điêu khắc đá có thể đi sâu và tìm hiểu trong vòng 3 thế kỷ từ những năm 1484
đến năm 1780 của ông cha ta.
Để từ đó rút ra tinh hoa nghệ thuật dân tộc đợc áp dụng sáng tạo vào
các công trình nghệ thuật.

Đặc biệt, tên những tấm bia ghi liên đại hoa văn một cách chính xác
thể hiện rõ phong cách nghệ thuật thời đó. Từ triều Lý đến triều Trần sang
triều Lê, bia đợc dựng tại nhà Quốc học để khuyến khích nhân tài. Đồng thời
lập sổ Đăng khoa lục, ghi chép văn bia lu trữ cho hậu thế sau này. Nói đến
nghệ thuật điêu khắc đá của các triều đại phong kiến chúng ta phải nói đến hai
làng nghề có những nhân tài về điêu khắc đó là làng nghề nằm ở các khu vực,
Ninh Bình, Thanh Hoá. Các nghệ nhân ngày xa điêu khắc đá bằng những dụng
cụ thô sơ nh đục, vồ từ những tảng đá lớn vuông vắn, các nghệ nhân điêu khắc
tìm tòi sáng tạo ra những hoạ tiết để khắc lên văn bia. Tuy rằng đợc trạm khắc
trên những chất liệu cứng nh đá, các nghệ nhân dùng thủ pháp đợc đúc rút
kinh nghiệm qua từng thời kỳ khắc trên đá để đục đá va tạo ra đợc những hoa
văn đẹp trên đá là một công trình nghệ thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ miệt mài trong
khoảng thời gian lâu rất lâu mới hình thành tác phẩm nghệ thuật ngày nay để.
Cũng qua những tấm bia này các nhà nghệ thuật điêu khắc đá có thể đi sâu và
tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc đá trong vong nhiều thế kỷ, đặc biệt trên những
tấm bia có ghi một cách chính xác về niên đại và hoa văn sau khi dành đợc tự
chủ nhà vua Lý Nhân Tông đa mở khoa thi chọn hiền tài.

9


Những hoa văn bia

1.2 Nghệ thuật hoa văn bia triều Lý - Trần.
Đợc trạm khắc hoa văn trên bia còn đơn giản, tuy có phát triển những
nét mới song vẫn giữ phong cách nghệ thuật truyền thống của các triều đại Lý
- Trần.
Cụ thể: ở bia loại 1 gồm có 14 bia dựng từ niên hiệu Hồng Đức thứ
XV năm 1484 tới niên hiệu Đại Chính thứ VII năm 1536 các hoa văn nghệ
thuật phảng phát thời Lý.


Hoa văn trên trán bia và đ ờng diềm bia

10


Hầu hết các hoa văn ở loại 1 của Bia tiến sĩ không cầu kỳ khá đơn
giản, ngoài hoa lá, mây lợn , lửa và mặt nguyệt. Đặc biệt trên trán bia không
trạm hình rồng.

Hoa văn đờng diềm ngang dọc

Các dãy hoa văn ở các bia thờ này, là các dãy hoa lá ở các vầnh
biaChạy theo đờng ngoằn nghèo liên tục không đứt quãng.
Thỉnh thoảng chen vào hoa cúc hoa sen hình giống bánh xe, đồng xu.
Vì vậy nó biểu hiện nghệ thuật hoa văn trang trí dới thời Lý - Trần.
1.3. Nghệ thuật hoa văn Bia triều Lê.
Số bia loại 2 là 25 tấm đợc dựng vào năm thứ 1 (1653) đời vua Lê
Nhân Tông.
Về mặt trang trí nghệ thuật hoa văn, khắc trạm trên bia đá hơn hẳn trớc đó của các thời kỳ triều Lý - Trần với hàng loạt hoa văn hũng vĩ.

11


Hoa văn to - mặt trời .......

- Trán bia cũng giống hình bán nguyệt, thời kỳ này nghệ thuật trang trí
hoa văn đờng diềm trên trán bia rất phong phú, tinh tế hơn trong đờng khắc và
bố cục hợp lý.


Hình rồng trầu mặt nguyệt

- Rồng trầu mặt nguyệt trạm theo nhiều kiểu khác nhau có loại nửa
thân rồng ở góc bia có loại rồng trạm khắc tinh sảo kỹ càng, tỉ mỉ từng chi tiết
12


nh vảy, đuôi, chân, móng, mắt, mũi, râu với kiểu nghệ thuật theo phong cách
tả thực, chi tiết rõ ràng.

Hình rồng đầy đủ

- Ngoài ra nghệ thuật hoa văn không những là khắc rồng và mặt
nguyệt, các nghệ nhân sáng tạo ra phong cách trìu tợng khác phong phú hơn
về kiểu vẽ nay trong nội dung hoa văn chim Phợng hoặc đôi Long Mã. Đặc
điểm chung của nó là nói đến văn hoa ở đây đều trạm mây nửa vút nhọn nh
ngọn lửa.

Hình hoa văn mây lửa

2.1 Mối liên hệ giống nhau và khác nhau giữa 3 loại hoa văn triều Lý Trần- Lê.
* Giống nhau: Đều khắc trên một chất liệu về hình dáng và hoạ tiết
của hoa văn ở ba triều đại cơ bản là giống nhau có sự thay đổi nhng rất ơn
13


giản khiến ngời xem không có cảm giác tinh tế kỹ càng. ở hoa văn bia loại 1
ta nhìn thấy hoa văn là hoa dây, lá rất đơn giản nghèo nàn mà khắc trên đá gợi
cho ta cảm giác không tinh tế, kỹ càng, tỷ mỷ.
* Khác nhau: Về hoa văn của các triều đại đã đợc cải biến rõ ràng,

nhìn thấy những nét sinh động hơn và thực tế hơn giữa các triều đại Lý - Trần
- Lê với loại hoa văn, với những nét uyển chuyển sinh động mang lại những
gia trị về nghệ thuật đợc rèn luyện, tôi luyện của các nghệ nhân.
- ở hoa văn bia loại 2 ta nhìn thấy các nghệ nhân dùng phơng pháp
hoa văn tả thực, với đờng nét uyển chuyển, sinh động hơn. Trong đó các nghệ
nhân đã tổng hợp đợc cả lá, cành, nụ và các bông hoa đa vào bố cục một cách
chặt chẽ.

Hình hoa dây có cành, lá, nụ

- Không những hoa văn nh đã trình bày nhìn nhận trớc đó ta còn thấy
các hình vẽ xuất hiện mẫu đa dạng và phong phú hơn về nh các loại chim, thú,
đặc biệt là tính nghệ thuật đợc sắp đặt đa hoa văn hình ngời xuất hiện.

Hình con vật, chim thú, con ng ời

Nghệ thuật hoa văn triều Lê từ năm thứ 13 (1717).
14


- Thời kỳ này nghệ thuật không mấy sáng tạo, về mặt trang trsí luôn
dập khuôn mẫu cung đình.
- Nghệ thuật cách điệu khá cao nh thân rồng, mây, khối mây, thân mờ,
ào ào còn đầu rồng rõ ràng nhìn thấy các chi tiết.
- Về thần diềm bia vẫn sử dụng hoa lá là chủ yếu, nhng đợc các nghệ
nhân cách điệu hoa lá một cách rất cao.

Hình rồng rõ đầu, hoa lá cách điệu

- Nhiều khi chúng ta nhìn vào các hoa văn, không biết đấy là hoa gì?

Thời kỳ này nghệ thuật hoa văn bia đá rất nôit trội.
- Loại hoa văn hình mặt trời đợ mô tả thành khối tròn to, nằm choán
ngay giữa khu trung tâm của trán bia và bao quanh nó là hàng loại hoa văn
mây, hình khánh, mây tia lửa.

Hình hoa văn mặt trời tia lửa

15


- Ngoài các con vật linh châu nh: Rồng, phợng, lân không có thì
dùng sừng tê ngọc báu
- Hoa văn hình rùa: Nhắc đến rùa là con vật đứng ở vị trí thứ t trong bộ
tứ linh, khác ba con vật nh Rồng, Phợng, Lân, con Rùa là con vật có thật trong
thiên nhiên. Tuổ thọ của rùa hàng trăm năm nên rùa đợc coi là biểu tợng của
sự bất tử, vững bền, lâu dài. Nên rùa là bệ đỡ của Bia tiến sĩ nói lên sự trờng
tồn vĩnh viễn.
Cũng nh ngời Trung Quốc cho rằng vì sống lâu hàng trăm năm lên rùa
thu nhận đức tính về tinh thần quyền lực. Rùa nh vị thần.
- Hoa văn rồng, nh vậy qua sự phát triển văn hoa hình rồng của các
triều đại thời Lý - Trần - Lê suốt hơn 5 thế kỷ tồnt ại hoa văn hình rồng. Mỗi
hoa văn đều có cái đẹp riêng và có sự phát triển thay đổi nội dung hình thức
nó đã đợc cha ông ta từ đời này sang đời khác sáng tác tiếp thu cái cũ, sáng
tạo cái mới để lại điều tốt đẹp cho hậu thế.
Tất cả những tài sản đó đều đáng quý, tiêu biểu là ba hoa văn rồng của
3 triều Lý - Trần - Lê.
Với những tấm bia đá thời Lê sơ có hai loại bia: Bia Vua và Thái Hậu,
Hoàn hậu tập trung ở Lam Kinh có kích thớc rất lớn. Loại bia công thần tiến sĩ
và cả loại bia ở các chùa thuộc loại trung bình với các hoa văn đợc trạm khắc
rất cẩn thận, hình mợt óng là biểu trng cho những ông Vua và bà Hoàn hậu rất

tôn thờ. Hoa văn hình rồng thời Lý có một điều rất rễ nhận ra là hoa văn thời
Lý luôn luôn có một kiểu dáng nhất quán. Cho dù có những khu di tích hàng
trăm cây số thời gian cách nhau 60 - 70 năm thì nghệ thuật hoa văn thời Lý có
những quy chế nghiêm nhặt là giống nhau.
Con rồng thời Lý về cơ bản có thân hình dài của một con rắn luôn
luôn đợc bố cục theo lối nhìn nghiên, cuộn khúc vòng lên, vòng xuống theo
kiểu song lợn, hình xin kéo dài từ đầu đến đuôi. Điều đáng chú ý ở các khúc lợc luôn đợc uốn phình to. Cho dù hình rồng đợc trạm dài trên trán bía hoặc
cánh sen, các nghệ nhân luôn thể hiện độ eo thắt túi này của thân rồng.
Về chi tiết thân rồng thể hiện cả vảy có đề án lại không có vảy, có
những con rồng to đều có vây và dới bụng có lớp vảy.
16


Về chi tiết đầu rồng thời Lý thờng bố cục đầu hơi ngẩng lên miệng há
rộng nh đang hứng một viên hình tròn mà chúng ta quen gọi là ngọc báu. Hai
hàm để lộ đầy những răng nhọn nh răng thú ăn thịt, riêg ở hai chiéc răng cuối
của hàm trên đợc biến thành răng nanh mọc dài uốn cong lại tì vào mũi của
con rồng còn chiếc mũi lại đợc keo dài thành một mào hình tròn mà có ngời
cho rằng đó là hiện tích thành phần của con voi, mào của rồng hơi uốn khúc
và chung quanh có viên sáng kiểu ngọc lửa. Về chi tiết hoa văn hình rồng của
thời lý đợc trạm khắc trên các bệ tợng hoặc các tấm bia, tiêu biểu là văn bia
Quốc tử giám.

Hoa văn rồng

Hoa văn hình rồng thời Trần:
Nếu nh ở thời Lý do những quy chế chặt chẽ của nhà nớc. Trên hình rồng luôn
thể hiện theo một hình mẫu cố định và bắt buộc, thì ngợc lại vào thời Trần sự
dàng buộc đó đã lỏng lẻo, hình rồng thời này đợc các nghệ nhân mô tả phác
hoạ dới nhiều hình thức kiểu dáng rất phong phú, nhìn chung về cơ bản các

thành phần của rồng Trần vẫn là những thứ chúng ta nhìn thấy ở rồng Lý vì
rồng thời Lý mà các nghệ nhân sáng tạo, biểu trng hình mẫu của một con rồng
nhân gian, trớc hết là mà nở kéo dài ở đầu mũi rồng.
Về hoa văn rồng thời Lê sơ:
Cũng nh thời Lý - Trần hình rồng vẫn là hoa văn chủ đạo trong các đồ án
trang trí thời Lê sơ. Bố cục và cấu trúc của chúng vừa tiếp thu truyền thống lại
17


vừa có biến chuyển thay đổi lớn lao bởi có thể chia hoa văn hình rồng này làm
hai loại, loại vẫn tiếp tục phát huy hình rồng thời Lý - Trần, loại tiếp thu hình
rồng Trung Hoa.
Loại thứ nhất: Loại này xuất hiện thờng ở trên văn bia ở các văn bia Lê Lợi, ở
Lam Kinh - Thanh Hoá, ở Khám Lạng - Bắc Giang, ở Kim Liên - Hà Nội.
Đáng chú ý nhất ở thời Lý - Trần còn đợc bảo lu và phát huy chính là mào lửa
của bộ phận đầu rồng. Về bố cục loại hình rồng này chạy theo tuyến ngang
đầu ngẩng lên cao.
Các hình rồng ở bia hoặc góc bia vì không gian hẹp nên các nghệ nhân bố cục
theo chiều dài chạy dọc theo chiều dài của bia, sừng, bờm, râu cùng đổ hết về
cả phía sau và đầu cũng luôn chếch để nhìn thấy đợc cả hai mắt, hoa văn rồng
thời Lý có giàu tính chất trang trí của một hoa văn, thì đến thời Lê sơ con rồng
trên các bia lăng trở thành hình ảnh con vật dữ tợn, oai nghiêm và quyền thế.
Nh vậy chúng ta đã điểm qua sự phát triển của hoa văn hình rồng thời Lý,
Trần, Lê suốt hơn 5 thế kỷ tồn tại hoa văn và phát triển cả nội dung và hình
thức, nó đợc cha ông ta truyền từ đời này sang đời khác, tiếp thu cái cũ, sáng
tạo cái mới để lại nhiều đồ án tốt đẹp cho đời, tất cả những tài sản đó đều là
đáng quý, kể cả những đồ án tiếp thu văn hoá nớc ngoài. Nh vậy về trạm khắc
trang trí thời Lê sơ đợc xem là cái bản lề gắn giữa mỹ thuật phật giáo cơ bản
trong nền trang trí nghệ thuật hoa văn trên bia còn gắn liền với rồng và bia còn
sóng nớc cũng dần chuyển sang hình dây hoa, uốn sóng cơ bản có từ cuối thời

Trần, giờ càng khẳng định ngoài loại gắn với hoa sen, hoa cúc.

Hoa văn thời Trần - Lê

18


C. Kết luận và những bài học rút ra.

Trải qua mấy nét khái quát về hoa văn Bia tiến sĩ tại Văn miếu Quốc
Tử Giám không những là nơi thờ cúng các vị tiên thánh, tiên nho. Văn miếu
Quốc Tử Giám đã trở thành di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu bâc nhất trong cả
nớc.
Với tính chất nghệ thuật hoa văn hoành tráng mang lại vẻ đẹp huyền
bí mà ông cha ta để lại qua các triều đại phong kiến. Một đặc điểm hết sức
quan trọng trong các triều đại là phân chia các loại bia theo thứ tự thời gian.
Qua đó để so sánh đựơc tính nghệ thuật hoa văn khắc ở đá một cách tinh sảo,
công phu, đờng nét rõ ràng trong trí tởng tợng vơn lên.
Vì vậy 82 tấm bia đá con lại là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc
đá suốt 3 thế kỷ lịch sử nghệ thuật Việt Nam.
Giá trị nghệ thuật đó của mỗi tấm bia, mỗi loại bia có cao thấp khác
nhau, tiêu biểu là hoa văn từng thời kỳ một.
Bia tiến sĩ là di sản văn hoá nghệ thuật quý giá không những Bia tiến
sĩ của Văn miếu Quốc Tử Giám mang lại ý nghĩa giáo dục đào tạo của dân tộc
nó còn là kho báu của dân tộc ta. Trong bia tiêu biểu phải nói đến vào năm
Nhâm Tuất (1442) niên hiệu Đại Bảo thứ 3 viết hoa văn bia vào Bia tiến sĩ
Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia
Nguyên khí mạnh thì thế n ớc mạnh và thịnh
Nguyên khí kém thì thế n ớc yếu và suy
Vì thế mà các bậc thánh đế minh v ơng

Không ai không chăm lo việc gây dựng
nhân tài Bồi đắp nguyên kh í

19


D. Tài liệu tham khảo.

- Tài liệu Văn miếu Quốc Tử Giám - Trần Mạnh Cờng
- Hoa văn Việt Nam - Nguyễn Du Chi
- Tài liệu tham khảo xây dựng văn Bia tiến sĩ
- Quốc tử giám trí tụê Việt

20


Mục lục

Tiêu đề

Trang

A. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tợng nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phơng pháp nghiên cứu
6. Bài học rút kinh nghiệm
B. Phần nội dung

Chơng I: Giới thiệu về Văn miếu Quốc Tử Giám
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Văn miếu - Quốc tử giám
1.2 Sơ lợc về Thiên Quang Tỉnh và Bia tiến sĩ
Chơng II: Nghệ thuật hoa văn trên văn Bia Tiến sĩ
1.1 Nghệ thuật điêu khắc đá
1.2 Nghệ thuật hoa văn bia triều Lý - Trần
1.3 Nghệ thuật hoa văn bia triều Lê
2.1 Mối liên hệ giống nhau và khác nhau giữa 3 loại hoa văn
triều Lý - Trần - Lê
2.2 Những hoa văn tiêu biểu
C. Kết luận và những bài học rút ra
D. Tài liệu tham khảo

21



×