Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Nhân Tố Tác Động Đến Năng Suất Lao Động Tại Công Ty Cổ Phần Đóng Tàu Sông Cấm Trong Giai Đoạn Từ Năm 2010 Đến Năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.87 KB, 76 trang )

MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa, các doanh
nghiệp luôn quan tâm đến việc khuyến khích tăng năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động đã trở thành vấn đề sống còn của mỗi
doanh nghiệp, năng suất lao động đã trở thành lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp và của mỗi quốc gia. Đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập nền kinh tế của đất nước vào nền kinh tế thế giới, một trong những
vấn đề mà các doanh doanh nghiệp quan tâm hàng đầu đó là làm thế nào để nâng
cao được năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, làm thế nào để tạo ra những
sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cao nhất với chi phí thấp nhất. Sau
một thời gian khá dài chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, dẫn tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt
Nam vẫn còn thấp hơn rất nhiều lần so với các nước trên thế giới và trong khu vực.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu để đề xuất các biện pháp
nâng cao năng suất lao động trong các doanh nghiệp của Việt Nam là hết sức cần
thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề
xuất các biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông
Cấm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của Công ty.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về năng suất lao động để
phân tích, đánh giá và đưa ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty
cổ phần đóng tàu Sông Cấm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đã nghiên cứu tổng quan các nhân tố tác động đến năng suất lao
động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2014.
1



Luận văn đã đưa ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty
cổ phần đóng tàu Sông Cấm và các doanh nghiệp có quy mô sản xuất và cơ cấu
sản phẩm tương đương tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng: phương pháp thu thập, thống kê; phương pháp
phân tích - tổng hợp; phương pháp so sánh và khảo sát thực tế.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về năng
suất lao động.
Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đã đánh giá thực trạng về năng suất lao động tại
công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm và đề xuất áp dụng các biện pháp nâng cao
năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm và các doanh nghiệp có
quy mô sản xuất, cơ cấu sản phẩm tương đương tại Việt Nam.
6. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Về kết cấu của luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm có:
Chương 1. Cơ sở lý luận về năng suất lao động
Chương 2. Đánh giá thực trạng năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng
tàu Sông Cấm
Chương 3. Biện pháp nâng cao năng suất lao động tại công ty cổ phần đóng
tàu Sông Cấm.

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm về năng suất lao động
Năng suất lao động là hiệu quả của hoạt động có ích của con người trong
2


một đơn vị thời gian, nó được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian hoặc hao phí để sản xuất ra được một sản phẩm [1].

Hay năng suất lao động cũng có thể được khái quát một cách rất ngắn gọn
là tỷ số giữa đầu ra và đầu vào được sử dụng để tạo ra đầu ra đó [2].
Đầu ra có thể là tổng giá trị sản xuất hoặc giá trị gia tăng hoặc khối lượng
hàng hóa tính bằng đơn vị hiện vật. Đầu vào được tính theo các yếu tố tham gia để
sản xuất ra đầu ra. Đó là lao động, nguyên liệu vốn, thiết bị máy móc, vật trung
gian mua vào. Như vậy năng suất lao động trở thành nhân tố quan trọng nhất đánh
giá khả năng cạnh tranh của hệ thống sản xuất trong mỗi doanh nghiệp, đồng thời
cũng thể hiện trình độ phát triển của các doanh nghiệp và các quốc gia.
Như vậy, với quan niệm năng suất lao động chỉ thuần tuý thể hiện mối
tương quan giữa “đầu ra” và “đầu vào”. Nếu đầu ra lớn hơn đạt được từ một đầu
vào thì có thể nói năng suất lao động cao hơn. Quan niệm truyền thống đề cập về
mặt tĩnh và chủ yếu nhấn mạnh về mặt số lượng. Còn theo quan niệm mới thì năng
suất lao động được hiểu rộng hơn, đó là tăng số lượng sản xuất đồng thời với tăng
chất lượng đầu ra. Điều này có nghĩa là sử dụng một lượng lao động để sản xuất
một khối lượng lớn các đầu ra có cùng chất lượng hoặc chất lượng cao hơn. Với
quan niệm như vậy, năng suất có thể hiểu là trả ít hơn và nhận nhiều hơn mà không
tổn hại đến chất lượng. Năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà
còn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, đặc điểm của đầu ra và tính hiệu quả trong
sản xuất. Trong thời kỳ đầu của sự phát triển, khi nền kinh tế còn thấp kém, năng
suất và chất lượng được xem trong mối quan hệ trao đổi bù trừ, để có chất lượng
người ta phải hy sinh năng suất và ngược lại, để có năng suất cao phải hy sinh chất
lượng. Nhưng ngày nay, năng suất và chất lượng đã trở thành đồng hướng thống
nhất với nhau. năng suất lao động cao phải tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có
các đặc tính kinh tế kỹ thuật và chức năng sử dụng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng và những đòi hỏi của xã hội, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn tài
nguyên, ít gây ô nhiễm và không lãng phí trong quá trình sản xuất.
Theo quan điểm tiếp cận mới về năng suất lao động do Uỷ ban năng suất

3



của Hội đồng năng suất châu Âu đưa ra: Năng suất lao động là một trạng thái tư
duy. Nó là một thái độ nhằm tìm kiếm để cải thiện những gì đang tồn tại. Có một
sự chắc chắn rằng ngày hôm nay con người có thể làm việc tốt hơn ngày hôm qua
và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Hơn nữa đó đòi hỏi những cố gắng không
ngừng để thích ứng với các hoạt động kinh tế trong những điều kiện luôn thay đổi,
luôn ứng dụng những lý thuyết và phương pháp mới. Đó là sự tin tưởng chắc chắn
trong quá trình tiến triển của loài người [3].
Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của lao
động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị sử dụng
(hay lượng giá trị) được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay đo bằng lượng thời
gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị thành phẩm. Năng suất lao động là
chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, một
đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản xuất. Năng suất lao động được quyết
định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành thạo của người lao động, trình độ phát
triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy
mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên. Năng suất lao
động là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng bởi quan hệ so sánh
giữa một chỉ tiêu đầu ra với lao động để sản xuất ra nó. Năng suất lao động là một
trong những yếu tố quan trọng tác động tới sức cạnh tranh. Đặc biệt, năng suất lao
động lại phản ánh yếu tố chất lượng người lao động là yếu tố cốt lõi của sự phát
triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh
tế tri thức hiện nay.
Từ những quan niệm trên, ta có thể chỉ ra rằng năng suất lao động là hiệu
quả sản xuất của lao động có ích trong một đơn vị thời gian. Tăng năng suất lao
động không chỉ đơn thuần là chỉ tiêu phản ánh lượng sản phẩm sản xuất ra mà nó
thể hiện mối quan hệ giữa năng suất, hiệu quả, việc làm và sự phát triển bền vững.

4



1.2. Các loại năng suất lao động
Năng suất lao động có thể chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, xét theo
phạm vi năng suất lao động có thể chia làm hai loại năng suất lao động của quốc
gia và năng suất lao động của doanh nghiệp.
1.2.1. Năng suất lao động quốc gia
Năng suất lao động quốc gia là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất làm việc một lao
động của một quốc gia, năng suất lao động quốc gia thường đo bằng tổng sản
phẩm trong nước tính bình quân trên một lao động trong thời kỳ tham chiếu.
Năng suất quốc gia phản ánh tổng giá trị sản xuất trên một lao động ở một
nước. Năng suất quốc gia tạo ra sức mạnh kinh tế của một đất nước và là tiêu
chuẩn quan trọng để đánh giá tiêu chuẩn sống. Năng suất quốc gia là chỉ số của nền
kinh tế quốc dân nói chung và chỉ số để so sánh giữa các nước.
Năng suất lao động quốc gia được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) trên một lao động và tỷ lệ sử dụng lao động được tính là tỷ lệ số lao động
đang làm việc trên tổng dân số. Vì vậy sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) trên một đầu người có thể do tăng năng suất lao động hoặc do tăng tỷ lệ sử
dụng lao động.
Có nhiều loại chỉ tiêu để chúng ta có thể tính và đánh giá năng suất lao
động quốc gia, nhưng hiện nay người ta thường dùng chỉ tiêu tính năng suất lao
động quốc gia bằng giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng giá trị gia
tăng (GVA) để tính năng suất lao động của một quốc gia.
Q

W =

T
Công thức tính:
Trong đó:
W: Năng suất lao động của một người lao động (tính bằng tiền)

Q: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) hoặc
tổng giá trị gia tăng (GVA - Gross Value Added)
5


T: Tổng số dân của một quốc gia (hoặc tổng giờ công lao động, lực lượng
lao động, số lượng lao động đang làm việc).
1.2.2. Năng suất lao động doanh nghiệp
Năng suất của doanh nghiệp là tỷ số giữa tổng đầu ra của doanh nghiệp với
tổng đầu vào của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định. Có nhiều
loại chỉ tiêu để chúng ta có thể tính và đánh giá năng suất lao động của doanh
nghiệp, nhưng dùng loại chỉ tiêu nào lại tùy thuộc vào việc lựa chọn một thước đo
cho phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng doanh nghiệp.
Hiện nay, người ta thường dùng ba loại chỉ tiêu để tính và đánh giá năng
suất lao động của doanh nghiệp gồm: chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng hiện
vật, chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng giá trị và chỉ tiêu tính năng suất lao động
bằng thời gian lao động, trong khuôn khổ bài luận văn này ta chỉ sử dụng hai chỉ
tiêu để đánh giá năng suất lao động của doanh nghiệp, gồm:
1.2.2.1. Chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng giá trị
Chỉ tiêu tính năng suất lao động của doanh nghiệp dựa trên giá trị sản
lượng tính bằng tiền của tất cả các loại sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra để
tính năng suất lao động của một lao động hay một công nhân.
Q

W =

T
Công thức tính:
Trong đó:
W: Năng suất lao động của một người lao động (tính bằng tiền)

Q: Giá trị sản lượng, giá trị doanh thu, lợi nhuận
T: Tổng số lao động hoặc công nhân.
- Ưu điểm: Đây là chỉ tiêu tính năng suất lao động thông dụng nhất, có khả
năng tính cho nhiều loại sản phẩm khác nhau, khắc phục được nhược điểm chỉ tiêu
tính bằng hiện vật. Phạm vi sử dụng của nó rộng hơn từ doanh nghiệp, ngành, giữa
các ngành và nền kinh tế quốc dân, có thể dùng để so sánh mức năng suất lao động
giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành với nhau và các quốc gia khác nhau.
6


- Nhược điểm: Chỉ tiêu này không khuyến khích việc tiết kiệm vật tư và vật
dụng rẻ tiền mau hỏng, chịu ảnh hưởng của cách tính tổng sản lượng theo phương
pháp công xưởng, nếu sản phẩm hiệp tác với ngoài nhiều cơ cấu sản phẩm thay đổi
sẽ làm sai lệch mức năng suất lao động của bản thân doanh nghiệp. Chỉ dùng trong
trường hợp cấu thành sản phẩm sản xuất không thay đổi (hoặc có sự thay đổi ít) vì
cấu thành sản phẩm thay đổi nhiều sẽ làm sai lệch mức và tốc độ tăng năng suất
lao động.
1.2.2.2. Chỉ tiêu tính năng suất lao động bằng thời gian lao động
Chỉ tiêu này dùng lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm (hoặc hoàn thành một công việc) để biểu hiện năng suất lao động. Giảm chi
phí lao động cho một đơn vị sản phẩm dẫn tới tăng năng suất lao động.
Công thức tính:
L

=

T
Q

Trong đó:

L: Số lượng lao động hao phí cho một đơn vị sản phẩm (tính bằng đơn vị
thời gian).
T: Thời gian lao động đã hao phí.
Q: Số lượng sản phẩm hoặc giá trị.
Số lượng lao động này được tính bằng cách tổng hợp chi phí thời gian lao
động của các bước công việc hoặc bước công nghệ, các chi tiết sản phẩm (đơn vị
dùng để tính là giây, phút, giờ). Người ta chia ra:
- Số lượng lao động công nghệ (Lcn).
- Số lượng lao động chung (Lch).
- Số lượng lao động sản xuất (Lsx).
- Số lượng lao động đầy đủ (Lđđ).
- Số lượng lao động công nghệ (Lcn) bao gồm chi phí thời gian lao động

7


của công nhân chính hoàn thành quá trình công nghệ chủ yếu.
- Số lượng lao động chung (Lch) bao gồm chi phí thời gian lao động của
công nhân hoàn thành quá trình công nghệ cũng như phục vụ quá trình công nghệ
đó.
Công thức tính:

Lch

= Lcn

+ Lpvq

Trong đó:
Lpvq: Số lượng lao động phục vụ quá trình công nghệ.

- Số lượng lao động sản xuất (Lsx) bao gồm chi phí thời gian lao động của
công nhân chính và công nhân phụ trong toàn doanh nghiệp.
Công thức tính:

Lsx = Lch + Lpvsx

Trong đó:
Lpvsx : Số lượng lao động phục vụ sản xuất.
- Số lượng lao động đầy đủ (Lđđ) bao gồm hao phí lao động trong chế tạo
sản phẩm của các loại công nhân viên sản xuất công nghiệp trong doanh nghiệp.
Công thức tính:

Lđđ = Lsx + Lql

Trong đó:
Lql : bao gồm số lượng lao động của cán bộ kỹ thuật, nhân viên quản lý các
phòng, ban, phân xưởng, tạp vụ, bảo vệ.
Chỉ tiêu tính theo lượng lao động có những công dụng nhất định nhưng
không thể thay thế hoàn toàn cho chỉ tiêu tính theo giá trị. Trong công tác lập kế
hoạch được sử dụng nhiều các chỉ tiêu.
- Ưu điểm: phản ánh được cụ thể mức tiết kiệm thời gian lao động để sản
xuất ra sản phẩm.
- Nhược điểm: Tính toán khá phức tạp, không dùng để tính tổng hợp được
năng suất lao động bình quân của một ngành hay một doanh nghiệp có nhiều loại
sản phẩm khác nhau.
Ngoài ra, trong quản lý người ta phân biệt các loại năng suất lao động theo
năm, tháng, ngày, giờ.

8



NSLĐngày

=

Tổng giá trị sản lượng (hay tổng doanh thu)
Số ngày làm việc thực tế của người lao động

1.3. Nâng cao năng suất lao động
NSLĐgiờ
= Tổng giá trị sản lượng (hay tổng doanh thu)
Số giờ làm việc thực tế của người lao động
1.3.1. Khái niệm nâng cao năng suất lao động
Nâng cao năng suất lao động là sự tăng lên của sức sản xuất hay năng suất
lao động, nói chung chúng ta hiểu là sự thay đổi trong cách thức lao động, một sự
thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng
hoá, sao cho số lượng lao động ít hơn mà lại có được sức sản xuất ra nhiều giá trị
sử dụng hơn.
Nâng cao năng suất lao động và tăng việc làm là nguồn gốc của tăng
trưởng kinh tế, sự cần thiết phải nâng cao năng suất lao động trong các doanh
nghiệp sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, dưới tác động của thị trường và sức
ép cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là các doanh
nghiệp nhà nước đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa của năng suất lao động. Để tồn
tại và phát triển các doanh nghiệp đã tiến hành một cuộc cải cách lớn, tinh giản lao
động, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, tổ chức sản xuất và quản lý. Nhờ đó
nhiều doanh nghiệp đã vượt qua khó khăn, ngày càng phát triển hơn trong cơ chế
thị trường.
Kết quả sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã có những tiến bộ đáng kể
trong năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế, của các doanh nghiệp nhà nước
và cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho

các doanh nghiệp phát huy tinh sáng tạo chủ động, nỗ lực tìm mọi biện pháp phấn
đấu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận và khả năng
9


cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp đều nhận thức được năng suất, chất
lượng và hiệu quả quyết định sự tồn tại và phát triển. Nâng cao giá trị và chất
lượng sản phẩm tạo ra cơ sở giảm chí phí là con đường chủ yếu để tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm. Mối quan hệ giữa tăng năng suất lao động, tăng thu nhập
của người lao động và doanh nghiệp có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Năng suất lao
động đã thực sự trở thành động lực cho sự phát triển của mọi doanh nghiệp.
Mức tăng năng suất lao động trong các doanh nghiệp của Việt Nam đã có
mức tăng khả quan, tốc độ tăng trưởng của một số chỉ tiêu có thể xếp vào loại cao
trên thế giới. Tuy vậy xét về tổng thể mức tăng năng suất lao động ở các doanh
nghiệp Việt Nam vấn rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguyên nhân của thực trạng này là do cơ sở hạ tầng còn thấp, trình độ công nghệ
còn lạc hậu, trình độ quản lý còn bất cập, đội ngũ lao động chưa được đào tạo để
đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Với thực trạng năng suất lao
động như hiện nay sẽ là một khó khăn lớn cho các doanh nghiệp có thể đứng vững
và cạnh tranh trên thị trường với các doanh nghiệp nước ngoài.
Nâng cao năng suất lao động sẽ tạo điều kiện tăng quy mô và tốc độ của
tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân , cho phép giải quyết thuận lợi các vấn đề
về tích lũy, tiêu dùng. Vì năng suất lao động tăng lên thì sản lượng tăng lên và tổng
giá trị sản lượng tăng lên. Khi giá trị sản lượng tạo điều kiện cho việc tăng lợi
nhuận, giúp cho các doanh nghiệp cá thể tích luỹ đầu tư mở rộng sản xuất.
Việc nâng cao năng suất ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế, khi mà nền kinh tế hiện nay đang chuyển sang hướng phát triển mới. Năng
suất lao động tăng có thể do chất lượng của lao động tăng lên, giúp cho một giờ
làm việc đem lại nhiều sản lượng hơn, thay đổi về thành phần hay chất lượng của
vốn khiến cho sử dụng vốn có hiệu quả cao hơn, có thể do tiến bộ công nghệ xuất

phát từ công tác nghiên cứu và phát triển trong nước, vay mượn từ tri thức toàn
cầu, hay chỉ đơn giản là rút kinh nghiệm từ thực tế làm việc, cũng có thể do tái
phân bổ nguồn lực, một người lao động chuyển từ một công việc đồng áng có năng
suất thấp sang một công việc có năng suất cao trong nhà máy sẽ trở nên có hiệu

10


quả hơn, dù trình độ học vấn không thay đổi. Có thể tóm tắt những yếu tố cơ bản
đóng góp vào việc nâng cao năng suất như sau:
Phát triển nguồn nhân lực: Đầu tư vào nguồn nhân lực làm tăng năng lực
cho lực lượng lao động. Nói một cách tổng quát, những công nhân được đào tạo tốt
hơn sẽ làm việc năng suất hơn và tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ có chất lượng
hơn.
Cơ cấu vốn: Đầu tư phát triển công nghệ sản xuất mới là yêu cầu đòi hỏi tất
yếu nhằm cải tiến chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Công nghệ mới sẽ giúp nâng
cao năng lực cạnh tranh và giảm chi phí sản xuất. Thông qua cơ cấu lại vốn, doanh
nghiệp sẽ hoạch định tốt hơn nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tái cơ cấu kinh tế: Cơ cấu lại nền kinh tế là việc chuyển các nguồn lực từ
các ngành và thành phần kinh tế kém năng suất sang ngành và thành phần kinh tế
có năng suất cao. Việc phân bổ lại các nguồn lực để có được các ngành và thành
phần kinh tế có năng suất cao hơn sẽ dẫn đến sử dụng có hiệu suất và hiệu quả các
nguồn lực và dẫn đến năng suất tăng cao.
Tăng nhu cầu: Việc tăng nhu cầu trong nước và nước ngoài đối với các sản
phẩm và dịch vụ sẽ dẫn đến tỷ lệ sử dụng sản phẩm tiềm năng cao hơn, như vậy sẽ
kích thích sản xuất và sáng tạo.
Ứng dụng tiến bộ của khoa học và công nghệ: Thể hiện tính hiệu lực và
việc sử dụng có hiệu quả công nghệ thích hợp, sự đổi mới, nghiên cứu và phát
triển, thái độ làm việc tích cực, hệ thống quản lý và tổ chức sản xuất tốt, quản lý
chuỗi cung ứng và sử dụng các phương pháp thực hành tốt nhất. Với trình độ công

nghệ cao, người lao động được khuyến khích và hệ thống quản lý hiệu quả, doanh
nghiệp và nền kinh tế sẽ có khả năng tạo ra sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng
cao hơn. Tính sáng tạo, sự đổi mới và tư duy năng suất sẽ định hướng sự tích tụ,
phổ biến và sử dụng kiến thức nhằm tăng năng suất lao động.
1.3.2. Ý nghĩa của việc nâng cao năng suất lao động
Nâng cao năng suất lao động có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển
của xã hội, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của mọi quốc gia, là cơ sở

11


quan trọng trong các quyết định ở tầm vi mô và vĩ mô. Tác động tổng hợp nhất hay
là mục tiêu của tăng năng suất lao động hiện nay là nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân.
Nâng cao năng suất lao động là nhân tố đảm bảo sản xuất phát triển và đời
sống con người được nâng cao. Nhờ nâng cao năng suất lao động mà khối lượng
sản phẩm vật chất, dịch vụ, doanh thu và lợi nhuận tăng lên. Nâng cao năng suất
lao động xã hội hay năng suất lao động của doanh nghiệp là yếu tố quyết định nâng
cao năng lực cạnh tranh của Quốc gia hay của doanh nghiệp.
Nâng cao năng suất lao động có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển
của xã hội loài người, nó là động cơ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của mọi
quốc gia, là cơ sở quan trọng trong các quyết định ở tầm vi mô và vĩ mô. Tác động
quan tổng hợp nhất hay là mục tiêu của tăng năng suất lao động hiện nay là hoàn
thiện chất lượng cuộc sống của con người trên toàn thế giới. Vấn đề trung tâm của
năng suất lao động hiện nay là đảm bảo xã hội tốt hơn thông qua kỹ thuật cải tiến
nhằm sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực và công nghệ sẵn có.
Ý nghĩa xã hội: Nâng cao năng suất lao động gắn liền với việc nâng cao
thỏa mãn của người lao động và tiết kiệm thời gian lao động. Vì vậy việc nâng cao
năng suất lao động không chỉ là vấn đề quan tâm của bộ phận lãnh đạo mà còn là
vấn đề quan tâm của tất cả mọi người lao động. Nâng cao năng suất lao động cũng

có nghĩa là nâng cao đời sống vật chất của chính bản thân người lao động.
Trong xã hội tư bản cùng với sự việc nâng cao năng suất lao động, lợi
nhuận tư bản cũng tăng lên, giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề hơn, giai cấp
công nhân bị bần cùng hóa. Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là tăng năng suất lao
động gắn liền với tăng cường độ lao động. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa và hệ
thống kinh tế xã hội chủ nghĩa quyết định tính tất yếu khách quan của việc nâng
cao năng suất lao động. Mục đích sản xuất của chủ nghĩa xã hội là thỏa mãn ngày
càng cao nhu cầu của mọi người trong xã hội.
Ý nghĩa kinh tế: Trong phạm vi một tổ chức, một đơn vị, hay một doanh
nghiệp trước hết nâng cao năng suất lao động làm cho giá thành sản phẩm giảm vì

12


tiết kiệm được chi phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm. Nâng cao năng suất
lao động cho phép giảm được số người làm việc, do đó cũng dẫn đến tiết kiệm
được quỹ tiền lương, đồng thời lại tăng được tiền lương cho từng người lao động
do hoàn thành vượt mức sản lượng, năng suất lao động cao và tăng nhanh sẽ tạo
điều kiện tăng quy mô và tốc độ của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân,
cho phép giải quyết các vấn đề tích lũy và tiêu dùng. Nâng cao năng suất lao động
làm thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Trong phạm vi một quốc gia, nâng cao năng suất lao động quốc gia tạo ra
sức mạnh kinh tế của đất nước và được xem như một chỉ số quan trọng nhất để
đánh giá tiêu chuẩn sống. Nâng cao năng suất lao động quốc gia cũng là chỉ số
dùng để so sánh giữa các quốc gia, so sánh mức tăng năng suất lao động giữa các
quốc gia cho thấy nước nào có sức mạnh kinh tế trên thế giới. Vì vậy, việc nâng
cao năng suất quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đất nước nhằm củng
cố vị trí của nước mình trên trường quốc tế.
Đối với Việt Nam, vấn đề nâng cao năng suất lao động càng có ý nghĩa
quan trọng vì năng suất lao động của Việt Nam hiện nay còn quá thấp do chưa khai

thác được hết tiềm năng, đây là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thu nhập quốc
dân tính trên đầu người vẫn còn rất thấp so với các nước trên thế giới và các nước
trong khu vực. Muốn tăng trưởng, phát triển kinh tế và cải thiện mức sống, Việt
Nam phải tìm mọi cách để nâng cao năng suất lao động, đó là biện pháp nhằm biến
Việt Nam từng bước trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối với các doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động càng có ý nghĩa
quan trọng, nó là một trong những chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và là một yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp, điều đó thể hiện:
+ Tăng năng suất lao động góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường. Có thể nói, nâng cao năng lực cạnh tranh là một vấn
đề quan trọng hàng đầu đặt ra đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là trong nền kinh

13


tế thị trường như hiện nay. Bởi nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp
bán được nhiều sản phẩm hơn trên thị trường, tăng được thị phần, tăng được lợi
nhuận, năng suất lao động tăng thì lại làm giảm giá thành sản phẩm, nhưng đồng
thời chất lượng sản phẩm cũng được cải tiến vì tiết kiệm được chi phi về tiền lương
trên một đơn vị sản phẩm. Giá cả và chất lượng chính là hai yếu tố quyết định đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
+ Tăng năng suất lao động góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi khi tăng năng suất lao động có nghĩa là hao phí
để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm, vì thế nó cho phép giảm số người làm
việc, tiết kiệm được quỹ lương. Mà tiền lương là một trong những chi phí của quá
trình sản xuất, do đo tăng năng suất lao động góp phần làm giảm chi phí nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động

Năng suất lao động là yếu tố trung tâm chịu tác động của nhiều nhân tố
khác nhau. Như vậy, hầu hết các nhân tố tác động đến đầu ra và đầu vào đều là
những nhân tố tác động đến năng suất lao động, bao gồm:
1.4.1. Nhóm yếu tố gắn liền với sự phát triển và sử dụng tư liệu sản xuất
Các yếu tố này bao gồm khoa học, kỹ thuật, công nghệ sản xuất, năng
lượng, nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng. Trong đó khoa học kỹ thuật, công nghệ sản
xuất có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, đây là yếu tố
mạnh mẽ nhất làm tăng năng suất lao động. Trình độ kỹ thuật của sản xuất được
biểu hiện thông qua tính năng của công cụ sản xuất, trình độ sáng chế và sử dụng
các đối tượng lao động, các quá trình công nghệ sản xuất. Ngày nay, ai cũng thừa
nhận máy móc hiện đại là yếu tố mạnh mẽ làm tăng năng suất lao động. Thật vậy
sự phát triển của lực lượng sản xuất thường bắt đầu từ sự thay đổi của công cụ sản
xuất, lấy máy móc thay thế cho lao động thủ công, lấy máy móc hiện đại thay thế
cho máy cũ. Tính năng nâng cao trình độ sáng chế và sử dụng các đối tượng lao
động được thể hiện ở chỗ: Nó ứng dụng rộng rãi các nguyên vật liệu mới, có
những tính năng cao hơn, giá rẻ hơn, tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm lao động,

14


trong một đơn vị thời gian sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Nó không chịu tác
động các giới hạn sinh lý như con người, cho nên khả năng tăng năng suất lao
động lớn.

15


1.4.2. Nhóm yếu tố gắn liền với con người và quản lý con người
Lao động là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất tác động đến năng suất lao
động. Năng suất lao động của mỗi quốc gia, ngành và doanh nghiệp phụ thuộc lớn

vào trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội ngũ lao
động, gồm:
Trình độ văn hoá: là sự hiểu biết cơ bản của người lao động về tự nhiên và
xã hội.Trình độ văn hoá tạo ra khả năng tư duy và sáng tạo cao. Người có trình độ
văn hóa sẽ có khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đồng thời trong quá trình làm việc họ không những
vận dụng chính xác mà còn linh hoạt và sáng tạo các công cụ sản xuất để tạo ra
hiệu quả làm việc cao nhất.
Trình độ chuyên môn: là sự hiểu biết khả năng thực hành về chuyên môn
nào đó ,có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất
định. Sự hiểu biết về chuyên môn càng sâu, các kỹ năng, kỹ xảo nghề càng thành
thạo bao nhiêu thì thời gian hao phí của lao động càng được rút ngắn từ đó góp
phần nâng cao năng suất lao động
Trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn có ảnh hưởng lớn đối với năng
suất lao động của con người.Trình độ văn hoá tạo khả năng tiếp thu và vận dụng
một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Còn sự hiểu
biết về chuyên môn càng sâu, các kỹ năng, kỹ sảo nghề càng thành thạo bao nhiêu
thì thời gian hao phí của lao động càng được rút ngắn từ đó góp phần nâng cao
năng suất. Trình độ văn hoá và chuyên môn của người lao động không chỉ giúp
cho người lao động thực hiện công việc nhanh mà góp phần nâng cao chất lượng
thực hiện công việc. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khoa học ngày càng phát
triển với tốc độ nhanh, các công cụ đưa vào sản xuất ngày càng hiện đại, đòi hỏi
người lao động có trình độ chuyên môn tương ứng. Nếu thiếu trình độ chuyên môn
người lao động sẽ không thể điều khiển được máy móc, không thể nắm bắt được
các công nghệ hiện đại.
Tình trạng sức khoẻ: Trạng thái sức khoẻ có ảnh hưởng lớn tới năng suất

16



lao động. Nếu người có tình trạng sức khoẻ không tốt sẽ dẫn đến mất tập trung
trong quá trình lao động, làm cho độ chính xác của các thao tác trong công việc
giảm dần, các sản phẩm sản xuất ra với chất lượng không cao, số lượng sản phẩm
cũng giảm , thậm chí dẫn đến tai nạn lao động.
Thái độ lao động: Thái độ lao động là tất cả những hành vi biểu hiện của
người lao động trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất và kinh doanh. Nó có
ảnh hưởng quyết định đến khả năng, năng suất và chất lượng hoàn thành công việc
của người tham gia lao động, nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu khác nhau, cả khách
quan và chủ quan nhưng chủ yếu là:
Kỷ luật lao động: Là những tiêu chuẩn quy định hành vi cá nhân của lao
động mà tổ chức xây dựng nên dựa trên những cơ sở pháp lý và các chuẩn mực
đạo đức xã hội. Nó bao gồm các điều khoản quy định hành vi lao động trong lĩnh
vực có liên quan đến thực hiện nhiệm vụ như số lượng, chất lượng công việc, an
toàn vệ sinh lao động, giờ làm việc, giờ nghỉ ngơi, các hành vi vi phạm pháp luật
lao động, các hình thức xử lý vi phạm kỷ luật.
Tinh thần trách nhiệm: Được hình thành dựa trên cơ sở những ước mơ khát
khao, hy vọng cảu người lao động trong công việc cũng như với tổ chức. Trong tổ
chức, nếu người lao động thấy được vai trò, vị thế, sự cống hiến hay sự phát triển,
thăng tiến của mình được coi trọng và đánh giá một cách công bằng, bình đẳng thị
họ cảm thấy yên tâm, phấn khởi, tin tưởng vào tổ chức, Đây là cơ sở để nâng cao
tính trách nhiệm, sự rèn luyện, phấn đấu vươn lên, cố gắng nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ, năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động
Sự gắn bó với doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp ngoài mục đích lao động
để kiếm sống họ còn coi tổ chức như một chỗ dựa vững chắc về vật chất và tinh
thần. Nếu quá trình lao động và bầu không khí trong tập thể lao động tạo ra cảm
giác gần gũi, chan hoà, tin tưởng lẫn nhau giữa những người công nhân, tạo cảm
giác làm chủ doanh nghiệp, có quyền quyết định đến hiệu quả của hoạt động sản
xuất kinh doanh, tạo ra tính độc lập tự chủ sáng tạo, được quan tâm chăm lo đến
đời sống và trợ giúp khi gặp khó khăn thì người lao động sẽ có lòng tin, hy vọng,


17


sự trung thành và gắn bó với doanh nghiệp.
Cường độ lao động: Cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng
suất lao động vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ người lao động và từ đó ảnh
hưởng tới năng suất lao động.
1.4.3. Nhóm yếu tố gắn với tổ chức lao động
Trình độ và khả năng tổ chức lao động của mỗi doanh nghiệp có tác động mạnh
mẽ tới năng suất lao động thông qua việc xác định phương hướng phát triển, phân
công lao động, chế độ tiền lương, tiền thưởng, tổ chức phục vụ nơi làm việc.
Phân công lao động: là sự chia nhỏ toàn bộ các công việc được giao cho
từng người hoặc tưng nhóm người lao động thực hiện. Về bản chất thì đó là quá
trình gắn từng người lao động với những nhiệm vụ phù hợp với khả năng của họ.
Thực chất của phân công lao động là sự tách biệt, cô lập các chức năng lao động
riêng biệt và tạo nên các quá trình lao động độc lập và gắn chúng với từng người
lao động, đấy chính là sự chuyên môn hoá (cho phép tạo ra những công cụ chuyên
dùng hợp lý và hiệp tác lao động có tác dụng to lớn trong việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh và tăng năng suất lao động
Tiền lương, tiền thưởng: Đây là một yếu tố quan trọng góp phần tạo động
lực thúc đẩy người lao động làm việc nâng cao năng suất lao động. Tiền lương ảnh
hưởng trực tiếp đến mức sống của người lao động. Phấn đấu nâng cao tiền lương là
mục đích của mọi người lao động, mục đích này tạo động lực để người lao động
phát triển trình độ và khả năng lao động của mình.
Tiền lương: là số lượng tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao
động theo giá trị sức lao động đã hao phí trong những điều kiện xã hội nhất định
trên cơ sở thoả thuận của hai bên trong hợp đồng lao động. Số tiền này nhiều hay ít
còn phụ thuộc vào năng suất lao động, hiệu quả làm việc, trình độ hay kinh nghiệm
làm việc. Trong quá trình lao động. Nhưng cái mà người lao động các loại hàng
hoá dịch vụ cần thiết mua được từ số tiền đó, chính là tiền lương thực tế. Tiền

lương phản ánh đóng góp nhiều cho xã hội và càng thể hiện giá trị xã hội trong
cuộc sống của người lao động. Do vậy tiền lương thoả đáng sẽ là động lực để

18


người lao động làm việc hiệu quả và đạt năng suất lao động cao
Tiền thưởng: Là số tiền mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao
động trong những điều kiện đặc biệt theo sự thoả thuận của hai bên hoặc theo sự tự
nguyện của bên sử dụng lao động trong các trường hợp như: Khi công nhân hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, tiết kiệm được nguyên vật liệu, có những sáng kiến sáng
tạo trong hoạt động lao động. Nếu tiền thưởng đảm bảo gắn trực tiếp với thành tích
của người lao động, gắn với hệ thống chỉ tiêu được nghiên cứu, phân loại cụ thể và
mức thưởng có giá trị tiêu dùng trong cuộc sống thì tiền thưởng sẽ là công cụ để
người sử dụng lao động kích thích sự hăng say, gắn bó, sự tích cực, tinh thần trách
nhiệm, năng suất và hiệu quả của người lao động. Ngoài tiền lương, tiền thưởng
các phúc lợi xã hội cũng góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất lao động. Phúc lợi
xã hội là phần thù lao gián tiếp đượctrả dưới dạng các bổ trợ về cuộc sống cho
người lao động. Phúc lợi xó thể là tiền, vật chất hoặc những điều kiện thuận lợi mà
người sử dụng lao động cung cấp cho người lao động trong những điều kiện bắt
buộc hay tự nguyện để động viên hoặc khuyến khích và đảm bảo anh sinh cho
người lao động. Phúc lợi đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cũng như góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, từ đó thúc đẩy và
nâng cao năng suất lao động.
Tổ chức phục vụ nơi làm việc: Nơi làm việc là không gian sản xuất được
trang bị máy móc thiết bị, phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết để người lao
động hoàn thành các nhiệm vụ sản xuất đã định, là nơi diễn ra các quá trình lao
động. Nơi làm việc là nơi thể hiện rõ nhất khả năng sáng tạo và nhiệt tình của
người lao động. Tổ chức phục vụ nơi làm việc là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
lao động của con người. Nơi làm việc được tổ chức một cách hợp lý và phục vụ tốt

góp phần bảo đảm cho người lao động có thể thực hiện các thao tác trong tư thế
thoải mái nhất. Vì vậy tiến hành sản xuất với hiệu quả cao, nâng cao năng suất lao
động
Thái độ cư xử của người lãnh đạo: lãnh đạo là việc định ra chủ trương,
đường lối, nguyên tăc hoạt động của một hệ thống các điều kiện môi trường nhất

19


định.Lãnh đạo là một hệ thống cá tổ chức bao gồm người lãnh đạo, người bị lãnh
đạo,mục đích của hệ thống, các nguồn lực và môi trường. Người lãnh đạo là một
trong các yếu tố quan trọng của hệ thống lãnh đạo,là người ra mệnh lệnh, chỉ huy
điều khiển những nguời khác thực hiện các quyết định đề ra nhằm đảm bảo giải
quyết tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức hoạt động và
hoàn thiện bộ máy quản lý. Người lãnh đạo có vai trò rất quan trọng trong tổ chức,
họ quản lý tập thể bằng quyền lực và uy tín của mình. Quyền lực là những quyền
hạn của người lãnh đạo trong khuôn khổ quyền hạn của nhà nước hoặc tập thể trao
cho người lãnh đạo. Uy tín là khả năng thu phục các thành viên dưới quyền, nó gắn
liền với những phẩm chất tài và đức của người lãnh đạo. Phong cách, phương pháp
cũng như thái độ của người lãnh đạo quyết định đến sự phát triển của các tổ chức.
Với phong cách uy quyền tức là người lãnh đạo hành động độc đoán, khi ra quyết
định không tham khảo ý kiến của bất kỳ ai, dẫn đến việc ra lệnh cứng nhăc, không
tôn trọng ý kiến của tập thể thì nhân viên thường không làm việc tự giác và độc
lập, không phát huy được tính sáng tạo và hứng thú trong lao động, cuối cùng có
tác động xấu đến tập thể. Với phong cách dân chủ tự do tức là người lãnh đạo trao
quyền chủ động sáng tạo, độc lập tối đa và tự do hành động cho nhân viên để hoàn
thành nhiệm vụ, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết để họ có ý kiến đóng
góp và tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển tổ chức. Việc lựa chọn phong
cách này hay phong cách lãnh đạo khác có một ý nghĩa quan trọng đối với việc
cũng cố giáo dục tập thể lao động. Mỗi phong cách lãnh đạo có đặc thù riêng và

thích ứng với từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.Phong cách lãnh đạo khác nhau
tạo ra thái độ của người lãnh đạo khác nhau. Thái độ của người lãnh đạo ảnh
hưởng trực tiếp đến mối quan hệ giữa người lãnh đạo với tập thể, đóng vai trò to
lớn trong việc xây dựng và cũng cố tâp thể vững mạnh từ đó ảnh hưởng tới hiệu
quả làm việc và năng suất lao động .Vì vậy người lãnh đạo phải hiểu rõ bản chất và
vận dụng các phong cách lãnh đạo trong những hoàn cảnh cụ thể, chính xác và
hiệu quả.
Bầu không khí của tập thể: Tập thể lao động là nhóm người mà tất cả các

20


thành viên trong quá trình thực hiện những trách nhiệm của mình hợp tác trực tiếp
với nhau, luôn có sự liên quan cà tác động qua lại lẫn nha. Mức độ hoạt động, hoà
hợp về các phẩm chất tâm lý cá nhân của mọi người trong tập thể lao động được
hình thành từ thái độ của mọi người đối với công việc, bạn bè, đồng nghiệp và
người lãnh đạo tạo nên bầu không khí của tập thể. Trong tập thể lao động luôn có
sự lan truyền cảm xúc từ người này sang người khác, nó ảnh hưởng rất lớn đến
trạng thái tâm lý, thái độ đổi với lao động , với ngành nghề và với mỗi thành viên.
Từ đó ảnh hưởng tới năng suất lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
1.4.4. Nhóm yếu tố thuộc về môi trường lao động
Môi trường tự nhiên: Thời tiết và khí hậu có ảnh hưởng không nhỏ đến
năng suất lao động. Nó tác động đến năng suất lao động một cách khách quan và
không thể phủ nhận. Thời tiết và khí hậu của các nước nhiệt đới khác với các nước
ôn đới và hàn đới, do đó ở các nước khác nhau có những thuận lợi và khó khăn
khác nhau trong sản xuất. Ở mỗi một ngành sản xuất thì nó tác động khác nhau.
Trong nông nghiệp thì độ phì nhiêu của đất, của rừng, của biển khác nhau sẽ đưa
lại năng suất khác nhau.Trong công nghiệp khai thác mỏ thì các vấn đề như hàm
lượng của quặng, độ nông sâu của các vỉa than, vỉa quặng, trữ lượng của các mỏ

đều tác động đến khai thác, đến năng suất lao động. Con người đã có nhiều hoạt
động nhằm hạn chế các tác động có hại của thiên nhiên đến sản xuất và đạt được
kết quả rõ rệt như trong dự báo thời tiết, trong diệt trừ côn trùng phá hoại mùa
màng. Tuy nhiên, vẫn chưa khắc phục được hết. Vì thế yếu tố thiên nhiên là yếu tố
quan trọng, cần phải đặc biệt tính đến trong các ngành như nông nghiệp, khai thác
và đánh bắt hải sản, trồng rừng, khai thác mỏ và một phần nào trong ngành xây
dựng.
Điều kiện lao động: Quá trình lao động của con người bao giờ cũng diến ra
trong môi trường sản xuất nhất định, mỗi môi trường khác nhau lại có các nhân tố
khác nhau tác động đến người lao động, mỗi nhân tố khác nhau lại có mức độ tác
động khác nhau, tổng hợp các nhân tố ấy tạo nên điều kiện lao động.các nhân tố
21


tích cực tạo ra điều kiện thuận lợi còn nhân tố tiêu cực tạo ra điều kiện không
thuận lợi cho con người trong quá trình lao động. Điều kiện lao động là tổng hợp
các yếu tố của môi trường làm việc tác động tới sức khoẻ và khả năng thực hiện
công việc của người lao động. Cụ thể là cường độ chiếu sáng, độ ẩm, tiếng ồn, độ
rung, bụi, các chất độc hại ảnh hưởng tới con người. Nếu nơi làm việc có điều kiện
làm việc không tốt như quá sáng hoặc quá tối sẽ ảnh hưởng đến thị giác của người
lao động, giảm khả năng lao động. Hoặc nơi làm việc có môi trường bị ô nhiễm,
mức độ an toàn không cao, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động. Mặt khác,
làm cho người lao động có cảm giác không yên tâm nên không chuyên tâm vào
công việc, làm giảm năng suất lao động.
Nói tóm lại, có nhiều yếu tố tác động đến năng suất lao động, trong đó phải
kể đến thứ nhất là chất lượng nguồn nhân lực và tác phong, ý thức làm việc của
người lao động. Rồi đến trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ và chất lượng của
việc tổ chức lao động, quản lý lao động khoa học và đến việc ổn định sản xuất của
doanh nghiệp. Trong các nhân tố kể trên, chất lượng nguồn nhân lực và tác phong,
ý thức làm việc của người lao động có tác động mạnh nhất đến năng suất lao động,

vì việc kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất và đối tượng lao động để tạo ra
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Trình độ lành nghề và tác phong, ý thức làm việc của
người lao động được thể hiện ra khi họ sử dụng các công cụ sản xuất thành thạo,
đáp ứng những yêu cầu về số lượng, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có
tính chuyên nghiệp cao. Người lao động có trình độ nghề nghiệp, không những cần
có kỹ năng lao động mà còn phải có sáng tạo trong quá trình sản xuất, kết hợp với
tác phong, ý thức làm việc thì mới đẩy mạnh năng suất lao động. Thực tế cho thấy
chỉ khi nào người lao động, người quản lý có kiến thức và trình độ nghề nghiệp thì
mới tiếp cận, nhanh chóng tiếp thu, vận dụng sáng tạo những thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến, hiện đại vào việc làm ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có chất
lượng, năng suất cao. Gắn liền với người lao động để tăng năng suất lao động là
công cụ sản xuất, máy móc thiết bị có công nghệ, kỹ thuật ngày càng cao; công cụ
sản xuất, máy móc thiết bị hiện đại cùng với quy trình sản xuất và quản lý tiên tiến

22


làm giảm bớt những chi phí trung gian. Khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại, phải luôn gắn liền với tổ chức bộ máy quản lý, điều hành hợp lý có trình
độ cao, quá trình hợp lý hóa sản xuất sẽ thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy người lao động
làm việc hiệu quả hơn.

23


CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐÓNG TÀU SÔNG CẤM
2.1. Giới thiệu tổng quan về công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm
2.1.1. Giới thiệu sự ra đời và phát triển của Công ty
Công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm có trụ sở chính tại số 08 đường Chi

Lăng, phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng và 1 Chi nhánh hoạt động phụ thuộc
tại thôn Ngô Hùng, xã An Hồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Công ty
cổ phần đóng tàu Sông Cấm tiền thân là xí nghiệp Hải Phòng cơ khí được thành
lập từ ngày 28/05/1959 theo Quyết định số 152/QĐ của Ủy ban hành chính thành
phố Hải Phòng.
Tháng 03/1961 được sáp nhập với xưởng đóng tàu 2, đổi tên thành Cơ khí
Hải Phòng và trở thành xí nghiệp quốc doanh của trung ương do Bộ giao thông vận
tải quản lý với nhiệm vụ chủ yếu là đóng mới và sửa chữa các loại phương tiện vận
tải thủy.
Ngày 28/03/1983, Bộ giao thông vận tải ra Quyết định số 373/QĐ-GTVT
đổi tên thành Nhà máy đóng tàu Sông Cấm.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ và Bộ giao thông vận tải về
việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước, ngày 30/07/2007 Tập đoàn công nghiệp
tàu thủy Việt Nam (nay là Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy) đã ra Quyết định
số 2349/QĐ-CNT-ĐMDN về việc phê duyệt phương án và chuyển nhà máy đóng
tàu Sông Cấm thành công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm.
Tháng 4 năm 2008 Công ty chính thức chuyển sang hoạt động theo mô
hình Công ty cổ phần.
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty
Chức năng nhiệm vụ chính của Công ty là đóng mới và sửa chữa các loại
tàu thủy, thiết bị và phương tiện nổi. Đóng thuyền, xuồng thể thao và giải trí. Sản
xuất các cấu kiện kim loại. Lắp đặt máy móc và các thiết bị công nghiệp phục vụ
trong nước và xuất khẩu.
24


2.1.3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
Bảng 2.1. Kết quả SXKD của Công ty từ năm 2010 đến 2014
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm

2010

Năm
2011

Năm
2012

Năm
2013

Năm
2014

Mức tăng
bình quân

Giá trị tổng sản lượng

814

1.004

1.104

1.554

1.890

23,92%


Tổng doanh thu

310

430

419

510

766

27,01%

Lợi nhuận sau thuế

38,6

55,7

66,3

67,9

75,4

19,20%

Nộp ngân sách NN


13,5

23,6

28,9

30

35

29,44%

Thu nhập bình quân

0,006

0,0065

0,0077

0,0085

0,009

10,77%

Các chỉ tiêu

Nguồn: số liệu lấy theo báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty


Qua số liệu của bảng 2.1 ta thấy các chỉ tiêu về giá trị tổng sản lượng, giá
trị tổng doanh thu, lợi nhuận sau thuế, nộp ngân sách nhà nước và thu nhập bình
quân của người lao động hàng năm của Công ty liên tục tăng trưởng năm sau cao
hơn năm trước trong giai đoạn 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014, cụ thể:
Về chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng có mức tăng bình quân là 23,92%. Về chỉ
tiêu tổng doanh thu có mức tăng bình quân là 27,01%. Về lợi nhuận sau thuế có
mức tăng bình quân là 19,20%.
Về chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước có mức tăng bình quân là 29,44% và
chỉ tiêu thu nhập bình quân của người lao động có mức tăng bình quân là 10,77%.
So sánh tốc độ tăng về giá trị tổng sản lượng, giá trị tổng doanh thu, lợi
nhuận sau thuế và nộp ngân sách nhà nước đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc
độ tăng về thu nhập bình quân của người lao động trong giai đoạn 5 năm 2010 2014. Như vậy ta thấy tốc độ tăng trưởng của Công ty là tương đối toàn diện và
phù hợp với quy định của Nhà nước.

25


×