Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đề tài Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.57 KB, 53 trang )

Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây ngày càng có nhiều công ty,doanh nghiệp quan
tâm đến vấn đề đạo đức kinh doanh để định hướng cho các hành vi của mình và đảm
bảo rằng những họat động của họ phù hợp với những tiêu chuẩn trong nước
cũng như quốc tế.Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để thiết lập một hệ thống các
tiêu chuẩn đạo đức toàn cầu nói chung. Khi áp dụng cho kinh doanh trong nước
hay trong kinh doanh toàn cầu, các giá trị chung như : trung thực, liêm chính, công
bằng, và vô tư … góp phần tạo nên một hệ thống đạo đức. Khái niệm đạo đức
thương trường đã có nền móng tự hàng nghìn năm trước.
Đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên
trong các tổ chức kinh doanh (hộ gia đình, công ty, xí nghiệp, tập đoàn) như : Ban
giám đốc, các thành viên Hội đồng quản trị, công nhân viên chức. Sự điều chỉnh này
chủ yếu thông qua công tác lãnh đạo, quản lý trong mỗi tổ chức đó. Đạo đức kinh
doanh được gọi là đạo đức nghề nghiệp của họ.
Đạo đức kinh doanh là khái niệm tưởng như rất xa xỉ nhưng thực tế lại rất đời
thường. Một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh là một doanh nghiệp không kiếm
lời bằng sự lừa dối khách hàng, bằng sự hủy hoại môi trường, hay bằng sự bóc lột
người lao động… Sự hủy hoại môi trường rất dễ bị phát hiện bởi người dân và các cơ
quan chức năng. Sự bóc lột người lao động cũng dễ bị phanh phui và phản ứng bởi
công đoàn và chính người lao động. Tuy nhiên, hành vi lừa dối khách hàng lại thường
được doanh nghiệp thực hiện một cách hết sức tinh vi và được che đậy thông qua
nhiều phương tiện hiện đại mà khách hàng rất khó nhận biết, hoặc dẫu có nhận biết
thì cũng đã muộn vì đã lỡ mất tiền, không thể đòi lại được. Nếu như chuyện lừa dối
trong các hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ phục vụ tiêu dùng đáng bị lên án
thì hành vi lừa dối trong kinh doanh giáo dục và đào tạo càng là điều không thể chấp
nhận được. Hiện có nhiều cơ sở chiêu sinh, mở lớp đào tạo về quản lý, trong đó có
chủ đề Văn hóa doanh nghiệp – một phần không tách rời của đạo đức kinh doanh. Lẽ


đương nhiên, ai cũng nghĩ, một doanh nghiệp đã đi dạy cho người khác làm văn hóa
doanh nghiệp thì không lý nào doanh nghiệp đó lại không xây dựng cho mình văn hóa
trước. Và khi đã có văn hóa doanh nghiệp rồi, vấn đề đạo đức kinh doanh hẳn sẽ được
đặt lên hàng đầu. Thế nhưng, thực tế không phải lúc nào cũng như nhiều người vẫn
tưởng.
Bài tiểu luận này chúng tôi muốn đề cập đến vấn đề nóng hổi hiện nay là đạo
đức kinh doanh của các các DN Việt Nam , cũng như các công ty tập đoàn đa quốc
gia .Liệu đạo đức kinh doanh có cần thiết ? tại sao phải xây dựng triết lý kinh
doanh ,đạo đức kinh doanh ,văn hóa kinh doanh ?

-1-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Phần I
CÁC KHÁI NIỆM , ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ
CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC KINH
DOANH
Khái niệm đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng
điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đức được vận dụng vào trong hoạt động
kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp .
Đạo đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh - do kinh doanh là hoạt
động gắn liền với các lợi ích kinh tế, do vậy khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo
đức không hoàn toàn giống các hoạt động khác: Tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả

kinh tế là những đức tính tốt của giới kinh doanh nhưng nếu áp dụng sang các lĩnh
vực khác như giáo dục, y tế... hoặc sang các quan hệ xã hội khác như vợ chồng, cha
mẹ con cái thì đó lại là những thói xấu bị xã hội phê phán. Song cần lưu ý rằng đạo
đức kinh doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức xã hội chung
I-Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh.
1.Tính trung thực.
Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín
trong kinh doanh. Nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong chấp hành luật pháp
của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn
bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ
tục. Trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (giao dịch, đàm phán, ký kết) và người
tiêu dùng: Không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái
phép những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp. Trung
thực ngay với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, "chiếm công vi tư"
2.Tôn trọng con người.
Đối với những người cộng sự và dưới quyền, tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính
đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm
đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác.
-2-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Đối với khách hàng,tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng.
Đối với đối thủ cạnh tranh, tôn trọng lợi ích của đối thủ .Gắn lợi ích của doanh
nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm
xã hội.

Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh là chủ thể hoạt động kinh doanh.
Theo nghĩa rộng, chủ thể hoạt động kinh doanh gồm tất cả những ai là chủ thể của các
quan hệ và hành vi kinh doanh: Tầng lớp doanh nhân làm nghề kinh doanh.
Khách hàng của doanh nhân: Khi là người mua hàng thì hành động cuả họ đều xuất
phát từ lợi ích kinh tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu
đáo. Tâm lý này không khác tâm lý thích "mua rẻ, bán đắt" của giới doanh nhân, do
vậy cũng cần phải có sự định hướng của đạo đức kinh doanh. Tránh tình trạng khách
hàng lợi dụng vị thế "Thượng đế" để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của doanh nhân,
làm xói mòn các chuẩn mực đạo đức. Khẩu hiệu "Bán cái thị trường cần chứ không
phải bán cái mình có" chưa hẳn đúng!!
3.Phạm vi áp dụng của đạo đức kinh doanh.
Đó là tất cả những thể chế xã hội, những tổ chức, những người liên quan, tác động
đến hoạt động kinh doanh: thể chế chính trị, chính phủ, công đoàn, nhà cung ứng,
khách hàng, cổ đông, chủ doanh nghiệp, người làm công.
Chức năng cơ bản của đạo đức là: đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo
các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự
thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của
giáo dục
Từ "đạo đức" có gốc từ latinh Moralital (luân lý) - bản thân mình cư xử và gốc từ Hy
lạp Ethigos (đạo lý) - người khác muốn ta hành xử và ngược lại ta muốn họ. ở Trung
Quốc, "đạo" có nghĩa là đường đi, đường sống của con người, "đức" có nghĩa là đức
tính, nhân đức, các nguyên tắc luân lý.
Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh
giá hành vi của con người đối với bản thân và trong quan hệ với người khác, với xã
hội.
Từ giác độ khoa học, “đạo đức là một bộ môn khoa học nghiên cứu về bản chất tự
nhiên của cái đúng -cái sai và phân biệt khi lựa chọn giữa cái đúng - cái sai, triết lý về
cái đúng - cái sai, quy tắc hay chuẩn mực chi phối hành vi của các thành viên cùng
một nghề nghiệp” (từ điển Điện tử American Heritage Dictionary).

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có đặc điểm:



Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương.
Nội dung các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ

thể.

-3-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Chức năng cơ bản của đạo đức là đạo đức điều chỉnh hành vi của con
người theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng
sức mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán
truyền thống và của giáo dục.


Đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng
như đối với người khác và xã hội. Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để xây
dựng lối sống, lý tưởng mỗi người.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức gồm: Độ lượng, khoan dung, chính trực khiêm
tốn, dũng cảm, trung thực, tín, thiện, tàn bạo, tham lam, kiêu ngạo, hèn nhát, phản bội,
bất tín, ác…
Đạo đức khác với pháp luật ở chỗ:


Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng chế
mà mang tính tự nguyện, các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành văn
bản pháp quy.
Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật. Pháp luật chỉ điều
chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ nhà nước; còn đạo đức bao
quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. Pháp luật chỉ làm rõ những mẫu số chung
nhỏ nhất của các hành vi hợp lẽ phải, hành vi đạo lý đúng đắn tồn tại bên trên luật .
4.Lắng nghe khách hàng.
Để biết rõ họ sẽ phản ứng như thế nào luôn là một công cụ hữu hiệu khi doanh
nghiệp muốn sản phẩm hay kế hoạch xúc tiến kinh doanh trở nên hiệu quả hơn.
Việc lắng nghe khách hàng còn mang lại cho công ty lợi ích khác là giải quyết những
phàn nàn của khách hàng một cách sáng tạo cũng chính là một trong những cách phát
hiện các ý tưởng mới về sản phẩm hay dịch vụ, cơ hội cải tiến.
Bên cạnh đó, lắng nghe ý kiến của nhân viên là điều rất quan trọng nếu muốn lắng
nghe khách hàng. Hãy tổ chức các cuộc họp với nhân viên bàn về các khách hàng
quan trọng của công ty và họ sẽ đóng góp nhiều ý kiến để có thêm nhiều cơ hội cải
tiến.
5.Chăm sóc khách hàng.
Là tất cả những gì cần thiết mà doanh nghiệp phải làm để thoả mãn nhu cầu và
mong đợi của khách hàng, tức là phục vụ khách hàng theo cách mà họ mong muốn
được phục vụ và làm những việc cần thiết thiết để giữ các khách hàng đang có. Khách
hàng mong muốn dịch vụ cốt lõi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thực
sự đáp ứng nhu cầu của họ. Khách hàng luôn mong đợi dịch vụ hậu mãi sau bán hàng
của doanh nghiệp thực sự tiện lợi.
-4-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__


Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, hãy xây dựng một môi trường kinh doanh
thực sự chú trọng cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Đây là cách tốt nhất
để tăng cường lợi thế cạnh tranh của mình. Cạnh tranh hiện nay không chỉ là cạnh
tranh về sản phẩm mà còn phải làm tốt công tác chăm sóc khách hàng.
Chăm sóc khách hàng không chỉ là nhiệm vụ của nhân viên bán hàng mà bất kỳ cá
nhân nào trong doanh nghiệp cũng phải thực hiện nhiệm vụ nào đó cho một số người
khác trong doanh nghiệp của mình, tức là ai cũng có khách hàng và đó là khách hàng
nội bộ của doanh nghiệp.
Việc chăm sóc khách hàng phải bắt nguồn từ sự cam kết của lãnh đạo cấp cao nhất
và nhất quán trong mọi phòng ban. Sau đây là sáu bí quyết giúp chăm sóc khách hàng
tốt nhất:
 Sự thân thiện và nồng ấm trong giao tiếp với khách hàng.
 Khách hàng muốn được cảm thấy mình thực sự quan trọng.
 Khách hàng muốn được công ty lắng nghe những gì họ nói.
 Đôi khi, việc biết tên của khách hàng cũng đem lại lợi thế cho doanh nghiệp.
 Năng động, linh hoạt.
6.Tạo sự an tâm của khách hàng đối với nhãn hiệu.
Vì người mua thường cảm thấy an tâm khi mua những nhãn hiệu mà mình đã từng
biết, từng nghe nói đến nhiều. Một nhãn hiệu nghe lạ tai ít có cơ may được khách
hàng quan tâm đến.
7.Sự trung thành của khách hàng đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp.
Thông qua việc giữ chân khách hàng dễ dàng hơn, nhất là khi khách hàng đã thỏa
mãn với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Khách hàng thường vẫn có tâm lý ngại thay đổi
nhãn hiệu, thậm chí còn quảng cáo không công cho nhãn hiệu đã quen dùng. Mức độ
trung thành của khách hàng cao sẽ làm tăng ảnh hưởng đến kênh phân phối, vì người
bán hàng thích bày bán những nhãn hiệu mà khách hàng muốn mua nhiều.
8.Tin tưởng của khách hàng về chất lượng.
Thể hiện thông qua sự cảm nhận của người mua về chất lượng của một nhãn hiệu, vì chất
lượng của nhã hiệu không nhất thiết dựa vào sự hiểu biết rõ những qui cách, phẩm chất của

nhãn hiệu mà chất lượng thấy được là những gì khách hàng cho rằng nó nói lên chất lượng.
Tin tưởng của khách hàng về chất lượng sẽ tác động trực tiếp lên quyết định
mua hàng cũng như sự trung thành với nhãn hiệu. Nó cũng thuận lợi và biện minh được cho
một giá bán cao hơn mà người mua cũng dễ dàng chấp nhận. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho
doanh nghiệp mở rộng nhãn hiệu trong các lãnh vực khác có liên quan.

9.Tạo cho khách hàng có sự liên kết giữa sản phẩm và nhãn hiệu.
-5-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Thông qua việc nối trí nhớ của khách hàng đến với nhãn hiệu một cách trực tiếp hay gián
tiếp. Điển hình như nói đến nước ngọt người ta nghĩ đến Coca, trông thấy cá cơm người ta
liên tưởng đến nước mắm Phú Quốc. Sự liên kết mạnh của nhãn hiệu có thể là cơ sở cho việc
mở rộng nhãn hiệu như trà chanh Lipton có được lợi thế cạnh tranh do sự liên kết của nhãn
hiệu Lipton. Nếu một nhãn hiệu được định vị một cách vững chắc dựa vào một thuộc tính
then chốt của sản phẩm sẽ là một rào cản đối với các nhãn hiệu khác muốn cạnh tranh.

II- Đạo đức cần cho thương hiệu
Không phải quá ngạc nhiên, tại hầu hết các thị trường phát triển, một vụ vi phạm
về các chuẩn đạo đức kinh doanh bị phạt rất nặng. Tuy nhiên, "án phạt" nặng nhất cho
những trường hợp đó chính là việc người tiêu dùng tẩy chay dùng sản phẩm.
Còn nhớ, năm 2006, khi Trung tâm Khoa học và Môi trường Ấn Độ (CSE) ra
thông báo rằng: các sản phẩm của Coca-cola và Pepsi chứa nhiều độc tố quá mức cho
phép, các nhà quản trị của hai thương hiệu này đã phản ứng quá mức. Họ đâm đơn lên
kiện cáo buộc của CSE. Và kết quả các sản phẩm của họ bị phản đối ở thị trường này.
Ắt hẳn, rất nhiều người hiểu, cáo buộc của CSE là thái quá. Và xét về góc độ lý
tính, phản ứng của nhà quản trị hai thương hiệu này là có cơ sở. Nhưng, vấn đề là

người tiêu dùng, có chấp nhận sự phản ứng đó ở mức nào.
Lấy ví dụ này để thấy rằng, rõ ràng, ở những thị trường phát triển, người tiêu dùng
được định danh đúng nghĩa là “thượng đế”. Và bất kì những gì ảnh hưởng đến quyền
lợi của người tiêu dùng luôn luôn bị phản đối. Do vậy cách làm ở đây là “thuyết
phục" với thái độ mềm mỏng chứ không phải là "kiện tụng". Và người tiêu dùng được
quyền từ chối, vì tại thị trường của họ đã xác lập những giá trị thực tế, mà ở đó, yếu tố
đạo đức quyết định cho sức sống của thương hiệu.( điển hình là trà thảo mộc
DR>Thanh
Ở Việt Nam, các tập đoàn lớn, cũng có thái độ ứng xử tương tự khi gặp sự cố. Còn
nhớ, khi cơn “bão melamine”, quét sang thị trường Việt Nam, vẫn có những tên tuổi
lớn gặp sự cố. Đó là trường hợp của Mead Johnson bị nghi ngờ là có nhiễm melamine
ở một thị trường khác. Lập tức, họ xác nhận lại mức độ chính xác của thông tin. Và
kịp thời đưa thông tin đó đến người tiêu dùng với dạng “thuyết phục”. Bởi vì, hơn ai
hết, họ ý thức được sự "nguy hiểm” nếu những điều tiếng này tiếp tục tồn tại. Điều
quan trọng là, những giá trị chân thật, khả tín...chính là điều cần thiết để bảo vệ
thương hiệu của mình. Và một tên tuổi lớn như Mead Johnson, không thể "chối đây
đẩy" những thông tin như thế với khách hàng của
-6-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

mình. Bởi vì, họ hiểu rằng, ngay khi mình "vô can”, những câu chuyện đại loại như
vậy sẽ là "thông tin xấu” làm hoen ố hình ảnh và làm hạn chế sức sống của thương
hiệu.
Vấn đề là tại sao, phần lớn các doanh nghiệp của Việt Nam không ý thức hay ý
thức không đầy đủ sự tác động của những sự cố này đến thương hiệu của mình? Điều
này có lẽ lý giải một phần: những chuẩn giá trị của đạo đức kinh doanh đã không

được tôn trọng, và hệ lụy của nó, ắt hẳn không thể hiện ngay nước mắt, mà từ từ và
lâu dài. Và điều quan trọng nhất, khi người tiêu dùng, không còn sự tín nhiệm, niềm
tin, tất cả những giá trị khác sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa.
Tất nhiên, thị trường có những quy luật của riêng nó. Tuy nhiên, cách làm khôn
khéo là tác động vào những quy luật đó để nó chuyển động theo chiều hướng tích cực,
có lợi cho doanh nghiệp.
Giá trị đạo đức trong kinh doanh không phải là điếu gì quá mơ hồ. Nó cần
được những nhà quản trị doanh nghiệp xác lập trong từng hành động cụ thể và trải
đều trên tất cả những lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động, kinh doanh.
Và khi nào các doanh nghiệp Việt Nam ý thức đầy đủ những điều như vậy, cơ hội để
vươn lên vẫn còn rộng mở, ngược lại, tất cả những nỗ lực để xây dựng thương
hiệu,vẫn là điều gì đó xa vời và không thực tế

 Đưa đạo đức vào trong kinh doanh như thế nào ?
Hầu hết các doanh nghiệp đều công nhận đạo đức trong kinh doanh là một vấn đề
quan trọng nhưng nhiều doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng không biết phải làm thế nào
để đưa vấn đề này vào trong các hoạt động của mình. Dựa trên kinh nghiệm từ nhiều
công ty trên thế giới và kết quả các nghiên cứu khoa học, dưới đây là một số gợi ý cho
việc cần làm và yếu tố cần có để thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp.
 Quan điểm và sự gương mẫu của lãnh đạo.
Thực tế cho thấy nhiều hành vi phi đạo đức của các nhân viên là do ảnh hưởng xấu từ
cấp lãnh đạo. Nếu lãnh đạo đồng tình tiếp tay cho các hành vi như khai man thuế, làm
gian, làm ẩu, qua mặt đối tác… thì không thể đòi hỏi sự trung thực của nhân viên.
“Thượng bất chính hạ tắc loạn” ! Ngược lại, sự quyết tâm tôn trọng các giá trị đạo
đức, cho dù trong nhiều trường hợp phải chịu thua thiệt, và sự gương mẫu trong việc
thực hiện những giá trị này của lãnh đạo sẽ tạo niềm tin và động lực cho mọi người
cùng nhau làm ăn chân chính.

-7-



Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

 Xây dựng bộ quy tắc đạo đức thống nhất .
Phạm trù đạo đức thường rất rộng và trừu tượng, nhiều khi còn mang tính chủ quan.
Do đó, để cụ thể hóa việc thực hiện các vấn đề đạo đức, mỗi doanh nghiệp nên xây
dựng và áp dụng một bộ những quy tắc đạo đức thống nhất. Bộ quy tắc này được xem
là một cẩm nang hướng dẫn cho nhân viên và là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên
quan đến đạo đức trong doanh nghiệp. Nội dung của bộ quy tắc đạo đức nên bao gồm
bốn phần chính:
1. Sự ủng hộ và yêu cầu thực hiện đạo đức của lãnh đạo doanh nghiệp .
2. Cam kết và trách nhiệm của doanh nghiệp với nhân viên.
3. Các giá trị đạo đức và trách nhiệm mà nhân viên phải thực hiện đối với đồng
nghiệp, lãnh đạo, khách hàng, chính quyền và cộng đồng.
4. Các phương thức thông tin và cách giải quyết các vướng mắc liên quan đến đạo
đức.
Như vậy, trong bộ quy tắc đạo đức thì trách nhiệm của doanh nghiệp và lãnh đạo
được nêu ra trước, sau đó mới đề cập đến trách nhiệm của nhân viên. Trong thực tế,
các công ty ở Mỹ và Canada thường có những bộ quy tắc không dài quá hai trang,
được trình bày đẹp, sinh động, ngắn gọn và dễ hiểu để phát cho mọi nhân viên. Doanh
nghiệp không nên sao chép rập khuôn các quy tắc đạo đức chung chung hoặc thuê
công ty tư vấn viết thay, mà nên tổ chức cho tất cả nhân viên cùng đóng góp xây dựng
các quy tắc, tự đề ra trách nhiệm và hướng giải quyết khi xảy ra các vấn đề liên quan
đến đạo đức. Các quy tắc cũng cần được cập nhật, điều chỉnh định kỳ cho phù hợp với
tình hình thực tế và nguyện vọng của nhân viên. Khi được đóng góp ý kiến thì các
nhân viên sẽ coi bộ quy tắc này là của chính mình nên sẽ tự giác thực hiện nó. Khi đó
đạo đức trong kinh doanh không phải là
những nội quy cứng nhắc trên giấy mà sẽ trở thành một nét văn hóa sống động trong

công ty.
 Các chương trình Huấn luyện về đạo đức.
Xây dựng một bộ quy tắc chỉ là bước đầu đưa đạo đức trở thành nét văn hóa sống
động trong công ty. Bộ quy tắc dù đầy đủ và rõ ràng đến đâu cũng không thể bao quát
hết tình hình thực tế. Vì thế, việc hiểu và thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp cũng
cần được xem như huấn luyện các kỹ năng bán hàng, giao tiếp… Trong hoạt động
hàng ngày của doanh nghiệp sẽ phát sinh rất nhiều tình huống mới làm nhân viên lúng
túng không biết phải xử lý thế nào cho đúng về mặt đạo đức, như nhắm mắt cho qua
để đạt chỉ tiêu hay nên dừng lại để kiểm tra khi phát
-8-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

hiện sản phẩm bị lỗi, hoặc có nên đuổi việc nhân viên khi vi phạm một lỗi nào đó?
Trải qua những tình huống như vậy, doanh nghiệp cần tổ chức các chương trình huấn
luyện về đạo đức kinh doanh để giúp nhân viên biết cách xử lý vấn đề cho đúng. Có
thể đó là các khóa học tập trung hay ngoài giờ hoặc các buổi hội thảo, nói chuyện
chuyên đề, hay thi đố vui xử lý tình huống, diễn kịch tuyên truyền, thi viết báo tường
hay vẽ tranh cổ động… Nhiều công ty cũng có sáng kiến xây dựng các tình huống
mẫu hoặc phát triển các quy tắc đạo đức chung thành những đoạn phim ngắn chiếu
cho nhân viên xem.

 Xây dựng các kênh thông tin(giải pháp)
Nhiều công ty như Motorola hay Sundstrand đã thành lập một hội đồng gồm các
nhân viên thường trực và chuyên trách về đạo đức. Khi có thắc mắc gì về vấn đề này
thì nhân viên của công ty sẽ liên lạc với hội đồng này. Tương tự, các công ty Pacific
Bell và Marathon Oil cũng đã thành lập các “đường dây nóng”giải quyết các vấn đề

về đạo đức kinh doanh. Tập đoàn Texas Instruments thì xây dựng kênh thông tin qua
hệ thống thư điện tử, nhân viên ở khắp thế giới để có thể liên lạc trực tiếp với những
người chuyên trách vấn đề ở tổng công ty tại Mỹ. Tuy nhiên, cũng cần tránh việc ỷ lại
và dồn hết trách nhiệm vào những người chuyên trách.

-9-


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Phần II
THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
I-Giá trị thương hiệu và đạo đức kinh doanh.
Các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá
khác nhau. Bên cạnh đó vấn đề lợi nhuận và đạo đức trong kinh doanh luôn làm đau
đầu các nhà lãnh đạo.
Thương hiệu trong nền kinh tế thị trường :
Theo cơ chế cạnh tranh của thị trường tự do, trong bất cứ ngành hàng nào, từ hàng
tiêu dùng nhanh, hàng điện máy, ngành quần áo thời trang hay các ngành dịch vụ,…
các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác
nhau.
Lấy ví dụ tại thị trường Việt Nam. Trong ngành dầu gội, giá bán của Sunsilk đắt gần
gấp 3 lần giá bán của dầu gội đầu Mỹ Hảo. Trong ngành điện máy, giá bán của tivi
Sony đắt gấp đội so với giá của nhãn hiệu nội địa Darling. Trong ngành dịch vụ quảng
cáo hay trong dịch vụ về luật, giá dịch vụ của các hãng nước ngoài đắt hơn từ 3 đến
10 lần so với giá của các công ty của Việt Nam.
cTuy có mức chênh lệch giá rất lớn giữa các thương hiệu ở phân khúc thấp so
với phân khúc cao cấp, nhưng càng ngày, chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) giữa các

phân khúc càng bớt khác biệt. Ngày nay, nếu bỏ nhãn hiệu đi và cho người khách
hàng dùng thử, nhiều loại sản phẩm và dịch vụ có giá rất chênh nhau những lại hầu
như không tạo ra sự khác biệt.
Trên thực tế các tập đoàn đa quốc gia đã chuyển khâu sản xuất của nhiều loại sản
phẩm và các ngành dịch vụ sang các nước đang phát triển, nơi mà giá nhân công rẻ
hơn tại thị trường tiêu thụ nhiều lần.
- 10 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Chuyện gì đã xảy ra khi mức chênh lệch giá không thể hiện ở các ích lợi của
sản phẩm hay của dịch vụ? Và tại sao người ta phải bỏ thêm những khoản tiền lớn để
được sử dụng thương hiệu mà họ yêu thích?
II-Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh.
Hiện nay bất cứ nhà kinh doanh nào cũng đều muốn nâng giá của sản phẩm,
hay của dịch vụ lên càng cao càng tốt. Khi một sản phẩm có giá cao, rõ ràng khả năng
mang lại lợi nhuận sẽ tăng lên đáng kể, mà công sức và thời gian và chi phí kinh
doanh sẽ giám xuống. Còn gì bằng khi mà một chai bia Heineken có giá bán gần gấp
3 lần chai bia Sài Gòn (trên thực tế mức lợi nhuận sẽ chênh nhau đến cả chục lần). Tại
sao một đôi giày thể thao Nike được sản xuất tại Việt Nam có giá xuất xưởng chưa tới
15 Đô-la Mỹ lại có giá bán gần 200 Đô-la Mỹ?
Tất cả những người làm kinh doanh, những chuyên gia marketing và các giám
đốc nhãn hiệu đều có chung một khát khao là làm sao có thể nâng được giá bán của
sản phẩm lên thật cao ở mức tối đa mà người tiêu dùng có thể chấp nhận.
Một vấn đề lớn được đặt ra rằng liệu đã đến lúc phải làm rõ chuyện “bóc lột
trắng trợn” của những người chủ thương hiệu đối với người tiêu dùng? Theo như
những gì đang xảy ra, liệu các chủ thương hiệu có quá nhẫn tâm và tham lam khi nâng

mức giá lên cao quá mức như vậy?
Trong tác phẩm “No Logo”, Naomi Klein đã nêu ra thực tế là người tiêu dùng
ở các nước phương tây đã thấy rõ tình trạng này từ những thập niên chín mươi của thế
kỷ XX. Đã có hàng loạt những cuộc biểu tình phản đối và tẩy chay các nhãn hiệu toàn
cầu. Theo như những gì mà mọi người thấy được thì có lẽ người tiêu dùng đang bị các
tập đoàn sở hữu những thương hiệu lớn bóc lột “tới tận xương”.
Nếu mọi chuyện đúng như vậy thì tất cả những người làm nghề xây dựng
thương hiệu đều là những kẻ tham lam, vô đạo đức và lừa bịp khách hàng chăng?
Là một người đã nhiều năm làm nghề truyền thông tiếp thị với mục đích xây dựng
nên những thương hiệu có giá trị cao (tức làm cho người tiêu dùng phải “hài lòng” bỏ
tiền ra mua và sử dụng thương hiệu được quảng bá), tác giả bài viết này đã thật sự
“sốc” khi đọc được những tài liệu trong cuốn sách của tiến sĩ Naomi Klein.
Là chuyên gia quản lý thương hiệu, hoặc là một chủ doanh nghiệp, liệu có gì
sai khi chúng ta muốn tạo nên những thương hiệu “đắt hơn những nhãn hiệu khác
nhiều lần” mà vẫn hấp dẫn người tiêu dùng? Liệu có gì trái với đạo đức kinh doanh
trong việc tìm cách bắt người tiêu dùng phải trả thêm tiền chỉ bởi sản phẩm được gắn
thêm một cái tên “khác biệt”?
 Sự thật phía sau những cảm nhận đắt giá.
Số liệu thực tế cho thấy, sự trung thành của người tiêu dùng (hay nói cách khác
là sự lệ thuộc của họ) vào các thương hiệu đắt tiền luôn bền vững và ngày càng tăng.
Trong một nghiên cứu về người uống bia tại thị trường Việt Nam, khi trả lời cho câu

- 11 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

hỏi: “nếu được thoải mái lựa chọn thì bạn sẽ chọn loại bia nào?”, hơn 70% người

được hỏi đã trả lời Heineken.
Quả thật là các thương hiệu mạnh luôn có giá cao hơn hẳn những đối thủ cạnh
tranh cùng ngành hàng. Tuy vậy, nếu bạn tìm hiểu kỹ lưỡng thì sẽ thấy rằng, các sản
phẩm “cao cấp” đắt tiền luôn được ưa chuộng, và ngày càng được ưa chuộng hơn.
Trong một đợt phỏng vấn bỏ túi với khoảng 60 phụ nữ được hỏi ý kiến, tất cả mọi
người đều chọn Sunsilk làm dầu gội thay vì chọn một nhãn dầu nội địa khác có chất
lượng tốt và giá rẻ hơn.
Trong cuốn “The Cult of The Luxury Brand” (tạm dịch Mốt Xài Hàng Hiệu
Sang Trọng) nêu ra một số dẫn chứng về xu hướng thích xài hàng hiệu của người tiêu
dùng. Đặc biệt tại Châu Á, người dân ngày càng thích chọn mua những loại hàng hóa
có nhãn hiệu rất đắt tiền (có đến 94% phụ nữ ở Tokyo sử dụng sản phẩm của Louis
Vuitton – một nhãn hiệu hàng hóa thuộc loại đắt nhất thế giới). Hẳn việc ưa chuộng
các sản phẩm giá cao sẽ cho cảm nhận là sản phẩm tốt hơn, dẫn đến việc sẽ hài lòng
hơn khi sử dụng.
Dựa trên những phân tích về giá trị của sản phẩm và giá trị của thương hiệu, chúng ta
dễ thấy được là một sản phẩm mang thương hiệu sẽ tạo ra 2 loại giá trị khác biệt rất rõ
ràng: giá trị lý tính và giá trị cảm tính.
Giá trị lý tính: Đây chính là những lợi ích mà một loại hàng hóa, hay một loại dịch vụ
mang lại cho người tiêu dùng. Cà phê đơn thuần là một loại thức uống gây nghiện và
giúp người uống tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn. Uốn tóc là một dịch vụ giúp cho các bà
các cô có mái tóc kiểu cách và đẹp hơn. Nếu một sản phẩm không có thương hiệu, nó
được gọi là hàng hóa.
Giá trị cảm tính: Là một loại giá trị do các thương hiệu mang lại. Khi một loại hàng
hóa với những đặc điểm cụ thể tạo nên sự khác biệt, người bán hàng sẽ được gắn
thêm tên gọi cho hàng hóa đó để người tiêu dùng dễ phân biệt, dễ nhận biết. Chính cái
tên mà người bán hàng gắn cho loại sản phẩm có những đặc điểm khác biệt là lý do để
cho chúng ta phải trả thêm tiền để mua sản phẩm đó. Nói một cách khác, sản phẩm đó
có kèm theo thương hiệu. Thương hiệu cà phê Highland có giá trên dưới 20 ngàn một
ly, trong khi ly cà phê của dì Ba bán ở góc đường (cũng ngon không kém) thì giá chỉ
có 4 ngàn đồng.

Dịch vụ cũng vậy, uốn một cái đầu tại tiệm uốn tóc bình dân Hồng ở trong
xóm giá chỉ 100 ngàn đồng, nhưng cũng uốn một kiểu tóc tương tự ở tiệm Khôi sang
trọng thì giá suýt soát 1 triệu đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt về giá cả không chỉ bởi
cái tên thương hiệu. Trên thực tế, sự chênh lệch về giá ở đây thể hiện mức độ cảm
nhận, hay nói cách khác là lượng cảm xúc tốt mà người khách hàng có được từ sản
phẩm hay dịch vụ có cái tên đặc thù đó.
 Hãy xem xét sự khác biệt.
Trước hết, tất cả mọi người đều phải công nhận rằng hàng hiệu thứ thật luôn
luôn có những đặc điểm khác biệt vượt trội với chất lượng “không thể chê vào đâu
được”. Kế đến là nó tạo ra các giá trị cảm tính như sự tự hào, sự hãnh diện và rất tự
tin cho người xài hàng hiệu. Làm sao mà lại có thể không tự hào khi bạn mặc một
- 12 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

chiếc áo sơ mi “hàng độc” có giá đến 6 triệu đồng, đeo một cái thắt lưng có giá 18
triệu đồng và đi một đôi giày da nai “chính hiệu” có giá gần 30 triệu đồng,…
Một thương hiệu đắt tiền luôn tạo ra sự khao khát của người tiêu dùng và làm cho họ
thỏa mãn hơn rất nhiều so với một nhãn hiệu bình dân.
Như vậy sự thỏa mãn chính là điều khác biệt cơ bản. Một thương hiệu bình dân
sẽ đáp ứng cho những nhu cầu cơ bản của khách hàng bằng các giá trị lý tính, nhưng
một thương hiệu cao cấp sẽ tạo ra thêm những giá trị cảm tính và các giá trị cảm tính
này là loại mà không dễ gì mà người tiêu dùng có được (như sự hãnh diện, sự thỏa
mãn, sự tự tin,…). Các giá trị cảm tính này thực tế là các cảm xúc tốt ở mức độ cao và
sẽ xuất hiện mỗi khi nhãn hiệu được sử dụng.
Bạn nên biết rằng giá trị của một vật chính là lượng cảm xúc tốt mà vật đó
mang lại cho người sử dụng. Đây cũng là điểm khác biệt lớn hoặc rất lớn về giá bán

giữa nhãn hiệu thường và nhãn hiệu cao cấp. Để tạo ra một thương hiệu “đắt tiền” là
một công việc cực kỳ khó khăn, bởi nếu người tiêu dùng không “cảm thấy” và không
tin rằng thương hiệu có giá trị đúng như giá bán thì chắc chắn họ sẽ không thể nào có
được cái cảm giác sử dụng “hàng hiệu” và không đời nào họ bỏ tiền ra để mua.
Theo những phân tích trên đây, việc tạo ra một nhãn hiệu cao cấp sẽ đòi hỏi rất
nhiều tiền bạc cũng như nhiều thời gian. Để duy trì sự “cao cấp” đó thì còn là việc
khó khăn hơn nữa. Thật may mắn là cuối cùng, những người làm nghề xây dựng nên
các thương hiệu đắt tiền đã có thể tự hào rằng mình đang làm những việc rất có đạo
đức chứ không phải là việc phi đạo đức như nhiều người lầm tưởng.
Bằng việc tạo ra những thương hiệu cao cấp và cực kỳ sang trọng, người làm
thương hiệu đã mang lại cho người tiêu dùng những cảm giác thỏa mãn, những phút
giây hạnh phúc không dễ có được trong cuộc sống. Hàng hiệu là một công cụ làm cho
sản phẩm, hay dịch vụ trở nên đầy cảm hứng, tạo ra sự thỏa mãn và hài lòng cho hàng
ngàn hoặc hàng triệu người trong cái thế giới đầy stress và buồntẻnày.
Tóm lại, giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ nào đó được tạo nên từ giá trị lý
tính và giá trị cảm tính. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là tất cả.
Sự hy sinh nằm sau thương hiệu cao cấp
Một chiếc túi Longchamp bán với giá 500$ trong khi giá thành SX chỉ khoảng
bằng 1/10, giày Nike giá bán 200$ trong khi giá thành 15$, Giày da nai chính hiệu giá
30mil VND khoảng 1 năm tiền lương của lao động phổ thông. Người tiêu dùng bị bóc
lột, họ phải trả nhiều tiền cho những giá trị vô hình, mà giá trị vật chất của chúng
không hơn các SF no-name khác. Điều đó nghe thật bất công.
Nhưng thử đứng ở góc độ của các thương hiệu cao cấp xem để có được giá bán như
vậy họ đã phải hy sinh những gì?
 Năng khiếu trời cho.
- LANVIN một hãng thời trang cao cấp mà thân chủ của nó, bà Lanvin đã cống
hiến cả cuộc đời với niềm đam mê thời trang và lòng yêu thương cô con gái vô bờ
bến, và đương nhiên là cả năng khiếu nữa.
- 13 -



Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

- Kenzo, đó là tài năng là quyết tâm của một sinh viên Nhật lập nghiệp tại
Pháp.
- Jean Paul Gautier, sự sáng tạo tuyệt vời với những tác phẩm thời trang độc
đáo có một không hai
Trên tất cả đó là năng khiếu nghệ thuật của những người làm nên các SF đó một thứ
mà ta không thể đong đếm như vật chất được, vậy làm sao có thể tính nó bằng tiền
vải, phụ liệu và giá gia công được?
Cùng nhiều tên tuổi khác như Coco-Channel, Christian Dior, YSL, đó là những tài
năng nghệ thuật mà tạo hóa ban cho thế giới của chúng ta, và đương nhiên là tính cả
ông bố cô Mercedes, một tài năng kỹ thuật nữa, những người đã tạo ra những sản
phẩm thật sự cao cấp.
 Lịch sử.
Bên cạnh tài năng, đó là quá trình phát triển lịch sử, hàng chục năm không
ngừng nỗ lực không ngừng phấn đấu, và trong quá trình cạnh tranh đó nhiều thương
hiệu đã hy sinh không đủ sức lực tồn tại và nhường chỗ cho các thương hiệu như
Levi's, adidas, Nike,.. Lịch sử là giá trị chứa trong sản phẩm, mà nhiều hãng đã phải
ghi vào SF "since…."
 Cơ hội tồn tại.
Không phải năng khiếu, không phải lịch sử, họ phải hy sinh cái gì? Đó là cơ
hội tồn tại. Nếu một thưong hiệu định vị cao cấp ngay khi mới ra đời gặp thất bại thì
sao? nếu HighLand cũng rơi vào trường hợp như Laser thì sao? Giá trị về mặt cơ hội
có thể lớn như tổn thất của Laser, Liệu bạn có đủ can đảm để định vị cao cấp cho sản
phẩm của mình hay không? xét trên góc độ này thì 20K/ly cà phê cũng đáng đấy chứ!
 Ngoài ra, còn nhiều sự hy sinh khác nữa.
Hàng tồn kho giám giá: một chiếc áo old navy giá 30$ nhưng sau một thời gian

tồn kho nó sẽ được bán với giá 1$, thấp hơn giá thành. Đó là sự hy sinh về mặt tiền tệ.
Hy sinh về số lượng để có limited editions, để có chiếc áo sơ mi 600$, biết đâu
họ đã phải hy sinh việc bán 100 chiếc áo 6$.
Đó còn là sự đầu tư vào cửa hàng, vào con người, vào quy trình và nhiều yếu
tố khác nữa, nhằm làm nên một sản phẩm cao cấp.
Bởi những sự hy sinh có thể có nên không phải ai cũng dám cho ra đời những
thương hiệu cao cấp.
Còn những người sử dụng chúng là ai? Ca sĩ, diễn viên, doanh nhân, CEO, nhà
đầu tư chứng khoán, kẻ thừa kế … những người có những khoản thu nhập khác
người. Những khoản thu nhập nhờ tài năng, nhờ bóc lột sức lao động, nhờ may mắn
… Như vậy bán các thương hiệu cao cấp cho họ cũng không thể gọi là bóc lột được,
có chăng chỉ gọi đó là một sự phân phối lại thu nhập mà thôi.
Chủ thương hiệu cao cấp thu tiền về mua xe xịn, chủ hãng xe gửi tiền ngân hàng, chủ
ngân hàng mua bất động sản, chủ bất động sản lại mua 1 chai coca. Đó là một chuỗi
- 14 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

của những sự phân phối lại, có ai bóc lột ai đâu. C'est la vie!
Cuốn "No-logo" -NaoMi Klein mà mình chưa đọc đã thấy tức rồi, chắc chắn nó
không chỉ làm cho tác giả Nguyễn Nam Trung sốc mà có thể còn gây ra làn sóng phản
ứng của những người làm thương hiệu và sở hữu thương hiệu.
Có thể nói, chưa khi nào, người ta thấy được những sự kiện vi phạm vệ sinh an toàn
thực phẩm lại gia tăng trong thời gian vừa rồi.
Trong khi dư luận chưa kịp lắng xuống vụ “nguyên liệu quá hạn sử dụng” của Tập
đoàn rượu nước giải khát Việt Nam, Tân Hiệp Phát, thì lại nổi lên vụ hàng trăm tấn
thực phẩm vi phạm nhãn mác và hạn sử dụng của Vinafood, một tập đoàn kinh doanh

thực phẩm hàng đầu Việt Nam.
Lùi xa hơn một chút, ta thấy được vụ khủng hoảng melamine ở sữa. Và rồi lại đến
việc thiếu hàm lượng đạm như đã ghi ở bao bì của một loạt nhãn hàng sữa bị phát
hiện. Tất cả những điều đó đặt ra vấn đề: Tại sao hiện tượng này lại diễn ra ngày càng
nhiều. Và đứng ở góc độ kinh doanh, hiện tượng đó nói lên điều gì?
III-Lợi nhuận là trên hết
Từ mà cơ quan truyền thông dung gần đây để nói về hiện tượng Vinafood, là “tẩu
tán”. Tức là, sau khi bị cơ quan hữu quan phát hiện mức độ vi phạm, chính Vinafood
đã “tuồn” toàn bộ lượng hàng này trở lại thị trường.
Có lẽ, do mức thiệt hại lớn, nếu số lượng hàng này bị tiêu hủy, nên Vinafood đã quyết
định như trên. Một quyết định thiên về phần "lợi" hơn là “tín” và “đức”. Đạo đức, có
lẽ, không được những người làm kinh doanh ở Vinafood xem như một phẩm chất, yếu
tố cần thiết để thực hiện trong quá trình kinh doanh.
Nếu xét từ góc độ người tiêu dùng, liệu họ còn đủ dũng cảm để sử dụng những giò
heo, sườn cốt lếch hay xúc xích...của Vinafood? Và lượng hàng đã được tuồn ra, với
những người thiếu thông tin vẫn sử dụng, hậu quả để lại sẽ là gì?
Cách sự kiện vừa rồi hơn 1 tháng, một “tên tuổi lớn” khác, Tân Hiệp Phát, đã chối đây
đẩy, khi hàng trăm tấn nguyên liệu bị phát hiện đang tồn trong kho của mình. Tuy
nhiên, sau khi nhận được kết quả giám định của cơ quan phụ trách về an toàn vệ sinh
thực phẩm là họ "vô can” thì lập tức, một "chiến dịch” dội bom người tiêu dùng qua
truyền thông, đã được các nhà quản trị của Tân Hiệp Phát thực hiện rầm rộ.
Tất nhiên, với một tập đoàn có khá nhiều kinh nghiệm về marketing và thương hiệu,
việc làm của Tân Hiệp Phát, nhận được nhiều ý kiến bình luận khác nhau. Tất nhiên,
việc họ khôi phục lại niềm tin, ít nhất là của kênh phân phối, như Coop Mart, Big
C...đã là một "nỗ lực" mà không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng và nguồn
lực, làm được. Tuy nhiên, sự kiện đã qua vẫn để lại những "gờn gợn”, mà kết quả
thống kê sau đó của báo Sài Gòn Tiếp Thị cho thấy: số lượng người dùng các nhãn
hiệu của Tân Hiệp Phát đã giảm hẳn.
Và những thông tin sau đó càng làm mức độ hoài nghi của người tiêu dùng tăng lên,
khi Tân Hiệp Phát xin được chuyển mục đích sử dụng của lô hàng này sang làm thức

ăn gia súc. Câu hỏi tại sao lại được đặt ra, vấn đề nằm ở chỗ: Tránh thiệt hại.

- 15 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

IV. ĐẠO ĐỨC KINH DOANH TẠI VIỆT NAM THỰC TẠI VÀ GIẢI PHÁP
( TS NGUYỄN HOÀNG ÁNH---ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI )

1.Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh
doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt
Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan cầu
hóa vào năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn đề này
chưa bao giờ được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do
Nhà nước chỉ đạo, vì thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân
thủ lệnh cấp trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đã là rất
khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung,
chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than
phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp của Việt Nam chưa phát triển, có rất
ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước, nên không cần quan tâm đến
vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao động đều làm việc cho nhà nước,
nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống nhất và đơn giản. Tìm được việc
làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên không có chuyện đình công hay mâu
thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xã hội đều phải tuân thủ quy định của Nhà nước
nên những phạm trù trên là không cần thiết.
Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được

xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường chứng
khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xã hội.
Qua kết quả phân tích các số liệu điều và những tài liệu thu thập qua sách báo, chúng
ta có thể rút ra được những kết luận sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt
Nam.
1.1. Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh
Cho đến nay, có rất ít sách chuyên môn về đạo đức kinh doanh được xuất bản ở
Việt Nam, và hầu hết là được dịch từ sách của Mỹ. Cuốn sách đầu tiên về đề tài này
được xuất bản ở Việt Nam có lẽ là cuốn: “WHAT'S ETHICAL IN BUSINESS?” by
Verne E.Henderson, của Nhà xuất bản McGraw - Hill Ryerson. Cuốn sách này được
- 16 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

dịch giả Hồ Kim Chung dịch là “Đạo đức kinh doanh là gì?” và được Nhà Xuất bản
Văn hóa phát hành tháng 11 năm 1996. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách khá mơ hồ,
không đầy đủ, nên đã không gây được nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu ở Việt
Nam. Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, đã có khá nhiều bài
báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta (Tạp chí lưu hành nội bộ của công ty FPT,
website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn
doanh nghiệp (tờ thời báo cho giới doanh nhân Việt Nam do Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam - VCCI phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo
và tạp chí khác như: Saigon Times, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo Lao động, etc.
Nhưng các bài báo này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những sự kiện gần đây ở
Việt Nam có liên quan đến đạo đức kinh doanh hoặc cung cấp về một số vụ việc trên
các sach báo nước ngoài, chứ không tiến hành khảo sát hay đưa ra một khái niệm cụ
thể nào về đạo đức kinh doanh. Hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh

doanh ở Việt Nam đều chưa có môn học này, hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở hình thức
môn tự chọn. Trong nội dung của các môn học có
liên quan như kinh doanh quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái
niệm này, hoặc nếu có thì nội dung cũng quá sơ sài. Ví dụ, trong giáo trình môn Văn
hóa kinh doanh tại một trường Đại học Kinh tế ở Việt Nam có giành một chương cho
Đạo đức kinh doanh nhưng lại coi đạo đức kinh doanh là việc tuân thủ pháp luập
trong kinh doanh! Quan niệm như vậy là quá hạn hẹp, chưa đánh giá hết tầm quan
trọng của khái niệm này. Do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, các phương tiện
thông tin đại chúng ở Việt Nam đề cập khá nhiều đến vấn đề này nhưng lại không đưa
ra được một khái niệm chuẩn mực nào. Chính vì vậy,mặc dù thường được nghe về
đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các
doanh nghiệp về vấn đề này còn khá mơ hồ. Thực trạng đó đã được thể hiện khá rõ
qua kết quả của cuộc điều tra. 40/60 số người được hỏi xuyên nghe nhắc đến
những vấn đề lien quan đến đạo đức kinh doanh, 20/60 đôi khi nghe nhắc đến
vấn đề này. Lưu ý là cuộc điều tra này được tiến hành ở Hà Nội, thủ đô và là thành
phố lớn thứ hai của Việt Nam, nên con số này chưa phải là cao. Nhưng khi được
hỏi về quan niệm, thế nào là đạo đức kinh doanh, 55/60 số người được hỏi cho
“Đạo đức kinh doanh là tuân thủ đúng pháp luật”, chỉ có 5/60 người được hỏi cho
“Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi cho khách hàng” và không ai cho đạo
đức kinh doanh phải bao gồm cả hai khái niệm trên! Chính sự hiểu biết mơ hồ này
về đao đức kinh doanh đã dẫn đến những thiếu hụt trong thực thi của doanh nghiệp.
1.2.Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội (corporate social responsibility CSR)
Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi tập trung vào 2 khía cạnh, trách nhiệm của
doanh nghiệp với chất lượng hàng hóa và vấn đề bảo vệ môi trường. Câu hỏi thứ nhất
về vấn đề này được đặt ra là: “Doanh nghiệp sẽ làm gì nhận được thông tin là có một
số hàng hóa của mình bị kẻ xấu tráo đổi với những hàng kém chất lượng, mà bằng
hình thức bên ngoài không có khả năng phân biệt được, có thể gây tác hại cho người
- 17 -



Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

tiêu dùng?”. Câu hỏi này dựa trên một tình huống có thật là năm 1981, một người
bệnh tâm thần đã cho thuốc độc vào một số lọ thuốc giảm đau nhãn hiệu Tylenol do
Johnson & Johnson (J&J) sản xuất và bày bán ở các quầy hàng bán thuốc trong những
siêu thị ở thành phố Chicago. Sự kiện trên đã làm bảy người thiệt mạng và cảnh sát
không bắt được thủ phạm. Mặc dù vụ việc đáng
tiếc này chỉ xảy ra ở Chicago và bộ phận an ninh cho rằng người thủ phạm chỉ cho
thuốc độc vào một số lọ Tylenol đã bày bán ở những siêu thị này, ban lãnh đạo J&J đã
cương quyết tiến hành thu hồi để kiểm định toàn bộ 31 triệu lọ thuốc Tylenol đã phân
phối không chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới, vì theo J&J, không có gì bảo đảm là thủ
phạm chỉ bỏ thuốc độc vào các lọ Tylenol lúc đã bày bán, mà không bỏ vào trong lúc
sản xuất hoặc trước khi được phân phối. Toàn bộ chi phí để thực hiện quyết định trên
là 100 triệu USD. Tuy nhiên, sự thể hiện trách nhiệm xã hội cao của công ty Johnson
& Johnson cộng thêm chiến dịch PR đúng
đắn đã giúp Tylenol giành lại vị trí trên thương trường chỉ trong vòng 6 tháng. Nhưng
trong cuộc diều tra của chúng tôi, chỉ có 42 người , chiếm 42%, chọn phương án “Thu
hồi ngay toàn bộ lô hàng đó, chấp nhận thua thiệt về kinh tế”, 50 người, chiếm 50%
chọn phương án là “Thông báo tại nơi bán, và để người tiêu dùng tự quyết định”,
thậm chí có 8 người, chiếm 8%, chọn phương án ”Không làm gì cả, vì không phải lỗi
tại công ty của mình”!
Câu hỏi thứ hai là: ”Cho biết quan điểm của bạn, khi một công ty XK sang thị
trường EU nước tương có tỷ lệ chất 3 - MPCD nằm trong phạm vi cho phép của Luật
Việt Nam,nhưng lại vượt gấp nhiều lần tỷ lệ cho phép của EU?” cũng dựa trên một sự
kiện có thật là năm 2002, nước tương của Chinsu, một công ty khá có tiếng ở Việt
Nam, đã bị Cơ quan kiểm nghiệm chất lượng thực phẩm của Bỉ phát hiện có chứa
chất 3 - MCPD - một chất độc hóa học có thể gây bệnh ung thư ở động vật và con
người - ở mức 86 mg/ kg, trong khi đó, tiêu chuẩn của EU chỉ cho phép ở mức 0.05

mg/ kg, tức là gấp gần 200 lần. Nhưng công ty Chinsu tuyên bố không chịu trách
nhiệm vì họ không XK nước tương sang Bỉ. Sản phẩm đó
có thể được một công ty nào khác tái xuất sang hoặc là hàng nhái. Hơn nữa, tuy hàm
lượng 3 - MCPD trong nước tương của họ cao hơn mức quy định của EU nhưng lại
nằm trong phạm vi cho phép của Việt Nam! Sự kiện này lần đầu tiên đã cảnh báo các
cơ quan chức năng và người tiêu dùng Việt Nam về tác hại của chất 3 - MCPD trong
nước tương, một sản phẩm vốn được coi làa an toàn vì sản xuất từ đậu tương, là sản
phẩm tự nhiên. Đây chính là yếu tố châm ngòi cho scandal năm 2007 về việc 90%
doanh nghiệp sản xuất nước tương ở Việt Nam bị cơ quan chức năng tuyên bố vi
phạm VSATTP, do hàm lượng chất 3 - MCPD
vượt quá mức cho phép, gây điêu đứng cho ngành công nghiệp này. Kể từ đó, toàn thể
các doanh nghiệp sản xuất nước tương đều được yêu cầu phải dán nhãn: “Không có 3
- MCPD”lên sản phẩm của mình.
Có lẽ do vụ việc này đã quá nổi tiếng nên quan điểm của người được hỏi trong
cuộcđiều tra này đã rõ ràng hơn. 33% số người được hỏi cho đó là “Vi phạm luật
- 18 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

pháp”, 25% cho là “Vi phạm đạo đức kinh doanh” và 42% cho là vi phạm cả hai!
Không ai coi doanh nghiệp là không vi phạm. Nhưng kết quả này vẫn cho thấy sự mơ
hồ trong phân định giữa luật pháp và đạo đức kinh doanh, vì ở đây đúng ra là doanh
nghiệp đã vi phạm cả hai, do khi XK hàng hóa vào nước nào phải tuân thủ quy định
của nước đó.
Câu hỏi về trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường cũng dựa trên thực tế
là có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam đã lợi dụng những yếu kém
trong quy định về bảo vệ môi trường của Việt Nam để sử dụng những công nghệ sản

xuất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và dân cư,
nhằm tiết kiệm chi phí. Các ví dụ cho vấn đề này rất phổ biến ở Việt Nam như: các
nhà máy dệt không có thiết bị làm sạch không khí, gây bệnh phổi cho công nhân và
cư dân xung quanh, nhà máy da giầy sử dụng xả nước thải gây ô nhiễm nguồn nước,
các công ty xây dựng không che chắn công trình gây ô nhiễm cho khu vực, không có
thiết bị bảo hộ cho người lao động dẫn đến tỷ lệ tai
nạn lao động cao….Trong trường hợp này, doanh nghiệp tuy không vi phạm luật pháp
nhưng rõ ràng đã cố tình vi phạm đạo đức kinh doanh, vì họ hoàn toàn ý thức được
tác hại của hành vi này. Nhưng quan điểm của người được hỏi ở đây lại khá bao dung
và ôn hòa! Trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty
nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để lợi dụng sự lỏng lẻo trong những quy
định về môi trường của Việt Nam?“, chỉ có 75% cho là “Không thể chấp nhận được,
họ đã vi phạm đạo đức kinh doanh”, còn 25% lạicho là “Bình thường thôi, kinh doanh
cần biết tận dụng cơ hội”. Kết quả này cho thấy thực tế
là vấn đề môi trường còn ít được quan tâm ở Việt Nam và người Việt Nam còn quá lệ
thuộc vào luật pháp khi đánh giá về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Vấn đề sở hữu trí tuệ (Intellectual property) ở Việt Nam
Đây là vấn đề nóng, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các nước đang
pháttriển khác. Tình trạng vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân.
Trước hết,cho đến đầu thế kỷ XX Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, những
thành tựu về các sản phẩm cần bảo hộ như kiểu dáng công nghiệp, phát minh,… hầu
như chưa có, nên không có các quy định về bảo hộ SHTT. Hơn nữa, là nước có nền
văn hóa trọng tập thể, người Việt Nam không có truyền thống bảo hộ sở hữu cá nhân.
Trong thời phong kiến và cả thời kỳ trước hội nhập ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu,
văn nghệ sĩ, đều sống bằng lương chứ luật pháp không quy định chế độ bản quyền tác
giả, thù lao cho tác giả rất ít ỏi vì quan niệm là phải phục vụ tập thể. Vấn đề này chỉ
được thật sự đặt ra sau năm 1991, khi Việt Nam thamgia vào tiến trình hội nhập và
nhất là sau năm 1997, khi Việt Nam ký Hiệp định TRIPS. Nhưng với thời gian quá
ngắn ngủi, chỉ hơn 10 năm so với lịch sử bảo hộ hàng trăm năm của các nước Âu Mỹ, ý thức về bảo hộ quyền SHTT của người dân Việt Nam còn rất sơ sài. Một lý do
nữa cho việc vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam là nguyên nhân kinh tế. Khi thu

- 19 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

nhập của người dân còn quá thấp, trong khi giá cả các sản phẩm có bản quyền lại quá
cao và rất phổ biến thì khó có thể hy vọng SHTT sẽ được tôn trọng. Một ví dụ về vấn
đề này là về việc xuất bản cuốn sách về cậu bé phù thủy Harry Potter của J.K.
Rowling, một tác phẩm văn học thiếu nhi rất được ưa chuộng ở Việt Nam. Tháng 8
năm 2007, cùng với thiếu
nhi trên toàn thế giới, trẻ em Việt Nam rất hồi hộp chờ mong tập 7 và cũng là tập cuối
cùng trong Bộ sách này: Harry Potter and the Deathly Hallows, nhưng lúc đó chỉ có
bản tiếng Anh. Cùng với phong trào học tiếng Anh, việc đọc sách bằng nguyên bản
ngày càng phổ biến hơn. Hơn nữa, nếu muốn đọc bản dịch các em sẽ phải chờ chừng
6 tháng nữa. Nhưng các bậc cha mẹ ở Việt Nam lại bị đặt trước một tình thế nan giải
nếu họ muốn bảo vệ bản quyền. Giá bìa của quyển sách này là 38 USD, trong khi thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2007 chỉ ở mức trên 600 USD và giá
sách lậu chỉ có khoảng 7 USD.
Một cách vi phạm SHTT khá phổ biên ở Việt Nam là việc công ty cố tình đặt
tên cho nhãn hiệu hàng hóa của mình tương tự một nhãn hiệu nổi tiếng đã có trước để
trốn tránh luật rpháp và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Ví dụ cho tình trạng này
quá nhiều, như Hongda và Honda, La Vierge và La Vie, … Kết quả điều tra về vấn đề
này đã khẳng định cho nhận định trên về SHTT ở Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi:
“Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty cố tình đặt tên nhãn hiệu hàng hóa
của mình gần giống với một nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng ?", chỉ có 16 người cho là
“Vi phạm luật pháp“, 37 người cho là: ”Vi phạm đạo
đức kinh doanh“, và 47 người cho là: “Không vi phạm gì cả vì không hoàn toàn
giống“. Đáng chú ý là trong số 47 người không cho là vi phạm, có 8 người sinh viên,

là nhóm người ít nhiều có được học về vấn đề này, chứng tỏ SHTT còn là vấn đề nan
giải ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.4. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động
Thời gian qua, đình công đang là một vấn đề nóng ở Việt Nam. Theo thống kê, từ
năm 1995 đến nay tại Việt Nam đã xảy ra hơn 1.000 cuộc đình công lớn nhỏ. Chỉ tính
riêng trong quý 1/2007 đã xảy ra 103 cuộc đình công tại 14/64 tỉnh, thành phố với
hơn 62.700 lượt công nhân lao động tham gia. Nhiều nhất là tại Đồng Nai với 35
cuộc, tiếp đến là Bình Dương 22 cuộc, Tp.HCM 26 cuộc... trong đó 98/103 cuộc đình
công là do lý do kinh tế. Các nguyên nhân chính dẫn đến đình công bao gồm:
- Người lao động không hài lòng với điều kiện làm việc, môi trường ô nhiễm,
công cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không có kiểm tra sức
khỏe định kỳ cho nhân công và tình trạng tai nạn nghề nghiệp khá phổ biến.
- Để thu hút đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư Việt Nam đưa ra mức lương tối
thiểu rất thấp (chỉ có 35USD/tháng trong Luật ĐTNN 1997) nên mặc dù không làm
trái luật pháp nhưng mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với

- 20 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

mặt bằng giá cả. Vì thế, người lao động không hài lòng và không trung thành với
doanh nghiệp.
- Xuất thân từ nông dân, hầu hết người lao động thiếu kiến thức về Luật Lao
động và thiếu kỹ năng làm việc trong môi trường công nghiệp nên nanwg suất lao
động thấp và có những phản ứng trái pháp luật khi có xung đột.
Điều đáng ngạc nhiên là tình trạng này xảy ra không chỉ ở các doanh nghiệp tư
nhân trong nước, được coi là ít vốn và không am hiểu luật pháp, mà còn rất phổ biến

ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Đài Loan và Hàn Quốc.
Theo Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong 10
năm qua đã có 878 cuộc đình công xảy ra tại các doanh nghiệp FDI, chiếm 70,7%
tổng số cuộc đình công ở Việt Nam.
Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là sáng ngày 25 tháng 7 năm 2007, ở khu
chế xuất Linh Trung I (quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh), một cuộc biểu tình
của 1300 công nhân đã diễn ra tại công ty Danu Vina (công ty 100% vốn Hàn Quốc)
vì chính sách lương bổng bất hợp lý của công ty này. Từ tháng 7 năm 2007, công ty
tăng lương thêm 50.000 đồng (khoảng 3 USD) cho công nhân làm từ 1 đến 5 năm và
70000 đồng (gần 4 USD) cho công nhân làm từ 5 đến 7 năm. Tuy nhiên, việc tăng
lương chỉ áp dụng cho những công nhân ký hợp đồng từ tháng 7 trở về trước của các
năm, còn những người ký hợp đồng từ tháng 8 trở đi thì không giải quyết. Ngoài ra,
công ty trả tiền chuyên cần ở mức 25.000 đồng/tháng là quá thấp, bữa ăn giữa ca
trị giá 4.000 đồng không bảo đảm chất lượng; công ty không có nhà để xe, không có
chỗ để giày dép dẫn đến xe hư, mất dép; phòng vệ sinh thiếu nước... ảnh hưởng đến
sức khỏe và sự an toàn của người lao động.
Kết quả của một cuộc điều tra của Viện Công nhân và Công đoàn năm 2007,
được tiến hành ở các địa phương tập trung nhiều công ty vốn đầu tư nước ngoài như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hải Dương, cho thấy công nhân tại 45% các công ty
FDI than phiền về lương thấp, tại 16% công ty, công nhân phải làm thêm giờ quá
nhiều (có doanh nghiệp làm thêm đến 500 - 600 giờ/năm). Hầu hết các công nhân ở
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhận mức lương chỉ khoảng từ 800.000 VND
(50USD) đến 1.000.000 VND (62 USD) một tháng. Như vậy, chỉ có 30% công nhân ở
công ty FDI có thể trang trải được chi phí cuộc sống. Để nâng cao thu nhập hàng
tháng cho chi tiêu hàng ngày, 42,5% công nhân phải làm
thêm giờ, đặc biệt là những người làm trong ngành may mặc và thuộc da 8. Ở trong
nhiều xí nghiệp may mặc, tỷ lệ nữ công nhân làm việc thêm giờ lên tới 55%, nhiều
người làm 16h một ngày đến khi ngất xỉu, nhưng cũng chỉ được nghỉ hôm đó, hôm
sau phải đi làm tiếp nếu không muốn bị đuổi việc! 9. Đây là một hành vi không thể tha

thứ được!
Trong vòng ba năm kể từ 2007 trờ về trước, hơn 20% công nhân ở các công
ty FDI không được tăng lương, mặc dù theo luật pháp, cứ ba năm công nhân phải
được tăng lương một lần. Kể cả khi được tăng, mức tăng cũng ít hơn quy định. Rất
nhiều xí nghiệp cũng không thực hiện những điều ghi trong hợp đồng với công nhân
- 21 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

và các hợp đồng lao động tập thể, như mức tăng lương, giờ làm việc và các trợ cấp xã
hội, bao gồm nghỉ phép định kỳ, đau ốm, tình trạng mang thai và đền bù cho tai nạn
lao động. Cho đến nay, chỉ 50% công ty FDI ký hợp đồng lao động tập thể để đảm
bảo lợi ích cho người lao động, điều dẫn đến bất
đồng giữa người lao động và chủ.
Để giải quyết tình trạng này, Viện đã tổ chức một cuộc thanh tra gắt gao và
đưa ra những hình phạt cứng rắn cho những công ty vi phạm luật lao động, bao gồm
cả thiếu cung cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm thân thể. Viện cũng đề nghị Nhà nước
sửa đổi Luật Lao động và các luật có liên quan để xây dựng khung pháp lý cho đình
công, bảo vệ được quyền lợi của cả người lao động lẫn chủ xí nghiệp 10. Đây là một
vấn đề cần được sớm giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và nâng cao
tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư ở Việt Nam, nhằm thu thút các nhà đầu tư nước
ngoài.
Có lẽ do vấn đề quan hệ chủ - thợ đã được đề cập nhiều trên các phương tiện
thông tin đại chúng, nên trong cuộc điều tra của chúng tôi, kết quả trả lời khá khả
quan. Luật pháp Việt Nam quy định chủ doanh nghiệp không có quyền từ chối nhận
lao động nữ với lý do đang nuôi con nhỏ, lao động nữ có con nhỏ dưới 3 tuổi được
quyền đi làm muộn 1h và không bị buộc phải làm thêm giờ. Nhưng trên thực tế, quy

định này chỉ được tuân thủ tại các cơ quan nhà nước và ít được để ý tại các doanh
nghiệp tư nhân hay FDI. Khi được yêu cầu phát biểu quan điểm về việc “Một doanh
nghiệp từ chối tiếp nhận lao động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi
lao động nữ đang nuôi con dưới 3 tuổi”, 25% số người được hỏi cho là vi phạm luật
pháp, 66,67% cho là vi phạm đạo đức kinh doanh và chỉ có 5 người (chiếm 8.33%)
cho là không vi phạm, vì mọi người lao động có nghĩa vụ làm việc như nhau. Như
vậy, chúng ta có thể cho là mặc dù còn những hạn chế về nhận thức nhưng đại đa số
người tham gia điều tra đã có ý thức tương đối rõ ràng về vấn đề này!
1.5. Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà
đầu tư
(The moral rights and duties between a company and its shareholders)
Đây là vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam do thị trường chứng khoán Việt
Nam còn rất non trẻ (chưa đầy 10 tuổi) nên những quy định về tính trung thực trong
báo cáo tài chính, công khai thông tin với các nhà đầu tư của doanh nghiệp,… vẫn còn
chưa chặt chẽ. Vì vậy, thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra
những thông tin chưa chính xác để trục lợi, gây lao đao cho nhiều nhà đầu tư.
Vụ việc nghiêm trọng đầu tiên là việc Joint stock Bien Hoa Confectionery
Company (Bibica) gian dối trong việc khai báo kết quả kinh doanh năm 2002 và 6
tháng đầu năm 2003. Bibica là một trong 21 công ty đăng ký lên sàn đầu tiên ở Việt
Nam và là công ty niêm yết đầu tiên trong ngành bánh kẹo. Vì vậy, các nhà đầu tư
trông đợi rất nhiều vào lợi nhuận của công ty sau khi niêm yết. Để nâng cao năng lực
cạnh tranh trên thị trường, thời gian này công ty đã đồng loạt triển khai các dự án đầu
- 22 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

tư mới nhằm mở rộng sản xuất – kinh doanh, đầu tư phát triển các sản phẩm mới

(bánh trung thu, Layer Cake, chocolate), xây dựng Nhà máy Bánh kẹo Biên Hòa 2…
nên số nợ ngân hàng gia tăng. Thêm vào đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng nhanh, tình
hình nhân sự trong bộ phận Tài chinh - Kế toán có nhiều biến động đã làm gia tăng
thêm các khó khăn cho công ty. Trước tình hình đó, công ty cần thu hút thêm các nhà
đầu tư để gia tăng vốn nên đã đưa ra một báo cáo tài chính không chính xác. Khi vụ
việc vỡ lở, các cổ đông được biết năm 2002, Công ty đã lỗ 10,086 tỷ đồng (tương
đương 7.500.000 USD), gần gấp đôi con số lỗ 5,4 tỷ đồng mà công ty từng công bố.
Hậu quả là giá cổ phiếu Bibica sụt thê thảm, gây thiệt hại lớn cho các cổ đông. Cùng
thời điểm đó, Bibica phải đối mặt với hình phạt vì vi phạm luật quản lý chứng khoán
của Ủy ban chứng khoán nhà nước (SCCI) và rơi vào tình trạng gần như phá sản.
Nhưng do lợi nhuận trên thị trường chứng khoán quá lớn, nên những vụ việc tương tự
vẫn tiếp diễn. Thiên Việt là một công ty chứng khóan mới thành lập đầu năm 2007,
nhưng đã được các nhà đầu tư hết sức quan tâm vì Nguyễn Trung Hà, Chủ tịch của
Thiên Việt là Phó TGĐ của một công ty hàng đầu Việt Nam và trong giấy tờ đăng ký
kinh doanh,
Phạm Kinh Luân, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tài chính, được nêu tên với
tư cách là Tổng Giám đốc của Thiên Việt. Vì vậy mặc dù chưa niêm yết nhưng cổ
phiếu của Thiên Việt đã được các nhà đầu tư săn lùng. Đặc biệt, từ khi Ban Giám đốc
Thiên Việt đưa ra thông tin là họ đã ký hợp đồng liên doanh với Goldman Sachs, một
tập đòan tài chính hàng đầu của Mỹ, thậm chí Thiên Việt còn đưa ra bản thỏa thuận
hợp tác với chữ ký của Chủ tịch Goldman Sachs và Thiên Việt với các phương tiện
thông tin đại chúng, thế nên giá cổ phiếu của Thiên Việt tăng rất nhanh, gấp nhiều lần
so với giá niêm yết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau các phương tiện thông tin đại chúng
đã cung cấp thông tin rằng Goldman Sachs từ chối hợp tác với Thiên Việt:
“Edward Naylor, Giám đốc bộ phận truyền thông của Goldman Sachs ở châu
Á, trong email gửi cơ quan thông tấn Việt Nam, đã nhấn mạnh rằng Goldman
Sachs không liên kết với công ty chứng khóan Thiên Việt.”
“Gần đây chúng tôi đã có một cuộc gặp mặt không chính thức mang tính chất
thăm dò như chúng tôi đã thực hiện với các công ty chứng khoán khác,” bức thư viết.
“Cho đến nay, đại diện của Thiên Việt và Goldman Sachs mới chỉ gặp mặt trong các

buổi gặp “thăm dò” như Goldman Sachs với các công ty chứng khoán khác ở Việt
Nam”.

Khi được hỏi về bản thỏa thuận hợp tác với chữ ký của cả hai bên mà
Thiên Việt đã đưa ra cho các phương tiện thông tin đại chúng, ông Naylor nói
rằng Goldman Sachs đôi khi ký những thỏa thuận tương tự với những công ty
chứng khoán tư nhân khi tập đoàn đang tìm kiếm các cơ hội kinh doanh ở Việt
Nam, để Goldman Sachs có thể thâm nhập được vào thị trường Việt Nam. Thỏa
thuận đó không thể được coi là bằng chứng về một sự liên kết của 2 công ty”.
Thêm vào đó, ông Phạm Kinh Luân cũng cho biết ông chưa hề ký HĐ làm
việc cho Thiên Việt. Vì vậy, Thiên Việt đã bị phạt nặng bởi Trung tâm giao dịch
- 23 -


Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

chứng khóan thành phố Hồ Chí Minh (HSTC) và Ủy ban chứng khoán nhà nước vì
đưa ra thông tin không rõ ràng và không ngay thẳng. Người thiệt hại nhiều nhất ở đây
chính là các nhà đầu tư, những người đã bị thu hút bởi những thông tin sai lệch mà
Ban Giám đốc công ty Thiên Việt đưa ra.
Nhưng những vụ việc như vậy vẫn có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào vì luật
pháp cũng như ý thức của các nhà kinh doanh Việt Nam về vấn đề này còn chưa đầy
đủ. Trong kinh doanh việc gặp khó khăn hay rủi ro là khá thường xuyên. Khi gặp tình
huống này, những công ty uy tín trên thế giới thường chọn cách thông báo rộng rãi
cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn.
Mặc dù tiềm ẩn nhiểu rủi ro nhưng cách này giúp công ty giữ được lòng tin của các
nhà đầu tư, và thoát khỏi nguy cơ bị bỏ rơi khi thông tin bại lộ. Nhưng trong cuộc
điều tra của chúng tôi, để trả lời câu hỏi : “Khi một dây chuyền sản xuất trong công ty

bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị suy giảm, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra
ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị mất giá nghiêm
trọng, thì công ty nên làm gì?”, chỉ có 42% số người được hỏi chọn cách thông báo
rộng rãi cho các nhà đầu tư, 50% chọn cách “Kìm giữ thông tin một thời gian để tìm
cách sửa chữa dây chuyền sản xuất” và 8% chọn cách “Không thông báo gi cả cho
đến khi bắt buộc!” Mặc dù kết quả này là khá khả quan,vì đến 92% số người được hỏi
không có ý định che giấu thông tin, ít ra là trong một thời gian nhưng đây cũng là một
thiếu sót trong nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam.
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
2.1. Đánh giá về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Do điều kiện thời gian và thông tin nên chắc chắn bài viết này chưa thể trình bày
được hết các khía cạnh về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua những ví
dụ thực tế và kết quả điều tra nêu trên, bước đầu chúng ta cũng có thể đưa ra một số
nhận xét sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam:
Hiểu biết của nhà kinh doanh cũng như người dân Việt Nam nói chung về đạo
đức kinh doanh còn rất hạn chế, hầu hết đều gắn khái niệm đạo đức kinh doanh với
tuân thủ pháp luật trong kinh doanh. Cách hiểu này đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp
dụng đạo đứckinh doanh, hơn nữa tại một quốc gia mà hệ thống phát luật chưa đầy đủ
và chặt chẽ như Việt Nam thì cách hiểu này càng làm ý thức về đạo đức kinh doanh
khó phát huy tác dụng.
Ý thức của người dân về những phạm trù như: Trách nhiệm của doanh nghiệp
với xã hội, Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, Nghĩa vụ và trách
nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư còn khá mơ hồ, lệ thuộc
vào luật pháp chứ chưa ý thức được trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng
và xã hội. Một tỷ lệ cao những người được hỏi tỏ ra bị động, chỉ chịu thực thi trách
nhiệm khi bị bắt buộc chứ chưa chủ động hành động vì lợi ích xã hội.
Điểm yếu kém nhất trong nhận thức của người Việt Nam thể hiện qua cuộc
điều tra này chính là ý thức về môi trường và về vấn đề sở hữu trí tuệ. Điều này cũng
- 24 -



Nhóm 1
_Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

trùng hợp với những kết quả điều tra của LHQ và những nguồn thông tin khác. Về lâu
dài đây là vấn đề cần được lưu ý giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho
Việt Nam.
Tuy nhiên, cuộc điều tra cũng cho thấy một số tín hiệu đáng mừng về tương
lai của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Trước hết, 100% số người được hỏi đã từng
được nghe về đạo đức kinh doanh. Mặc dù khái niệm đạo đức được truyền đạt còn mơ
hồ nhưng chỉ riêng việc người dân có quan tâm nhều hơn tới vấn đề này cũng đã là
một tín hiệu đáng mừng. Một khía cạnh đáng mừng nữa là kết quả trả lời của khối
sinh viên, dù phần lớn là sinh viên năm thứ nhất, tức là chưa được đào tạo nhiều về
kiến thức chuyên môn, nhưng đã chính xác hơn nhiều so vơi khối doanh nghiệp. Hầu
hết sinh viên thường xuyên nghe nói về đạo đức kinh doanh (17/20 người được hỏi),
cao hơn hẳn so với tỷ lệ chung (85% so với 67%). Tỷ lệ
sinh viên cho đạo đức kinh doanh là “bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng” cũng cao
hơn nhiều so với tỷ lệ chung (35% so với 8%). Trong tình huống 3, để trả lời câu hỏi
về phản ứng của doanh nghiệp với việc hàng của công ty bị kẻ xấu đánh tráo, không
sinh viên nào đồng ý với phương án “Không thông báo gì cả vì không phải là lỗi của
doanh nghiệp”, so với 8% tỷ lệ chung. Trong tình huống 6, khi trả lời câu hỏi về việc
một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để trốn tránh sự lỏng lẻo trong
những quy định về môi trường của Việt Nam, không sinh viên nào đồng ý với phương
án “Doanh nghiệp được phép tận dụng cơ hội” so với 25% tỷ lệ chung. Nhưng trong
tình huống số 7 về sự kiện “một dây chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến
sản lượng sản xuất bị sút giảm nghiêm trọng, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài,
cổ phiếu của công ty sẽ bị sút giảm nghiêm trọng“, mặc dù có tới 65% sinh viên cho
là doanh nghiệp cần “Thông báo rộng rãi cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của
họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn” so với 42% tỷ lệ chung, nhưng lại có tới 3

sinh viên (chiếm 15% so với so với tỷ lệ chung là 8%) cho là nên “Không thông báo
gi cả cho đến khi bắt buộc”. Kết quả này có thể bắt nguồn từ việc thị trường chứng
khoán còn quá mới mẻ ở Việt Nam, các em lại là sinh viên những năm đầu nên những
hiểu biết về trách nhiệm của doanh nghiệp với thị trường này chưa nhiều. Tương tự
như vậy, trong câu số 8 về quan điểm trước việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận
lao
động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con
dưới 3 tuổi”, cũng có tới 40% sinh viên cho đó là vi phạm luật pháp so với 24% tỷ lệ
chung, nhưng vẫn còn 15% so với 8% tỷ lệ chung cho là “Không vi phạm vì mọi
người lao động phải có nghĩa vụ làm việc như nhau!” Đây có lẽ là kết quả của việc
thiếu hiểu biết về luật lao động và thói quen áp dụng máy móc những nguyên tắc về
bình đẳng giới, vốn được tuyên truyền rất phổ biến ở Việt Nam. Mặc dù kết quả điều
tra về hai khía cạnh này chưa cao, nhưng nhìn chung, nhận thức của khối sinh viên về
đạo đức kinh doanh rõ ràng cao hơn và thể hiện một tinh thần trách nhiệm tốt hơn so
với kết quả điều tra chung.

- 25 -


×