Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Phát triển nguồn tài nguyên thông tin số cho hệ thống các cơ quan TTTV ngành Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.51 KB, 103 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, Công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông đã chiếm
một vị trí quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Sự phát triển nhanh chóng của
CNTT và truyền thông đã tác động mạnh mẽ đến ngành Thông tin – Thư viện
(TTTV). Xu hướng phát triển của các cộng đồng thư viện trên thế giới hiện nay là tiến
đến số hóa và kết nối để thu hẹp diện tích và khoảng cách địa lý.
Sự phát triển của CNTT không chỉ làm thay đổi nhanh chóng toàn bộ thế giới
mà đồng thời còn tạo ra nhiều thách thức và cơ hội. Đặc biệt với ngành TTTV, ngành
có sự kết hợp lĩnh vực quản trị tri thức với những ứng dụng CNTT và truyền thông.
Ngành đang phải đương đầu với các thách thức do cuộc cách mạng công nghệ này
đem lại để tồn tại và đáp ứng được những nhu cầu tin đa dạng, phức tạp của cộng
đồng người dùng tin. Đây là quy luật của tự nhiên. Việc tăng nhanh cả về số lượng,
chất lượng, loại hình, phương thức khai thác của thông tin – tri thức đã tạo ra một sức
ép đáng kể cho các cơ quan TTTV phải tự biến đổi, hoàn thiện mình để quản trị
nguồn thông tin tri thức đó.
Nhằm giải quyết bài toán quản trị tri thức, các mô hình thư viện hiện đại đã ra
đời và xu thế xây dựng, phát triển các Thư viện số, các bộ sưu tập tài nguyên thông
tin số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TTTV trên thế giới.
Sự tác động của công nghệ web, CNTT chính là những yếu tố quan trọng hướng tới
việc xây dựng thư viện số, phát triển các bộ sưu tập, nguồn tài nguyên thông tin số và
đó là một sự thỏa mãn nhu cầu chưa từng có về lưu trữ, tổ chức, và truy cập thông tin.
Sự xuất hiện của các bộ sưu tập tài nguyên số, thư viện số không chỉ tạo ra một cơ hội
mới cho sự phát triển thư viện, mà còn đặt ra những yêu cầu cao hơn trong việc cải tổ
những thư viện truyền thống. Tài nguyên số chính là một trong những nền tảng quan
trọng tạo nên sức mạnh trí tuệ quốc gia.
Cùng với sự tác động mạnh mẽ của CNTT, ngành TTTV Việt Nam đang bước


những bước đầu tiên trên con đường hiện đại hóa. Xã hội thông tin càng phát triển
càng đặt ra nhiều thách thức không nhỏ cho ngành. Nhận thức được tầm quan trọng
của các công nghệ ngày nay tới hoạt động TTTV, và cũng là sự hội nhập với cộng

Bùi Thị Ánh Tuyết

1


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

đồng thư viện trên thế giới, các cơ quan TTTV Việt Nam luôn tự đổi mới chính mình,
nâng cao chất lượng dịch vụ TTTV để bắt kịp thời đại.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền định
hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hệ thống pháp Luật. Vì vậy, trong quá trình
phát triển hiện tại, các cơ quan TTTV ngành Luật (sau đây gọi tắt là thư viện ngành
Luật) đóng vai trò quan trọng trong việc lưu giữ, phổ biến và cung cấp các nguồn
thông tin pháp Luật phục vụ công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp, đặc biệt là công
tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của các trường đào tạo Luật hướng tới các đối
tượng người dùng tin.
Tuy nhiên sự đáp ứng thông tin của các thư viện ngành Luật vẫn còn hạn chế
so với nhu cầu của người dùng tin. Thực tế tại một số thư viện ngành Luật ở Hà Nội
cho thấy mặc dù sự đáp ứng thông tin còn hạn chế so với nhu cầu người dùng, nhưng
mỗi thư viện đều có những thế mạnh, những khả năng có thể liên kết chia sẻ, phát
triển nguồn lực thông tin. Hiển nhiên rằng không thể có một cơ quan TTTV nào có đủ
khả năng đáp ứng mọi nhu cầu thông tin của người dùng tin. Bởi lẽ nhu cầu thông tin
đang ngày càng biến đổi, phát triển nhanh chóng, vừa bao quát, vừa chuyên sâu trong
nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cán bộ, học tập của sinh viên, nghiên cứu của các

chuyên gia....
Giải pháp đặt ra cho các thư viện ngành Luật là tiến hành trao đổi chia sẻ
nguồn lực thông tin, xây dựng, phát triển các bộ sưu tập tài nguyên thông tin số, các
thư viện số. Xây dựng, phát triển bộ sưu tập tài nguyên thông tin số sẽ trở thành một
phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động của các cơ quan. Bộ sưu tập tài nguyên thông
tin số là cầu nối cho sự trao đổi giữa các chuyên gia, thủ thư và bạn đọc, là công cụ
khám phá, tìm kiếm, truy xuất thông tin và là mô hình hiện đại nhằm cung cấp những
dịch vụ thông tin chuyên biệt ở mức độ cao. Phát triển nguồn tài nguyên thông tin số
không chỉ tạo ra một cơ hội mới cho sự phát triển thư viện, mà còn đặt ra những yêu
cầu cao hơn trong việc cải tổ những thư viện truyền thống.
Chính vì vậy, các thư viện ngành Luật cần phát triển tài nguyên số và công
nghệ khai thác. Thực tế cũng cho thấy các thư viện ngành Luật đã xây dựng được
phần nào bộ sưu tập số, nguồn tài nguyên số của mình. Trên cơ sở đó, cần phải phát
triển nguồn tài nguyên số của các cơ quan, đẩy mạnh sự phát triển của thư viện, đó là
sự hội nhập cũng như tiến bước cùng thời đại. Xuất phát từ yêu cầu thực tế và nhận
Bùi Thị Ánh Tuyết

2


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

thức của bản thân về sự phát triển của sưu tập số, tác giả đã lựa chọn đề tài “Phát triển
tài nguyên thông tin số cho các cơ quan TTTV ngành Luật ở Hà Nội” làm Khóa luận
của mình với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đẩy
mạnh hoạt động phát triển nguồn tài nguyên thông tin số, tăng cường sự hợp tác và
phát triển giữa các thư viện ngành Luật trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề xây dựng và phát triển sưu tập số, nguồn tài
nguyên thông tin số, tìm hiểu tình hình thực tiễn hoạt động xây dựng phát triển nguồn
tài nguyên thông tin số của các thư viện ngành Luật trên địa bàn Hà Nội, khóa luận
đưa ra những nhận xét và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động xây dựng, phát triển
nguồn tài nguyên thông tin số của các cơ quan hướng tới sự tiết kiệm, đồng bộ, hiệu
quả trong hoạt động, hợp tác.
Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
-

Tìm hiểu các vấn đề lý luận về sưu tập số, tài nguyên thông tin số

-

Làm rõ vai trò của bộ sưu tập tài nguyên thông tin số đối với các cơ quan
TTTV nói chung và ngành Luật nói riêng

-

Tìm hiểu tình hình hoạt động, hiện trạng, khả năng phát triển nguồn tài
nguyên thông tin số của các thư viện ngành Luật.

-

Trình bày các nhân tố ảnh hưởng tác động tới hoạt động xây dựng phát
triển nguồn tài nguyên thông tin số

3. Tình hình nghiên cứu
Trên cở sở tham khảo và tìm hiểu các tài liệu liên quan đến sưu tập số, nguồn
tài nguyên thông tin số, xây dựng, phát triển sưu tập số, nguồn tài nguyên thông tin
số, hoạt động của thư viện ngành Luật…tác giả nhận thấy:

Đã có khá nhiều tài liệu, bài viết nghiên cứu của các chuyên gia TTTV về
vấn đề lý luận của sưu tập số, thông tin số. Sự phát triển của tài nguyên số hiện nay.
Đó là những bài viết đi sâu về các vấn đề nhỏ trong cả quy trình của vấn đề xây dựng
và phát triển sưu tập số, nguồn tài nguyên thông tin số: Những vấn đề cơ bản về Siêu
dữ liệu của Th.s Cao Minh Kiểm; Hướng dẫn thực hành xây dựng bộ sưu tập thư viện
số bằng phần mềm nguồn mở Greenstone của Nguyễn Minh Hiệp…
Bùi Thị Ánh Tuyết

3


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Bên cạnh đó là các bài giảng ngành TTTV đề cập đến các vấn đề của thông
tin số, sưu tập số, thư viện số hay thư viện điện tử như: Nghiên cứu thư viện số trên
thế giới và định hướng nghiên cứu thư viện số ở Việt Nam; thư viện điện tử của Th.s
Nguyễn Thị Thúy Hạnh…
Nắm bắt theo xu thế phát triển của nguồn tài nguyên thông tin số như hiện
nay, cũng đã có nhiều khóa luận của sinh viên tiến hành nghiên cứu tìm hiểu các vấn
đề lý luận và thực tiễn về tài nguyên thông tin số ở Việt Nam: “Tìm hiểu vấn đề xây
dựng và phát triển sưu tập số” của sinh viên Lê Công Năng K49 chính quy, “công tác
số hóa tài liệu tại thư viện Quốc gia Việt Nam” của sinh viên Lại Cao Bằng K52
chính quy, “khảo sát một số phần mềm tiêu biểu được sử dụng để xây dựng bộ sưu
tập số trong các cơ quan TTTV Việt Nam” của sinh viên Đồng Thị Thanh Thoan K49
chính quy, “Tìm hiểu về việc phát triển và chia sẻ tài nguyên số tại trung tâm TTTV
Đại học Quốc gia Hà Nội và thư viện Quốc gia Việt Nam” của sinh viên Mai Thị
Hương K52 chính quy, “Thư viện số với các giải pháp quản trị quyền thông tin số”
của sinh viên Vũ Thị Thanh Mai K46 tại chức…

Đối với các thư viện ngành Luật, đã có một số tài liệu, báo cáo khoa học
tìm hiểu về nguồn lực thông tin, tình hình hoạt động tại các thư viện Luật, các bài báo
đề cập tới vấn đề chia sẻ nguồn lực thông tin nói chung, các vấn đề nhằm đẩy mạnh
sự phát triển của các thư viện ngành Luật. Gần đây nhất, là tháng 10 năm 2010, tại
Trung tâm TTTV Đại học Luật Hà Nội có tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Thư
viện Luật Việt Nam, hợp tác và phát triển”. Tháng 04 năm 2011 tác giả cũng đã thực
hiện một đề tài khoa học: “Nghiên cứu chia sẻ nguồn lực thông tin pháp Luật cho hệ
thống các cơ quan TTTV ngành Luật ở Hà Nội.” Trong hội thảo về thư viện Luật Việt
Nam, các bài viết nghiên cứu về tình hình hoạt động của các thư viện Luật cụ thể và
trong đề tài khoa học của tác giả thực hiện, đều nêu ra việc cần phải tiến hành đẩy
mạnh hoạt động hiệu quả, tiết kiệm, cũng như trao đổi tương tác giữa các cơ quan
TTTV đem lại kết quả tốt nhất đối với người dùng tin trên cơ sở xây dựng các thư
viện hiện đại, nguồn tin điện tử, nguồn tài nguyên thông tin số làm giải pháp cho các
vấn đề này… Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn
tài nguyên thông tin số cho hệ thống các thư viện ngành Luật. Với thực tiễn nghiên
cứu của ngành, cũng như thực tiễn vai trò của vấn đề, khóa luận “Phát triển nguồn tài
nguyên thông tin số cho hệ thống các cơ quan TTTV ngành Luật” được triển khai.
Đây là vấn đề mới, và chưa có tác giả nào thực hiện
Bùi Thị Ánh Tuyết

4


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lý thuyết chung về vấn đề phát triển nguồn tài nguyên
thông tin số; Thực trạng xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên thông tin số tại các

thư viện ngành Luật; Các vấn đề liên quan đến xây dựng và phát triển nguồn tài
nguyên thông tin số.
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát thực tiễn hoạt động, hiện trạng xây dựng phát triển
nguồn tài nguyên thông tin số tại một số thư viện ngành Luật trên địa bàn Hà Nội. Cụ
thể là:
Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội
Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng
Quốc hội
Thư viện Học viện Tư pháp
Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin.
Nắm vững tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước về công tác sách
báo và thư viện.
- Phương pháp cụ thể:
Thu thập tài liệu, đọc và phân tích tài liệu
Quan sát điều tra thực tế
Điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp phỏng vấn, trao đổi, mạn đàm

6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
Bùi Thị Ánh Tuyết

5


Khóa luận tốt nghiệp


K53 Thông tin – Thư viện

-Đóng góp về lý luận: Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần hoàn thiện lý
luận cơ bản về phát triển tài nguyên thông tin số nói riêng và phát triển vốn tài liệu
nói chung.
-Đóng góp về thực tiễn:
Khóa luận nêu bật được thực trạng phát triển nguồn tài nguyên thông tin số của
một số thư viện ngành Luật trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận
xét, kiến nghị nhằm đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên thông tin
số cho các cơ quan này.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì bố
cục chính của khóa luận được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ
quan thông tin – thư viện ngành Luật ở Hà Nội
Chương 2: Thực trạng công tác phát triển tài nguyên thông tin số của các cơ
quan thông tin – thư viện ngành Luật ở Hà Nội
Chương 3: Nhận xét và giải pháp phát triển tài nguyên thông tin số cho các cơ
quan thông tin – thư viện ngành Luật ở Hà Nội

PHẦN NỘI DUNG
Bùi Thị Ánh Tuyết

6


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện
CHƯƠNG 1


LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN THÔNG TIN SỐ
CHO CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN-THƯ VIỆN NGÀNH LUẬT Ở HÀ NỘI
1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời nó cũng xem sự
phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trả qua nhưng bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng
để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình
độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có
của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
1.1.2 Khái niệm tài nguyên
Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, khái niệm tài
nguyên được mở rộng ra trên nhiều lĩnh vực hoạt động của con người.
Hiểu theo nghĩa rộng, tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nhiên
liệu – năng lượng, thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà
con người có thể sử dụng cho mục đích tồn tại và phát triển của mình.
Trên cơ sở sưu tầm, có thể đưa ra một số định nghĩa tài nguyên như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt:
• Tài nguyên là nguồn của cải có sẵn trong tự nhiên chưa khai thác hoặc
đang được tiến hành khai thác.
• Mọi đối tượng của xử lý thông tin như bộ nhớ, tệp dữ liệu, công trình
máy tính… cần cho việc thực hiện một mục tiêu nào đó.
Hay hiểu hơn giản hơn: “ Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, phi vật chất và
tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới cho
con người”
Bùi Thị Ánh Tuyết


7


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Như vậy, dựa trên các quan niệm, có thể nói tài nguyên là đối tượng sản xuất
của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng
mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng.
1.1.3 Khái niệm thông tin số
Thế kỷ XXI được đánh dấu bằng sự ra đời của nền kinh tế mới, được gắn bằng
nhiều thuật ngữ: kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế mạng…Trong nền kinh tế này,
xuất hiện một loại nguồn lực quan trọng là tài nguyên thông tin số. Đây là nguồn lực
có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành thư viện trên thế giới nói chung và
của Việt Nam nói riêng. Cũng như bất kỳ nguồn lực nào trong xã hội, vấn đề cần thiết
phải xác lập được phương thức quản lý và chiến lược phát triển thích hợp.
Theo Luật công nghệ thông tin, khái niệm thông tin số được trình bày như sau:
“Thông tin số là thông tin được tạo lập từ các thiết bị kỹ thuật số, được lưu trữ dưới
dạng các tín hiệu số, được xử lý, chuyển tải (trao đổi) giữa các thiết bị kỹ thuật số
thông qua môi trường mạng hoặc môi trường khác”.
Với cách hiểu như vậy, thông tin số được coi là thông tin đại chúng, được tạo
ra bởi con người hay sự vật, hiện tượng, được chuyển đổi thành dạng tín hiệu số, lưu
trữ trong các thiết bị máy móc.
Thông tin số mang những đặc trưng vốn có của các nguồn tài nguyên truyền
thống, bên cạnh đó còn mang những đặc điểm ưu việt:
Do sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ tạo và lưu trữ
dữ liệu trên các vật mang tin từ tính, quang học, mật độ ghi thông tin trên các vật
mang tin này rất cao nên dung lượng lưu trữ lớn, mật độ thông tin lớn.

Thông tin số đem lại khả năng đa truy cập, cho phép người dùng có thể tra tìm
tài liệu đồng thời theo nhiều dấu hiệu khác nhau, cùng với đó là khả năng liên hệ, tiếp
cận với tác giả, tạo ra một kênh phản hồi thông tin giữa người dùng tin và người sáng
tạo ra thông tin.
Sự tồn tại dưới nhiều dạng của thông tin số làm cho thông tin số trở nên hấp
dẫn hơn, dễ hiểu hơn, dề truyền đạt hơn, và hơn hết là khả năng truy cập từ xa trong
mọi điều kiện về không gian, thời gian. CNTT truyền thông đã thực hiện được việc
truyền thông tin dạng số từ các vị trí ở xa.
Bùi Thị Ánh Tuyết

8


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Tiếp cận mọi nơi, mọi lúc là điều không tưởng với các thư viện truyền thống,
các nguồn tin lưu trữ dưới dạng truyền thống. Thông tin số ra đời đáp ứng được yêu
cầu này, nó trở thành kênh thông tin đem lại những lợi ích quan trọng cho người sử
dụng trong kỷ nguyên công nghệ điện toán:
Thông tin dạng số có thể gửi nhiều bản cùng một lúc qua mạng thông tin trong
một phần nhỏ của một phút, thậm chí chỉ một giây. Người sử dụng không cần phải
đến thư viện để sử dụng các máy tính được nối mạng. Họ có thể truy cập thông tin
qua máy tính của mình.
Thông tin dạng số có thể cắt và dán từ tài liệu này sang tài liệu khác.
Thông tin dạng số được miễn phí hoặc rẻ hơn so với tài liệu in.
Thông tin dạng số thường thay đổi vai trò của cán bộ thư viện ở nhiều phương
diện.
Sự phát triển nhanh chóng và đổi mới hàng ngày, thậm chí hàng giờ mang lại

sự ưu việt cho nguồn thông tin số…Cũng qua đó nâng cao năng lực khai thác thông
tin của người dùng tin
Tuy nhiên, thông tin số cũng có những hạn chế trong quá trình sử dụng, đó là
tính đảm bảo an toàn thông tin. Sự phát triển của CNTT là tiền đề nhưng cũng đem lại
những thách thức cho các vấn đề không mong muốn. Đó là việc dễ sao chụp thông
tin, dễ bị làm sai lệch thông tin, các hệ quả của CNTT tác động tới sự phát triển của
thông tin số…
Với các đặc trưng như vậy, thông tin số có ý nghĩa rất lớn đến việc xây dựng,
phát triển những thư viện hiện đại và bền vững.
1.1.4 Khái niệm phát triển tài nguyên thông tin số
Phát triển tài nguyên thông tin số là công tác làm tăng thêm nguồn lực thông tin số
của mỗi cơ quan, đơn vị. Là những hoạt động nhằm gia tăng số lượng cũng như chất lượng
tài liệu số.
Trên cơ sở nhu cầu người dùng tin, cũng như vai trò quan trọng của thông tin số mang lại,
phát triển tài nguyên số là một hoạt động tất yếu, có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển thư
viện hiện đại và bền vững. Quá trình phát triển tài nguyên số cũng được vận động từ thấp
đến cao, chất lượng, số lượng tài nguyên số sẽ ngày càng được tăng cường.
Bùi Thị Ánh Tuyết

9


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Tạo lập và phát triển tài nguyên thông tin số của riêng mỗi cơ quan là vấn đề
lớn nhất trong xây dựng thư viện điện tử, thư viện số. Công việc này đòi hỏi phải đầu
tư lớn và liên tục. Để làm tốt công việc này, các cơ quan xây dựng thư viện điện tử,
thư viện số cần có cách tiếp cận hợp lý, khả thi và kinh tế.

1.1.5 Khái niệm sưu tập số
Một sưu tập số không chỉ là một tập hợp các đối tượng số thông thường mà
còn phải là một tập hợp các tài liệu hay đối tượng số được lựa chọn và tổ chức cùng
với các siêu dữ liệu mô tả và có ít nhất một giao diện để cho người sử dụng truy cập.
Hoặc sưu tập số là tập hợp các dữ liệu trực tuyến (online) và dữ liệu điện tử
trên vật mang tin vật lý như CD-ROM, vi phim, audio, video… về một chủ đề. Mặc
dù mỗi loại hình tài liệu có sự khác nhau về cách thể hiện, nhưng nó đều cung cấp
một giao diện đồng nhất mà qua đó các tài liệu có thể truy cập dễ dàng.
Chúng là tập hợp các thông tin được số hóa dưới những dạng thức nhất định để
máy móc có thể đọc được và người dùng tin có thể truy cập thông tin một cách dễ
dàng với những thiết bị tương thích. Nói cách khác sưu tập số là tập hợp các đối
tượng số, mỗi đối tượng số được cấu thành bởi hai thành phần không thể thiếu là nội
dung số và siêu dữ liệu.
Ví dụ: bộ sưu tập số về chủ tịch Hồ Chí Minh gồm các văn bản, các tác phẩm
văn học, các văn kiện chính trị do Bác viết và do người khác viết về Bác; Những bài
hát, bản nhạc viết về Hồ chí Minh; những đoạn phim, những băng video phản ánh
cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người.
Một bộ sưu tập số như vậy trước khi trình bày phải qua một quá trình hình
thành để tạo nên những cấu trúc hỗ trợ cho việc truy tìm và lướt tìm được dùng cho
việc truy cập sưu tập.
Khi xây dựng xong, bộ sưu tập có thể được xuất bản trên Internet hoặc xuất ra
CD-ROM một cách hoàn toàn tự động.
Một khi sưu tầm thêm tài liệu mới, ta có thể dễ dàng bổ sung thêm vào bộ sưu
tâp bằng cách tái xây dựng. Một thư viện nói chung bao gồm nhiều bộ sưu tập khác
nhau, mỗi sưu tập tổ chức mỗi khác, tuy nhiên hoàn toàn giống nhau về phương cách
hiển thị. Những bộ sưu tập như thế có thể được tạo nên bằng một Phần mềm nguồn
Bùi Thị Ánh Tuyết

10



Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

mở đa ngôn ngữ thư viện số Greenstone (Greenstone digital library multilingual open
source software).
Các chuyên gia TTTV đã phân loại sưu tập số như sau:


Theo cấp độ lưu trữ:

Sưu tập lưu trữ: Là sưu tập những đối tượng số có mục đích lưu trữ lâu dài tại
thư viện.
Sưu tập máy chủ: Là các tài liệu số lưu trong máy chủ nhưng không đảm bảo
được lưu giữ lâu dài.
Sưu tập gương: Là các loại tài liệu số lưu trữ ở một nơi khác, thư viện chỉ giữ
bản sao và không có ý định lưu giữ lâu dài.
Sưu tập liên kết: Là sưu tập những tài liệu số được lưu giữ bên ngoài thư viện.
Thư viện chỉ tạo ra đường dẫn đến tài liệu đó mà không lưu giữ được trong máy chủ


Sưu tập theo loại hình tài liệu

Sưu tập văn bản
Sưu tập đa phương tiện như âm thanh, hình ảnh, video…
Sưu tập web


Sưu tập theo nguồn gốc số hóa:


Sưu tập tài liệu số hóa (Digitnized Object)
Sưu tập tài liệu gốc (Digital Born Object)
1.1.6 Khái niệm siêu dữ liệu
Thuật ngữ "Siêu dữ liệu" (tiếng Anh "METADATA"), có thể được định nghĩa
đơn giản là dữ liệu về dữ liệu. Theo tiến sỹ Warwick Cathro, "siêu dữ liệu là những
thành phần mô tả tài nguyên thông tin hoặc hỗ trợ thông tin truy cập đến tài nguyên
thông tin". Trong tài liệu, siêu dữ liệu được xác định là "dữ liệu mô tả các thuộc tính
của đối tượng thông tin và trao cho các thuộc tính này ý nghĩa, khung cảnh và tổ
chức. Siêu dữ liệu còn có thể được định nghĩa là dữ liệu có cấu trúc về dữ liệu". Gail
Hodge định nghĩa siêu dữ liệu là "thông tin có cấu trúc mà nó mô tả, giải thích, định
vị, hoặc làm cho nguồn tin trở nên dễ tìm kiếm, sử dụng và quản lý hơn. Siêu dữ liệu
Bùi Thị Ánh Tuyết

11


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

được hiểu là dữ liệu về dữ liệu hoặc thông tin về thông tin". Nói tóm lại, siêu dữ liệu
là thông tin mô tả tài nguyên thông tin.
Mục đích đầu tiên và cốt yếu nhất của siêu dữ liệu là góp phần mô tả và tìm lại
các tài liệu điện tử trên mạng Internet. Sự phát triển mạnh mẽ của Internet đã tạo ra sự
bùng nổ của các loại dữ liệu đa dạng ở dạng số, văn bản, hình ảnh, âm thanh, hình ảnh
động, tài liệu đa phương tiện. Những tài liệu số này có thể truy cập được trên Internet
song việc tìm kiếm chúng một cách hiệu quả và khoa học như với các hệ thống thông
tin trực tuyến là hết sức khó khăn. Để góp phần tăng cường chất lượng tìm kiếm các
tài liệu số trên mạng Internet, người ta đã đưa ra giải pháp sử dụng siêu dữ liệu.

Bên cạnh đó là sự hỗ trợ người dùng tin đánh giá thông tin mà không phải truy
cập trực tiếp đến thông tin; giúp kiểm tra sự tồn tại của đối tượng thông tin, mô tả về
ngôn ngữ, vị trí của thông tin…
Thực ra trong hoạt động TTTV truyền thống, từ lâu đã có những khái niệm liên
quan đến siêu dữ liệu. Các bản mô tả thư mục chứa các dữ liệu mô tả đối tượng (như
cho sách, cho tạp chí), do đó, chúng có thể được xem như một dạng siêu dữ liệu. Với
việc tự động hoá công tác biên mục, phiếu thư mục được thay thế bằng biểu ghi thư
mục. Như vậy, thành phần "siêu dữ liệu" còn có thể được trình bày trong biểu ghi, vì
vậy, biểu ghi này được coi là biểu ghi siêu dữ liệu (metadata record) của các đối
tượng được Cơ sở dữ liệu (CSDL) quản lý. Với tài liệu truyền thống trên giấy, thông
tin mô tả được bố trí nằm ngoài đối tượng mà nó mô tả (ví dụ, trên phiếu thư mục của
mục lục thư viện, trong biểu ghi của CSDL). Nhờ những yếu tố mô tả như vậy, người
ta có thể xác định và tìm kiếm lại được tài liệu một các chính xác theo một vài yếu tố.
Trong thư viện điện tử hiện nay hay trong môi trường mạng, siêu dữ liệu ngày
càng trở nên quan trọng bởi nó giữ vai trò chủ đạo không chỉ cung cấp cho người
dùng tin những mô tả tài liệu mà họ tìm kiếm mà còn thông tin sử dụng phần mềm để
xác định vị trí thông tin phù hợp, để thỏa thuận điều khoản cung cấp tài liệu, yêu cầu
và tiếp nhận tài liệu.
Và nguồn tài liệu điện tử hiện nay phân tán trên mạng nhiều đến mức không
thể xử lý hết được bằng cách thủ công như đã và đang áp dụng với tài liệu xuất bản
trên giấy. Để xử lý được hết tài liệu điện tử phân tán, người ta phải áp dụng các
phương pháp tự động - sử dụng các chương trình đặc biệt (được gọi theo nhiều cách
khác nhau như robots, crawlers, spiders,...). Do tài liệu số (điện tử) được tạo ra, thông
Bùi Thị Ánh Tuyết

12


Khóa luận tốt nghiệp


K53 Thông tin – Thư viện

thường không tuân thủ những quy định xuất bản truyền thống, không có những quy
tắc nhất định giúp cho phép nhận dạng tự động được các yếu tố mô tả thông thường
như tác giả, địa chỉ xuất bản, thông tin về khối lượng,.... nên cần thiết phải có những
quy định thống nhất để các chương trình tự động nhận dạng và xử lý chúng đúng theo
các yêu cầu nghiệp vụ.
Những quy định như vậy được gọi là các quy định về siêu dữ liệu. Có thể thấy
hiện nay, do nhiều chương trình máy tính chỉ định chỉ số dựa vào một số thành phần
hạn chế như nhan đề hoặc toàn văn nên không hỗ trợ những tìm kiếm đặc thù (thí dụ
theo tác giả, theo chủ đề, theo lĩnh vực,....). Vì thế, để tạo điều kiện cho các chương
trình có thể định chỉ số tự động theo một số yếu tố xác định, người ta cần thiết phải
đưa thêm vào tài liệu điện tử những thuộc tính bổ sung để tăng cường việc mô tả tài
nguyên thông tin. Các công cụ định chỉ số tự động sẽ được lập trình để nhận dạng các
thuộc tính này và định chỉ số chúng, từ đó hỗ trợ tìm kiếm theo những thuộc tính đặc
thù.
Trong thư viện truyền thống, siêu dữ liệu chủ yếu là dạng mô tả hình thức và
nội dung của tài liệu có trong kho thư viện, trong thư viện điện tử, siêu dữ liệu đã phát
triển ở mức độ cao hơn với khái niệm rộng hơn. Nó đã phát triển thành 5 loại siêu dữ
liệu:

Siêu dữ liệu hành chính (Administraive): Được dùng để quản lý và quản
trị các tài nguyên thông tin. Ví dụ: Thông tin bổ sung; bản quyền và thông tin tái bản;
tài liệu về yêu cầu truy cập hợp pháp; thông tin định vị; các tiêu chí số hóa; kiểm soát
phiên bản và những khác biệt giữa các đối tượng thông tin tương đồng; thông tin kiểm
trá của hệ thống quản lý.

Siêu dữ liệu mô tả (Descriptive): Được dùng để mô tả hay nhận diện các
tài nguyên thông tin. Ví dụ: các biểu ghi thư mục; các hỗ trợ tìm kiếm; định chỉ số
chuyên biệt; siêu dữ liệu liên kết giữa các tài nguyên; chú giải của người sử dụng


Siêu dữ liệu bảo quản (Preservation): Các thông tin liên quan đến quản
lý việc bảo quản các tài nguyên thông tin. Ví dụ: Các tài liệu về tình trạng, điều kiện
vật lý của tài nguyên thông tin; các tài liệu về công tác bảo quản và các phiên bản
thông tin dưới dạng vật lý và số.

Bùi Thị Ánh Tuyết

13


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện


Siêu dữ liệu sử dụng (Use): Các thông tin liên quan đến mức độ và loại
hình sử dụng tài nguyên thông tin. Ví dụ: Các biểu ghi trình bày; các thông tin về
người sử dụng và việc sử dụng; thông tin về tái sử dụng nội dung và các phiên bản đa
phương tiện.

Siêu dữ liệu kỹ thuật (Technical): Các thông tin liên quan đến cách thức
hoạt động của hệ thống cũng như siêu dữ liệu. Ví dụ: thông tin phản hổi về phần cứng
và phần mềm; thông tin số hóa; thông tin về thời gian phản hồi của hệ thống; dữ liệu
về tính xác thực.
Hiện nay, có nhiều trao đổi thông tin mang tính chất metadata khá thông dụng
đang được áp dụng như: MARC21/UNIMARC, Dublin Core Metadata... các dữ liệu
metadata này thường được gắn vào phần đầu cho mỗi tài liệu điện tử được đưa vào
máy chủ hoặc trên mạng internet nhằm hỗ trợ các công cụ tìm kiếm lọc ra các thông
tin metadata để tổ chức thành các kho dữ liệu mà không cần dùng đến hệ quản trị cơ

sở dữ liệu truyền thống. Thực tế thì ngay bản thân ngôn ngữ XML tự nó đã hỗ trợ
việc hình thành một cơ sở dữ liệu toàn văn, phi cấu trúc và rất thuận lợi cho việc tìm
kiếm, trao đổi và lưu trữ thông tin
1.2 Vai trò của tài nguyên thông tin số trong hoạt động thông tin – thư viện
1.2.1 Vai trò của tài nguyên thông tin số nói chung
Xây dựng phát triển tài nguyên thông tin số là một trong những mục tiêu quan
trọng của tất cả các loại hình thư viện trên thế giới, nhằm hướng đến mục tiêu phục vụ
thông tin cho người dùng ở mọi lúc, mọi nơi, không phân định không gian, thời gian.
Đưa ra sự định hướng này, là dựa trên vài trò quan trọng của nguồn tài nguyên số
trong hoạt động các cơ quan TTTV.
Hiện nay, mọi thứ đều được số hóa, được chuyển thành dạng tài nguyên số.
Khi sách bắt đầu được số hóa, một câu hỏi được đặt ra: “Liệu chúng ta nên chấm dứt
việc xuất bản sách in và thay vào đó là số hóa sách để đọc trên máy?”. Các nhà nghiên
cứu cho rằng vào thời điểm hiện nay, nên duy trì cả hai cách trên. Thật vậy, dù có rất
nhiều người hài lòng với việc đọc sách ở dạng PDF trên trang web, mỗi năm, số
lượng sách in được xuất bản vẫn ngày một tăng. Tuy nhiên, tiện ích của sách điện tử
là điều không thể phủ nhận. Ngoài việc có thể đọc và lưu trữ tài liệu trên máy, số hóa
sách mang lại nhiều lợi ích rất lớn.
Bùi Thị Ánh Tuyết

14


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Trong thư viện truyền thống, mỗi quyển sách là một bản hoàn chỉnh và độc
lập; giờ đây, tất cả tài liệu sẽ được liên kết với nhau trong thư viện số trên cơ sở
nguồn tài nguyên số của các cơ quan TTTV. Bên cạnh việc dùng “link” (đường dẫn

liên kết) để liên kết câu, từ hoặc các quyển sách với nhau, người đọc có thể sử dụng
“tag” (gắn thẻ) để chú thích chung cho tất cả mọi người về một dữ liệu, tranh ảnh hay
bài hát nào đó nhằm thuận tiện cho việc tìm kiếm khi cần. Ví dụ, chúng ta chỉ cần
nhấp chuột vào “link” về các chủ đề liên quan hoặc chú thích ở cuối trang để tìm kiếm
những điều cần biết thêm. Chính việc số hóa sách đã cho phép thực hiện điều này mà
sách truyền thống không bao giờ đạt được. Sách được số hóa đồng nghĩa với việc nó
có thể được chia nhỏ thành từng trang, từng đoạn nhỏ, sau đó được sắp xếp lại tạo
thành một quyển sách mới hoặc chứa trong một “giá sách ảo” – nơi tập hợp những
đoạn văn ngắn hoặc cả nội dung của một quyển sách hoàn chỉnh.
Hiện nay trên thế giới, xu thế phát triển Thư viện số, xây dựng nguồn tài
nguyên thông tin số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TTTV.
Nguồn tài nguyên thông tin số trong các thư viện hiện đại sẽ đáp ứng mọi nhu cầu
thông tin của người sử dụng một cách dễ dàng và nhanh chóng. Vì thế trong thời đại
bùng nổ thông tin ngày nay, tài nguyên số đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển của
các cơ quan TTTV.
Kho tài nguyên thông tin số trong các thư viện số sẽ bao gồm tất cả các loại tài
liệu điện tử và các loại ấn phẩm; tạo ra một môi trường và cơ hội bình đẳng rộng mở
cho tất cả mọi người đều có cơ hội sử dụng nguồn tài liệu học tập bởi các tài nguyên
số của thư viện số tồn tại ngoài những giới hạn về vật lý và quản lý của một thư viện
truyền thống.
Tính linh hoạt và khả năng đáp ứng của tài nguyên số trong nghiên cứu, đào
tạo, thể hiện ở chỗ một bản tài liệu số có thể cùng lúc phục vụ cho nhiều đối tượng
khác nhau, không phụ thuộc vào số lượng người dùng, thời gian và vị trí địa lý của
người dùng tin.
Tính hiệu quả của nguồn tài nguyên số là tiết kiệm thời gian và kinh phí. Các
cơ quan TTTV sẽ đỡ tốn kinh phí xây dựng kho tàng, kinh phí bổ sung tài liệu, bảo
quản và kinh phí trả lương cho người phục vụ. Ngoài ra với sự gia tăng nhanh chóng
về số lượng, và giá cả tài liệu như hiện nay thì nguồn tài nguyên số là giải pháp hữu
hiệu cho hoạt động chia sẻ tài liệu giữa các cơ quan TTTV. Trên tất cả là giúp cho
Bùi Thị Ánh Tuyết


15


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

người dùng tin được dễ dàng, thuận tiện, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc trong việc
tìm kiếm khai thác thông tin.
Nguồn tài nguyên thông tin số là sự lựa chọn tối ưu để bảo tồn được tài liệu lâu
dài, các tài liệu quý hiếm, ngắn chặn những rủi ro hủy hoại do thời gian, thiên tai, khí
hậu và tần suất sử dụng.
Có thể thấy rằng, nguồn tài nguyên thông tin số với những ưu điểm của mình
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các cơ quan TTTV, đẩy mạnh sự hoạt
động của các cơ quan. Nguồn tài nguyên số sẽ là nguồn tài nguyên chủ đạo trong
chiến lược xây dựng phát triển của các cơ quan TTTV hiện nay. Xây dựng nguồn tài
nguyên số chính là một xu thế tất yếu vì mục đích sao lưu, bảo quản tài liệu, mở rộng
đối tượng phục vụ và chia sẻ tài nguyên, tận dụng tối đa và có hiệu quả hệ thống cơ sở
vật chất và trang thiết bị hiện đại.
1.2.2

Vai trò nguồn tài nguyên thông tin số đối với ngành Luật nói riêng

Hiện nay, số lượng tài liệu trong các cơ quan TTTV đều gia tăng một cách
nhanh chóng, phong phú về cả số lượng và chất lượng, với số tài liệu ngày càng nhiều
thì các cơ quan TTTV đều nghĩ ra cách lưu giữ, bảo quản, phục vụ nguồn tài liệu một
cách hiệu quả nhất là vấn đề quan trọng. Đối với ngành Luật nói riêng, vấn đề này cần
phải đặt ra một cách cấp bách.
Sự phát triển của các thư viện ngành Luật hiện nay đóng vai trò quan trọng vào

sự đáp ứng nhu cầu các đối tượng người dùng tin. Không chỉ là các đối tượng người
dùng chuyên ngành Luật mà còn là đông đảo đối tượng người dùng tin các tầng lớp.
Điều này là hiển nhiên khi mà Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vai trò
của thư viện ngành Luật đã được khẳng định.
Tại một số thư viện ngành Luật ở Hà Nội, nguồn lực thông tin pháp luật tồn tại
song song ở hai dạng điện tử và truyền thống, tuy nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu
của người dùng tin. Mỗi thư viện ngành Luật lại có những thế mạnh, những khả năng
riêng có thể liên kết chia sẻ nguồn lực thông tin, hỗ trợ cho nhau cùng hoạt động, phát
triển. Để làm được điều này, tài nguyên số giữ vai trò chủ đạo.

Bùi Thị Ánh Tuyết

16


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Chỉ có xây dựng phát triển tài nguyên số, thì các thư viện ngành Luật mới có
thể tận dụng khai thác chính những lợi ích, vai trò mà nguồn thông tin số mang lại.
Đó là tính linh hoạt, hiệu quả hay khả năng chia sẻ… của tài nguyên số.
Tài nguyên thông tin số có vai trò quan trọng trong hoạt động TTTV nói chung
và ngành Luật nói riêng. Những lợi ích của nó tác động tới ngành TTTV, cũng chính
là tác động tới ngành Luật. Trên thực tế sự phát triển của các thư viện ngành Luật
hiện nay, thì xây dựng phát triển tài nguyên số là hoạt động cấp bách cần thực hiện.
Khi mà nhu cầu thông tin đang ngày càng biến đổi, phát triển nhanh chóng, vừa bao
quát, vừa chuyên sâu trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cán bộ, học tập của
sinh viên, nghiên cứu của các chuyên gia....khi mà dạng thông tin truyền thống không

mang lại nhiều lợi ích tối ưu như thông tin số, khi mà các thư viện ngành Luật cần
phải tiến hành chia sẻ nguồn lực thông tin…thì xây dựng bộ sưu tập số, tài nguyên số
sẽ là câu trả lời cho tất cả các vấn đề đó.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cùng với xu thế hội nhập là
những đòi hỏi và thách thức cho ngành TTTV nói chung và cho thư viện ngành Luật
nói riêng cần phải có những đổi mới hoạt động, bắt kịp những tiến bộ của thời đại
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với vai trò
của nguồn thông tin số, thiết nghĩ xây dựng phát triển thông tin số sẽ là việc làm cần
thiết, một động thái tích cực để đổi mới phương pháp phục vụ nhằm góp phần nâng
cao chất lượng hiệu quả phục vụ người dùng tin.
1.3 Khái quát về một số cơ quan thông tin – thư viện ngành Luật ở Hà Nội
1.3.1 Lịch sử ra đời và phát triển
• Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội
Trung tâm TTTV Trường Đại học Luật Hà Nội có quá trình hình thành và
phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nhà trường. Thư viện trở thành đơn vị độc
lập trực thuộc Ban Giám hiệu theo quyết định số: 49 ngày 21 tháng 1 năm 1988 của
Hiệu trưởng và hoạt động theo Quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện trường
đại học (Quyết định số 688/ĐH ngày 14/7/1986 của Bộ ĐH-THCN). Ngày
24/12/2009, hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội đã ban hành Quyết định số
2233/QĐ-TCCB thành lập Trung tâm TTTV trên cơ sở Thư viện Trường Đại học
Luật Hà Nội.
Bùi Thị Ánh Tuyết

17


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện


Là một thư viện chuyên ngành Luật, trung tâm có chức năng thông tin và thư
viện, phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, tư vấn pháp luật và quản lý của
Nhà trường.
Trung tâm tổ chức thu thập khai thác và sử dụng các nguồn tài liệu chuyên
ngành luật và các chuyên ngành khác nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin
phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu của các đối tượng bạn đọc góp phần nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội.
Với chức năng như vậy Trung tâm đề ra những nhiệm vụ cụ thể:
+Tham mưu giúp Hiệu trưởng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển TTTV
dài hạn và ngắn hạn; Tổ chức và điều phối toàn bộ hệ thống thông tin, tư liệu thư viện
trong Nhà trường;
+Bổ sung, phát triển nguồn lực thông tin trong nước và nước ngoài đáp ứng
nhu cầu giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và tư vấn pháp luật; thu nhận lưu
chiểu các tài liệu do trường xuất bản: các công trình nghiên cứu khoa học đã được
nghiệm thu, tài liệu hội nghị, hội thảo, khoá luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ,
chương trình đào tạo, giáo trình, tập bài giảng và các dạng tài liệu khác của nhà
trường; các ấn phẩm tài trợ, biếu tặng, tài liệu trao đổi giữa các thư viện;
+Tổ chức xử lý, sắp xếp, lưu trữ, bảo quản, quản lý tài liệu và thông tin; xây
dựng hệ thống tra cứu thông tin hiện đại, thiết lập mạng lưới truy cập và tìm kiếm
thông tin tự động hóa; xây dựng, quản lý các cơ sở dữ liệu, các bộ sưu tập; biên soạn,
xuất bản các ấn phẩm thông tin theo quy định của pháp luật;
+Tổ chức phục vụ, hướng dẫn cho bạn đọc khai thác, tiếp cận, sử dụng hiệu
quả các nguồn thông tin, tài liệu có trong thư viện và các sản phẩm, dịch vụ thông tin
của Trung tâm.
+Nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, các tiêu chuẩn
về xử lý thông tin và các ứng dụng của công nghệ thông tin vào công tác TTTV;
+Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,
ngoại ngữ, tin học cho viên chức của Trung tâm để phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng nhằm nâng cao hiệu quả công tác;


Bùi Thị Ánh Tuyết

18


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

+Tổ chức, quản lý cán bộ, tài sản theo sự phân cấp của Hiệu trưởng; bảo quản,
kiểm kê định kỳ vốn tài liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật và các tài sản khác của thư viện;
tiến hành thanh lý các tài liệu lạc hậu, hư nát theo quy định của cơ quan quản lý nhà
nước và của trường;
+Mở rộng hợp tác với các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế về lĩnh vực
TTTV, tham gia các hoạt động về nghiệp vụ với hệ thống thư viện trong cả nước
nhằm thúc đẩy sự nghiệp thư viện Việt Nam phát triển, liên kết hợp tác với các thư
viện luật trong và ngoài nước để phối hợp bổ sung và trao đổi tài liệu, chia sẻ nguồn
lực thông tin, dữ liệu biên mục, tổ chức dịch vụ mượn liên thư viện, dịch vụ cung cấp
thông tin qua mạng;
+Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị khác trong trường để hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao
+Thực hiện báo cáo định kỳ tháng, quý, năm và báo cáo đột xuất về tình hình
hoạt động của Trung tâm TTTV với Ban giám hiệu và cấp có thẩm quyền.
Hiện nay Trung tâm TTTV trường Đại học Luật Hà Nội đã xác định rõ vai trò
của mình trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày
càng cao của các đối tượng người dùng tin trong nhà trường.
• Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn
phòng Quốc hội
Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học (TTTTTV&NCKH)
thuộc Văn phòng Quốc hội, chịu sự quản lý của Văn phòng Quốc hội, nên hoạt động

của TTTTTV&NCKH tập trung vào việc phục vụ các cơ quan của Quốc Hội, các đại
biểu Quốc hội, các cơ quan và các vị lãnh đạo Đảng, Chính phủ thông qua việc bảo
đảm thông tin đối với các vấn đề, lĩnh vực có liên quan tới việc lập pháp của Nhà
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, giám
sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ (hoạt động của các Bộ, ngành, địa
phương) trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh đó trung tâm còn bảo đảm thông tin cho các vị đại biểu Quốc hội tại
các kỳ họp Quốc hội.
Triển khai và trực tiếp tham gia, chỉ đạo các hoạt động thông tin phục vụ các
chương trình hoạt động của Quốc hội trên các phạm vi.
Bùi Thị Ánh Tuyết

19


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Thực hiện việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan thông tin, thư viện của
Quốc hội các nước trong khuôn khổ đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt.
Với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể, trung tâm ngày càng thể hiện được vai
trò của mình, phát huy tốt nhất hiệu quả hoạt động, đáp ứng nhu cầu tin, nhu cầu
nghiên cứu, hoạch định chính sách của cán bộ, lãnh đạo một cách cao nhất. Trung tâm
có Thư viện là đơn vị chuyên trách quản lý tổ chức tài liệu, cung cấp cho người dùng
tin là các đại biểu Quốc hội, các cán bộ Trung tâm. Thư viện trực thuộc Trung tâm.
• Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật
Viện Nhà nước và Pháp luật đã trải qua 40 năm xây dựng và phát triển. Bốn
mươi năm - đó là cả một chặng đường dài không ngừng phấn đấu và trưởng thành về
mọi mặt của tập thể cán bộ, viên chức, công chức Viện Nhà nước và Pháp luật.

Nhiệm vụ chủ yếu hiện nay của Viện Nhà nước và Pháp luật là nghiên cứu cơ
bản về hệ thống chính trị, Nhà nước và pháp luật; nghiên cứu những vấn đề lý luận vè
thực tiễn về tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, bộ máy nhà
nước và hệ thống pháp luật; kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực Nhà nước
và pháp luật, thực hiện đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật, tham gia phát
triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam và các cơ quan khác; tổ chức thẩm định và tham gia thẩm định về mặt khoa học
các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các Bộ, ngành, địa phương theo
sự phân công của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, thực hiện các tư vấn khoa học phù
hợp với chức năng và nhiệm vụ của Viện.
Trải qua 40 năm xây dựng và phát triển của Viện Nhà nước và Pháp luật, sự
quan tâm của lãnh đạo Viện, Phòng Thông tin – Tư liệu – Thư viện (nay là Thư viện)
đã được hình thành và phát triển ngay từ những ngày đầu xây dựng Viện. Chức năng
đầu tiên của Thư viện là thu thập tàng trữ và bảo quan tư liệu. Phòng Thông Tin – Tư
liệu – Thư viện có nhiệm vụ sưu tầm, thu thập, bổ sung đầy đủ các tư liệu, sách, báo
chí trong nước và nước ngoài phục vụ đắc lực cho việc nghiên cứu và giảng dạy của
cán bộ trong Viện, nghiên cứu sinh, học viên cao học của Viện, cán bộ của một số Bộ,
trường đại học có liên quan đến ngành luật.
Ngay từ những ngày đầu mới hình thành, Thư viện đã có cán bộ chuyên trách,
quản lý thư viện là cán bộ được đào tạo đúng ngành thư viện, do đó đã xây dựng và
Bùi Thị Ánh Tuyết

20


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

định hướng các hoạt động của thư viện theo đúng chuyên môn. Thư viện của Viện

làm việc có nề nếp, tinh thần thái độ phục tốt, đảm bảo đúng nguyên tắc. Các cán bộ
trong phòng đều là những người gắn bó lâu năm với Viện, đều được đào tạo phù hợp
với công việc, là những người tâm huyết yêu nghề, có cố gắng học hỏi để nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Thư viện Viện đã thu hút được nhiều cán bộ nghiên cứu trong và ngoài Viện,
các chuyên gia cho việc xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu tài liệu của Viện cũng
như việc dịch, lược dịch, lược thuật tài liệu để phục vụ tốt công tác nghiên cứu đào
tạo của Viện.
Cùng với sự phát triển lớn mạnh của Viện, Thư viện đã từng bước xây dựng ,
phát triển nâng cao hiệu quả công tác phục vụ bạn đọc. Nhờ có sự định hướng hoạt
động của Phòng Thông tin – Tư liệu – Thư viện một cách chính xác hiệu quả, phòng
đã xây dựng và phát triển được nhiều loại hình công tác phục vụ bạn đọc: từ việc kịp
thời giới thiệu vốn tư liệu phong phú, phát triển công tác dịch, lược dịch các tư liệu
quý hiếm, việc tổ chức ra các tập thông tin chuyên đề phục vụ các cấp lãnh đạo…đến
việc phát triển công tác thư mục, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
• Thư viện Học viện Tư pháp
Thư viện Học viện Tư pháp là một thư viện chuyên ngành, ra đời và phát triển
cùng quá trình phát triển của Học viện Tư pháp với nhiệm vụ tổ chức và cung cấp các
dịch vụ thông tin tư liệu phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập nghiên cứu khoa học
(NCKH) của hơn 100 cán bộ, giảng viên và toàn bộ học viên của các lớp đào tạo Luật
sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, Công chứng viên…làm việc và học
tập tại Học viện Tư pháp.
Thư viện có quy mô nhỏ và còn nhiều khó khăn nhưng Ban Giám đốc Học
viện nói chung và Lãnh đạo Thư viện nói riêng luôn quan tâm phát triển vốn tài liệu,
làm phong phú nguồn thông tin tri thức để phục vụ bạn đọc ngày càng tốt hơn. Nguồn
tài liệu của Thư viện được bổ sung hàng năm là các đầu báo, đầu sách, tạp chí chuyên
ngành, các công trình khoa học, băng ghi âm, ghi hình, các ấn phẩm luật học trong và
ngoài nước. Đặc biệt, xuất phát từ đặc thù về đối tượng và lĩnh vực đào tạo nghề luật,
được sự quan tâm và phối hợp của các cơ quan Tư pháp trong cả nước, Thư viện Học
viện Tư pháp đã và đang sưu tầm, quản lý nhiều bộ hồ sơ của các vụ án điển hình để

phục vụ cho công tác học tập và nghiên cứu của Học viện. Hồ sơ vụ án chiếm 50% số
Bùi Thị Ánh Tuyết

21


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

lượng các loại hình tài liệu có trong thư viện và cũng là tài liệu được bạn đọc sử dụng
nhiều nhất vì theo nguyên lý đào tạo của Học viện Tư pháp, học viên sẽ học bằng
cách áp dụng lý thuyết vào giải quyết các hồ sơ thực tế. Nhằm mục đích giúp bạn đọc
dễ dàng tiếp cận nguồn tài liệu quý giá này, Thư viện Học viện Tư pháp sẽ từng bước
cập nhật lên Website của Học viện.
Hiện nay, Thư viện đã được trang bị máy tính nối mạng Internet để bạn đọc có
thể tra cứu thông tin, phục vụ cho công việc học tập và nghiên cứu.
Các cán bộ làm việc tại Thư viện không chỉ đơn thuần là quản lý và cho mượn
tài liệu mà họ còn rất nhiệt tình trong việc giới thiệu với bạn đọc những tài liệu liên
quan đến chuyên ngành học, hướng dẫn giúp bạn đọc dễ dàng tra cứu những tài liệu
mà họ cần.
Bằng những việc làm cụ thể và thiết thực đó, Thư viện Học viện Tư pháp phấn
đấu trở thành một thư viện hiện đại với mong muốn được phục vụ bạn đọc ngày càng
tốt hơn
1.3.2 Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ
• Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội
Trung tâm là một đơn vị trực thuộc Ban giám hiệu trong cơ cấu tổ chức của
trường đại học Luật Hà Nội với bộ máy tổ chức gồm Ban giám đốc và các phòng
chuyên môn.
Hiện nay, Trung tâm có tổng số 19 cán bộ viên chức, có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ về TTTV và Luật học trong đó có 03 thạc sỹ TTTV (02 thạc sỹ chuyên
ngành khoa học Thư viện,), 12 cử nhân chuyên ngành Thông tin – Thư viện, 4 cử
nhân chuyên ngành Luật, 2 trung cấp. Ngoài ra, trung tâm còn có 2 cán bộ hợp đồng.
Đội ngũ cán bộ thường xuyên được cử đi đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ ở trong và
ngoài nước để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ.
Đội ngũ cán bộ được tổ chức như sau:
-

Tổ nghiệp vụ : 03 cán bộ

-

Tổ thông tin : 02 cán bộ

-

Tổ phục vụ bạn đọc :13 cán bộ

Bùi Thị Ánh Tuyết

22


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

Ban giám đốc gồm một giám đốc là ThS. Lê Thị Hạnh và một phó giám đốc là
Th.s Phạm Thị Mai.
• Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn

phòng Quốc hội
Hiện trung tâm có số lượng 39 cán bộ viên chức có trình độ chuyên môn về
nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm TTTV, Công nghệ thông tin, Luật…Tất cả cán bộ
của Trung tâm đều có trình độ cử nhân trở lên. Thư viện là một bộ phận trực thuộc
Trung tâm.
Phó giám đốc trung tâm chịu trách nhiệm phụ trách Thư viện. Thư viện hiện có
6 cán bộ. Trong đó có 3 thạc sĩ, 2 cử nhân và 1 cao đẳng.
• Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật
Thư viện hiện có 6 cán bộ viên chức. Trong đó có 1 thạc sĩ và 5 cử nhân. Các
cán bộ tại thư viện có trình độ chuyên môn về TTTV, luật và công nghệ thông tin.
Thư viện được cơ cấu với 1 trưởng phòng phụ trách chung; 2 phó phòng: 1 phó
phòng đảm nhiệm mảng thư viện, 1 phó phòng đảm nhiệm mảng thông tin tư liệu; 1
cán bộ phụ trách công nghệ, hệ thống mạng của thư viện; và 1 thủ thư.
• Thư viện Học viện Tư pháp
Thư viện Học viện Tư pháp hiện chỉ có 3 cán bộ. Cả ba cán bộ đều có trình độ
cử nhân ngành TTTV và ngành Luật.
Thư viện được tổ chức với 1 thư viện viên chính phụ trách chung, 1 cán bộ
quản lý mảng hồ sơ và tạp chí, 1 cán bộ phụ trách về sách giáo trình và sách tham
khảo.
Do đặc điểm quy mô của thư viện nên số lượng cán bộ của thư viện còn hạn
chế.

1.3.3 Đặc điểm cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin
• Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội
Cơ sở vật chất, thiết bị và hạ tầng thông tin được trang bị đồng bộ, hiện đại: Hệ
thống các phòng phục vụ bao gồm: phòng đọc trên 400 chỗ ngồi, phòng mượn sách
Bùi Thị Ánh Tuyết

23



Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

giáo trình và tài liệu tham khảo, phòng tra cứu Internet và đào tạo người dùng tin,
trung tâm dữ liệu tiếng Anh, hệ thống máy tính phục vụ bạn đọc gồm 122 máy được
tính nối mạng Internet, khu vực Trung tâm TTTV được trang bị hệ thống mạng
không dây (Wireless). Hệ thống giá sách, bàn ghế, ánh sáng, điều hoà nhiệt độ, các
thiết bị sao chụp, in ấn tài liệu hiện đại.
Hệ thống máy tính gồm : 122 máy ( phòng đọc 1: 17 máy, khu vực hành
lang tầng 1 : 20 máy, phòng đọc 2 : 71 máy, phòng đào tạo người dùng tin : 24 máy)
Hệ thống máy in , máy photocopy phục vụ việc in ấn và sao chụp tài liệu(
phòng đọc 1: 02 máy, phòng đọc 2 : 2 máy,phòng đào tạo người dùng tin 1 máy)
Với hệ thống cơ sở vật chất như vậy , Trung tâm đã góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ và đáp ứng
nhu cầu của NDT tại Trung tâm.
• Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn
phòng Quốc hội
Trung tâm được trang bị hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng hiện đại. Đó là
hệ thống trang thiết bị phục vụ bạn đọc mới, cùng các trang thiết bị như máy tính,
máy in, máy photo…được trang bị hiện đại, phục vụ người dùng tin. Diện tích phục
vụ bạn đọc cũng được quan tâm chú trọng, mở rộng. Hiện Trung tâm đang xây dựng
thêm một địa điểm đó là ở 37 Hùng Vương. Vì vậy, phòng đọc sẽ được tổ chức ở hai
địa điểm là 37 Hùng Vương và 35 Ngô Quyền. Có phòng xử lý báo tạp chí, phòng
CSDL sách và phòng bổ sung.
Hàng năm, Trung tâm được ban lãnh đạo quan tâm đầu tư kinh phí để bổ sung
tài liệu sách, báo, tạp chí…triển khai các hoạt động của thư viện; mua sắm, nâng cấp
cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết để phục vụ cho công tác thư viện


• Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật
Thư viện của Viện chỉ có 5 máy tính trong đó có một máy tính phòng đọc và 4
máy tính phòng nghiệp vụ. Như vậy nhu cầu tra cứu của bạn đọc chỉ được sử dụng
trên một máy tính, sẽ làm giảm khả năng cũng như thời gian tìm tin của bạn đọc. Hệ
Bùi Thị Ánh Tuyết

24


Khóa luận tốt nghiệp

K53 Thông tin – Thư viện

thống máy in, máy photo phục vụ bạn đọc cũng hạn chế. Tuy nhiên thì những hình
thức phục vụ đó đều là miễn phí đối với bạn đọc.
Diện tích phục vụ bạn đọc cũng hạn chế khi thư viện chỉ có 3 phòng: 1 phòng
đọc, 1 phòng nghiệp vụ, 1 phòng kho.
Với cơ sở vật chất thiếu thốn như vậy, phần nào đã làm giảm đi hiệu quả phục
vụ bạn đọc của thư viện. Đây là một hạn chế đã và đang được các lãnh đạo, cán bộ
của thư viện nghiên cứu và tìm ra giải pháp tốt nhất nhằm mục tiêu cuối cùng phục
vụ, đáp ứng tốt nhu cầu người dùng tin.
• Thư viện Học viện Tư pháp
Tương ứng với nguồn tài liệu và quy mô của Thư viện còn hạn chế, Thư viện
học viện tư pháp có cơ sở vật chất nghèo nàn. Chỉ gồm hai phòng:
Phòng đọc: Chủ yếu là sách tham khảo
Phòng mượn: Chủ yếu là sách giáo trình, hồ sơ tình huống.
Thư viện đang sử dụng phần mềm Vilas.
Hệ thống máy tính: 6 máy với 1 máy chủ và 5 máy con.
Hệ thống trả mượn sách tại thư viện đã được tự động hóa. Do điều kiện còn
hạn chế nên người dùng tin chỉ có thể sử dụng mạng Lan, thư viện chưa có mạng wifi.

1.3.4 Đặc điểm nhu cầu tin của người dùng tin
• Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội
Như đã biết, số lượng người dùng tin tại Trung tâm chủ yếu là sinh viên (90%).
Qua điều tra bảng hỏi, đã cho ra một số kết quả phản ánh phần nào nhu cầu tin của
bạn đọc tại trung tâm:
Nhu cầu sử dụng thông tin số về các lĩnh lực tri thức đa dạng và phong phú
như về kinh tế, thương mại, lịch sử, địa lý…nhưng mức độ thường xuyên và chủ yếu
quan tâm nhất vẫn là Luật (90%). Mức độ quan tâm lĩnh vực trong ngành Luật hết sức
đa dạng như Luật kinh tế, Luật hình sự, Luật dân sự, Luật hành chính nhà nước…
Lĩnh vực

Mức độ (%)
Rất quan tâm

Bùi Thị Ánh Tuyết

Quan tâm

Ít quan tâm

Không bao giờ
25


×