Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.94 KB, 69 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Giao thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế
giới. Khi giao thông phát triển và tình hình trật tự an toàn giao thông được
đảm bảo thì nó sẽ có tác dụng mạnh mẽ, là đòn bẩy phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Ngược lại, khi giao thông lạc hậu, nó
sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam cũng vậy, giao thông đường bộ góp phần không nhỏ vào sự
phát triển của đất nước, có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong việc phục vụ quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo thống kê trong những năm gần đây, tình hình trật tự an toàn giao
thông ở nước ta có diễn biến vô cùng phức tạp, số vụ tai nạn giao thông ngày
càng tăng nhanh cả về số vụ lẫn mức độ nghiêm trọng. Mỗi năm cả nước xảy
ra hàng chục ngàn vụ tai nạn giao thông lớn nhỏ, làm chết và bị thương hàng
ngàn người, thiệt hại về tài sản hàng tỉ đồng. Mỗi ngày có hơn 30 người bị tai
nạn giao thông cướp đi mạng sống cùng với hàng trăm người bị thương tật
suốt đời. Trong đó, số vụ tai nạn xảy ra trên lĩnh vực giao thông đường bộ
luôn chiếm trên 90% tổng số vụ tai nạn giao thông gây nên thiệt hại hết sức
nghiêm trọng về người và tài sản. Điều đó đồng nghĩa mỗi ngày có hàng trăm
gia đình Việt Nam gánh chịu sự mất mát khủng khiếp. Đây là điều không thể
chấp nhận được với một đất nước đang sống trong hòa bình.
Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội luôn được coi
là nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, là yếu tố quyết định cho sự
phát triển của đất nước. Vì vậy, công tác phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh
chống tội phạm là hết sức quan trọng nhất là trong tình hình tội phạm nói

1



chung, tội phạm “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” nói riêng có diễn biến ngày càng phức tạp.
Trước diễn biến ngày càng phức tạp của tội phạm “vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” hiện nay, Bộ Công An đã
nghiên cứu, đề xuất với các cấp có thẩm quyền những giải pháp và biện pháp
xử lý nhằm hạn chế tai nạn và hậu quả do “tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ” gây ra. Tuy nhiên, hiệu quả đạt được chưa
cao, tỉ lệ truy tố, xét xử tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ” chỉ được khoảng 12% số vụ tai nạn giao thông.
Xuất phát từ tình hình trên, việc nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn,
tình hình diễn biến và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm “vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” là hết sức
cấp thiết. Với những lý do trên, nhóm nghiên cứu chúng em quyết định chọn
nghiên cứu đề tài: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Về nghiên cứu tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ” đã được nhiều đơn vị triển khai nghiên cứu theo nhiều
hướng khác nhau. Tiêu biểu như các đề tài:
+) Đề tài: Lê Minh Hoàn, Nguyễn Huy Thuật, Hoạt động phòng
ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ trên địa bàn tỉnh Hải Dương: Luận văn thạc sĩ, Chuyên ngành Tội phạm
học và điều tra tội phạm.
+) Đề tài: Bùi Thanh Phúc, Hoàng Đình Ban, Phòng ngừa tội phạm vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình: Luận văn thạc sĩ, Chuyên ngành Tội phạm học và điều tra tội
phạm.
Ở cả hai đề tài, người nghiên cứu đã cung cấp những tri thức cơ bản
nhất về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
2



bộ”. Hai đề tài đã thực hiện nghiên cứu, phân tích hoạt động điều tra, phòng
ngừa tội phạm này và chỉ ở một địa phương cụ thể, chưa đi sâu nghiên cứu
trên phạm trù pháp luật.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
*) Mục tiêu nghiên cứu:
Giới thiệu được khái quát những tri thức cơ bản về tội “Vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Làm rõ thực trạng và hạn chế của tội “Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ” trong thực tiễn.
Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm
“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
*) Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu, phân tích tài liệu, trình bày những tri thức cơ bản về tội “Vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
Trên cơ sở thực trạng vi phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ”, thu thập số liệu, thông tin, đánh giá tình
hình, dự báo tình hình tội phạm này.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Chương XIX bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng. Cụ thể điều 202 BLHS năm 1999 sửa đổi
bổ sung năm 2009.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Về mặt phương pháp luận đề tài đã quán triệt phương pháp luận Macxit.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích tổng hợp số liệu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp quan sát.


3


6. Tính mới của đề tài.
Đề tài “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” thực hiện nghiên cứu chế
định pháp luật của tội phạm để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp khi tình hình
TNGT ngày càng tăng cao và diễn biến phức tạp, khó lường mà quy định của
tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” chưa
kịp thời điều chỉnh. Nhóm nghiên cứu chúng em thực hiện đề tài nghiên cứu
xuất phát từ lý do đó. Thông qua nội dung đề tài, nhóm nghiên cứu đã trình
bày các giải pháp nhằm kiềm chế TNGT và góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật để giảm thiểu vi phạm pháp luật an toàn giao thông đường bộ nói
chung và vi phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ” nói riêng.

4


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1 Lịch sử phát triển của tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ.
1.1.1 Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất – Bộ luật Hình sự năm 1985.
Tình trạng giao thông nước ta giai đoạn này còn thô sơ, thông thoáng, do
đó các tội xâm phạm ATGT nói chung và các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ nói riêng chưa phải là một hiện tượng phổ biến, chưa có tính

nguy hiểm cao cho xã hội, vì vậy khi có các vụ tai nạn giao thông xảy ra do
lỗi của con người thì cho phép áp dụng nguyên tắc tương tự để xem xét trách
nhiệm hình sự. Cụ thể là:
Nếu vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra gây thiệt hại về tính
mạng thì được xem là tội vô ý làm chết người; gây thiệt hại nghiêm trọng về
sức khỏe thì bị truy tố theo tội vô ý gây thương tích nặng; gây thiệt hại
nghiêm trọng về tài sản bị coi là phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng tài
sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản riêng của công dân.
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ có
lịch sử ra đời muộn hơn so với các tội chống lại chình quyền dân chủ nhân
dân và các loại tội phạm khác. Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng,
Nhà nước ta đã ban hành Thông tư 442/TTg ngày 19/01/1955 và Thông tư
556/TTg ngày 29/06/1955 của Thủ tướng Chính phủ quy định về tội phạm này.
1.1.2 Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999.
Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua ngày
27/06/1986, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 đã dành Mục A Chương 8 quy định
về các tội xâm phạm một nhóm khách thể cùng loại đó là an toàn công cộng.
5


Các tội phạm được quy định tại mục A Chương 8 Bộ luật hình sự 1985
có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông.
Nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng khác.
Về nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông gồm các tội sau đây:
Điều 186: Tội vi phạm các quy định về an toàn GTVT.
Điều 187: Tội cản trở GTVT gây hậu quả nghiêm trọng.
Điều 188: Tội đưa vào sử dụng các phương tiện GTVT không đảm bảo
an toàn hoặc điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện
GTVT gây hậu quả nghiêm trọng.

Đây là lần đầu tiên pháp luật hình sự Việt Nam đưa ra quy định cụ thể về
các tội xâm phạm trật tự ATGT đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường
không; đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về trật tự ATGT và đấu
tranh với các hành vi vi phạm trật tự ATGT.
Trong 15 năm tồn tại và có hiệu lực, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đã góp phần tích cực trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với
các hành vi vi phạm quy định về trật tự ATGT gây hậu quả nghiêm trọng
đồng thời nhắc nhở, giáo dục mọi người ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh
chấp hành luật GTVT trên toàn quốc.
1.2 Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.
1.2.1 Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ.
Điều 202: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ.
1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm
quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc
gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt

6


tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu
giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển
hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng
thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp
thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Từ sự phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm của tội vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định trong Bộ luật
hình sự năm 1999 có thể khái quát như sau:
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự
xâm phạm các quan hệ xã hội trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, cần
thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hoặc có thể khái niệm theo cách tiếp cận khác:

7


Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm những quy định của nhà
nước về trật tự an toàn giao thông gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con
người, gây thiệt hại về tài sản nhà nước, các tổ chức và công dân; xâm phạm
hoạt động bình thường trên lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ.

1.3 Đặc điểm pháp lý.
Từ khái niệm của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
đường bộ có thể xem xét các dấu hiệu pháp lý của tội phạm với nội dung sau:
1.3.1 Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm theo luật Hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể là
con người cụ thể. Nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội
phạm khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật Hình sự. Để xác định một
người có phải là chủ thể của tội phạm hay không ta cần xem xét hai điều kiện,
là những dấu hiệu bắt buộc của chủ thể của tội phạm, đó là năng lực trách
nhiệm hình sự và độ tuổi.
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cấu thành để có thể xác định
con người có thể có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ
những người nào có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của
tội phạm.
Luật Hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định như thế nào là có năng
lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
( Điều 12 BLHS 1999) và quy định thế nào là trường hợp trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 BLHS 1999). Do đó có thể
hiểu rằng: Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật Hình sự Việt Nam
là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở
trong trạng thái không có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó thì người
chưa đủ 14 tuổi và người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự không phải là chủ thể của tội phạm nói chung.
8


Đối với tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ”, chủ thể của tội phạm là chủ thể thường. Bất kỳ người nào từ đủ 16
tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, trực tiếp điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ, trong đó bao gồm cả người trực tiếp điều khiển các

phương tiện thô sơ đường bộ.
1.3.2 Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm.
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị các hành vi phạm tội xâm phạm đến. Theo luật hình sự Việt Nam,
những tội thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ được quy
định tại chương XIX của Bộ luật hình sự 1999 là những tội có khách thể
chung: trật tự giao thông đường bộ, quan hệ tính mạng, sức khỏe và quan hệ
tài sản. Điều này có nghĩa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ là những hành vi vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về sức
khỏe, tài sản của người khác, hoặc hành vi vi phạm đó có khả năng thực tế
dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời.
Sự gây thiệt hại này phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội.
Việc giữ gìn an toàn giao thông đường bộ không chỉ để bảo vệ, đảm bảo
sự hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ mà qua
đó còn bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của người tham gia giao thông.
Trong điều kiện đất nước phát triển nền kinh tế thị trường và mở rộng giao
lưu hợp tác quốc tế, các phương tiện giao thông đường bộ ngày càng gia tăng
về cả số lượng, chủng loại và cả mật độ lưu thông. Một trong những nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước và toàn xã hội hiện nay là đảm bảo an toàn giao thông
đường bộ, hạn chế các vụ tai nạ giao thông nhằm hạn chế những thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe và tài sản do nó gây ra.
Cũng như các tội xâm phạm an toàn giao thông khác, tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại điều
9


202 Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 trực tiếp
xâm phạm đến hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường

bộ, xâm phạm đến quan hệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của Nhà nước, của
các tổ chức và cá nhân.
Điều 202 là một quy phạm viện dẫn, nó không trực tiếp chỉ ra những quy
định cụ thể nào về an toàn giao thông đường bộ có thể bị vi phạm. Do đó, để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm thì các cơ quan tố tụng
cần phải xác định rõ những quy định cụ thể nào về an toàn giao thông đường
bộ đã bị xâm hại tại “ luật giao thông đường bộ năm 2008” được Quốc hội
thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008.
Đối tượng tác động của tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ” là các loại phương tiện giao thông đường bộ nói
chung, bao gồm: các loại xe có gắn động cơ (ô tô các loại, máy kéo, xe
chuyên dùng, xe gắn máy…), các loại xe thô sơ (xe đạp, xe cải tiến, xe tự
chế…) do người điều khiển hoặc do súc vật kéo. Tất cả các loại phương tiện
này dù của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân trong nước hoặc nước ngoài
hay của các tổ chức quốc tế, khi đã tham gia vào hoạt động giao thông trên
các tuyến đường bộ của Việt Nam thì đều phải tuân thủ những quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam về An toàn giao thông đường bộ.
1.3.3 Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm.
Yếu tố tiếp theo trong cấu thành tội phạm là mặt khách quan của tội
phạm. Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên
ngoài thế giới khách quan. Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra đều có những biểu
hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể trực tiếp nhận biết
được. Đó là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện
hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm phạm tội…). Tổng hợp những biểu hiện trên tạo thành mặt khách quan
của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội
10



phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài
thế giới khách quan.
Nghiên cứu về mặt khách quan của tội “ Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ” chúng ta phải xem xét một cách toàn diện
từ hành vi khách quan với hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi khách quan với hậu quả mà nó gây ra. Trong đó nghiên
cứu hành vi khách quan có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giúp ta phân biệt
được tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ” với những tội phạm khác trong nhóm tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ.
1.3.3.1 Hành vi khách quan của tội “Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ”.
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ. Điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ là những hành vi trực tiếp thực hiện các chức năng điều khiển sự
vận động của phương tiện giao thông đường bộ. Do đó, vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi của người trực tiếp
tham gia giao thông vi phạm các quy định trực tiếp nhằm bảo đảm sự an toàn
trong hoạt động của các phương tiện giao thông đường bộ.
Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ thường được biều hiện ở những vi phạm sau đây: Vi phạm về tốc độ (đi
quá tốc độ cho phép hoặc không đúng tốc độ quy định); chở quá trọng tải;
vượt trái phép (vượt ẩu khi chưa đủ điều kiện an toàn); đi không đúng phần
đường quy định. Bên cạnh những vi phạm về kỹ thuật an toàn giao thông
đường bộ như trên thì những hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao
thông vận tải đường bộ còn thể hiện ở những hành vi như: Điều khiển phương
tiện giao thông vận tải đường bộ mà không có giấy phép lái xe; điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trong khi đang say rượu hoặc say do dùng
chất kích thích mạnh khác; không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm
11



nhiệm vụ điều khiển, hướng dẫn giao thông. Điều 202 Bộ luật hình sự 1999
không nêu rõ những hành vi như thế nào là vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ. Do đó, để truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo
điều 202 Bộ luật hình sự 1999 thì cần phải xác định những quy định cụ thể
nào bị vi phạm. Như vậy, việc xác định hành vi vi phạm các quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ không chỉ căn cứ vào các quy định
của Bộ luật Hình sự mà còn phải căn cứ vào các quy định của Luật giao thông
đường bộ và các văn bản hưỡng dẫn khác của cơ quan có thẩm quyền.
1.3.3.2 Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội “Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ tội phạm đã gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của yếu tố mặt
khách quan trong cấu thành tội phạm, đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
hành vi khách quan.
Trong cấu thành tội phạm của tội “Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ”, thiệt hại nghiêm trọng xảy ra thì hậu quả
của hành vi khách quan là một dấu hiệu bắt buộc. Hành vi vi phạm chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nếu đã gây thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức
khỏe, tài sản của người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 của điều
luật (hành vi vi phạm có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời). Còn lại, nếu hành vi xâm phạm
đến an toàn giao thông đường bộ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
không thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự thì bị
xử phạt hành chính.
Hậu quả nghiêm trọng trong cấu thành tội phạm của tội “Vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đương bộ” được hướng dẫn cụ thể

trong Nghị quyết số 02/2003/NQ - HĐTPTANDTC ngày 17/04/2003 của
12


Hộng đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Bộ luật Hình sự 1999 và Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLTBCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định
tại chương XIX của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao
thông như sau:
Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy
định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì
gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài
sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:
a. Làm chết một người;
b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật
của mỗi người từ 31% trở lên;
c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi
người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ
41% đến 100%;
d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21%
đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến
dưới năm mươi triệu đồng;
đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của
mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này
từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới
năm trăm triệu đồng.
1.3.3.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ với hậu quả tai nạn.

Nếu hành vi khách quan là nội dung biểu hiện thứ nhất, hậu quả là nội
dung biểu hiện thứ hai thì nội dung biểu hiện thứ ba trong yếu tố mặt khách
13


quan của tội phạm là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội. Trong một cấu thành tội phạm, nếu hậu quả đã được
phản ánh là một dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan thì mối quan hệ giữa
hành vi khách quan và hậu quả cũng sẽ là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách
quan của cấu thành tội phạm. Do đó, việc áp dụng cấu thành tội phạm đối với
tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
không chỉ đòi hỏi phải xác định được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà còn
phải xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
có cấu thành vật chất, hậu quả phải là dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan.
Việc xác định được hậu quả có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội
danh và quy định hình phạt. Vì vậy khi định tội, khung hình phạt cần xác định
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả thực tế xảy ra. Khi
có một vụ tai nạn giao thông đường xảy ra thường do một loạt các nguyên
nhân và điều kiện tác động gắn liền với nhau. Chúng có thể là hành vi vi
phạm của người điều khiển phương tiện giao thông, có thể là lỗi của người bị
hại hoặc do lỗi của cả hai bên, thậm chí do lỗi của người thứ ba. Ngoài ra, có
thể do tình trạng đường xá, thời tiết, thiết bị an toàn của phương tiện, hệ thống
đèn, biển báo giao thông hay do tình trạng sức khỏe của nạn nhân và điều
kiện cứu chữa… Như vậy, trong trường hợp cụ thể cần phải xác định được
những nguyên nhân nào do ai gây ra; đâu là nguyên nhân trực tiếp; đâu là
nguyên nhân gián tiếp dẫn đến hậu quả. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu hậu quả đó do chính hành vi vi
phạm của họ gây ra.
1.3.3.4 Những biểu hiên khác của mặt khách quan trong cấu thành tội phạm

tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Ngoài các nội dung biểu hiện như hành vi khách quan, hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả,
mặt khách quan của tội phạm còn có những nội dung biểu hiện khác như:
14


phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội… Tuy nhiên, những nội
dung này không phải được phản ánh là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm đối với tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ”. Việc xác định thời gian, địa điểm, hoàn cảnh cụ thể xảy ra tội
phạm không ảnh hưởng đến việc định tội danh mà chỉ có ý nghĩa khi quyết
định hình phạt đối với người phạm tội.
1.3.4 Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm.
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu
mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ
quan của tội phạm lại là những hoạt động tâm lý bên trong của người phạm
tội, thể hiện những nội dung khác nhau như lỗi khi thực hiện hành vi, động cơ
thúc đẩy hoặc mục đích mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm.
1.3.4.1 Lỗi.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình
thức lỗi cố ý hoặc vô ý.
Đối với tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ”, nguời phạm tội thực hiện hành vi vi phạm do lỗi vô ý, có thể là vô
ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
Vô ý do quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước được
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng
hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Đối với tội “Vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, lỗi vô ý do quá tự

tin thường thể hiện trong những trường hợp như phóng nhanh vượt ẩu, lạng
lách, đánh võng… do tự tin vào trình độ lái xe của mình mà cho rằng tai nạn
không thể xảy ra nhưng nhận định chủ quan đó của người phạm tội là không
có cơ sở, do đó, thực tế tai nạn giao thông đã xảy ra trái với nhận thức, trái
với ý muốn của họ.

15


Vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù họ buộc phải
thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó nhưng do cẩu thả, không để ý nên
đã không thấy được. Lỗi vô ý do cẩu thả trong tội “Vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ” thường được thể hiện trong những
trường hợp như người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chưa
được đào tạo, học tập về quy tắc an toàn giao thông đường bộ hoặc trường
hợp người phạm tội do không quan sát biển báo giao thông đường bộ hoặc
trường hợp người phạm tội do không quan sát biển báo giao thông…
Tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
không có lỗi cố ý. Nếu một người có ý sử dụng phương tiện giao thông đường
bộ để gây chết người hoặc gây thương tích cho người khác hoặc hủy hoại tài
sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng (giết người, cố
ý gây thương tích hoặc hủy hoại tài sản).
1.3.4.2 Động cơ và mục đích phạm tội.
Như phần lớn các tội phạm khác thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ; mục đích và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành của tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ”.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội cố ý. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ

quan của người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.
Tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” được
thực hiện với lỗi vô ý, người phạm tội hoàn toàn không mong muốn cho hậu
quả xảy ra. Khi xem xét động cơ, mục đích của người phạm tội đối với tội này
chúng ta chỉ có thể xem xét dưới khía cạnh động cơ xử sự và mục đích hành
vi bởi người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội hoàn toàn không mong
muốn thực hiện tội phạm, họ hoàn toàn không có mục đích và động cơ phạm

16


tội. Người phạm tội hoặc không biết hành vi của mình sẽ trở thành tội phạm,
hoặc biết nhưng không mong muốn nó trở thành tội phạm.
1.4 Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với tội “Vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Nhìn chung các quy định về hình phạt đối với nhóm các tội xâm phạm
an toàn giao thông đường bộ thể hiện đầy đủ chính sách xử lý kiên quyết của
Nhà nước ta đối với hành vi vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng. Bộ luật Hình
sự 1999 đã quy định các loại hình phạt chính áp dụng đối với các tội thuộc
nhóm tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ: Phạt tù có thời hạn và tù
không thời hạn, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền. Ngoài những hình
phạt chính còn có những hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
theo quy định tại điều 202 Bộ luật Hình sự 1999 quy định 4 khung hình phạt:
Khung 1: Quy định hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm trong trường hợp người phạm tội gây thiệt hại về tính mạng, thiệt hại
nghiêm trọng về sức khỏe và tài sản của người khác và không có tình tiết định
khung tăng nặng.

Khung 2: Quy định hình phạt tù từ ba năm đến mười năm áp dụng đối
với người phạm tội trong trường hợp có một trong các tình tiết định khung
tăng nặng theo quy định tại Khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999.
1. Không có giấy phép lái xe hoặc bằng lái xe theo quy định:
Là trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không
có giấy phép lái xe hoặc giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp đối
với loại phương tiện đó hoặc tuy đã có nhưng bị cơ quan có thẩm quyền thu
hồi hoặc trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong
thời hạn bị cơ quan có thẩm quyền cấm điều khiển.

17


2. Phạm tội trong khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích mạnh
khác:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Thông tư 09 /2013/TTLT-BCA-BQPBTP-VKSNDTC-TANDTC nêu rõ Người điều khiển phương tiện tham gia
giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy hoặc đang trong tình
trạng say do sử dụng các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người
sử dụng ma túy, rượu, bia; Người điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên
dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn; Người điều
khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50
miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở. Đây là một quy
định mang tính định lượng cụ thể, cho phép xác định ranh giới giữa trường
hợp có tội hay không có tội, bị xử lý theo Khoản 1 hay Khoản 2 Điều 202 Bộ
luật Hình sự 1999. Do đó, việc xác định mức nồng độ các chất đó trong máu
người vi phạm đòi hỏi phải có sự đánh giá chính xác thông qua các thiết bị đo
chuyên dụng.
3. Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu
giúp người bị nạn:
Là trường hợp người phạm tội sau khi gây tai nạn nghiêm trọng đã cố ý

bỏ chạy khỏi hiện trường với mục đích che dấu tội phạm hoặc người phạm tội
cố ý bỏ mặc không cứu giúp người bị nạn mà nhẽ ra họ có trách nhiệm phải
áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế mức thấp nhất những thiệt hại do
họ gây ra về người và tài sản. Thực trạng trên đang gây ra khó khăn rất lớn
cho công tác điều tra, phát hiện tội phạm. Trên thực tế, trong nhiều trường
hợp nếu người phạm tội sau khi gây tai nạn mà có hành vi cứu giúp người bị
tai nạn thì hậu quả sẽ không ở mức độ nghiêm trọng.
4. Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển
hoặc hướng dẫn giao thông:
Là trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ cố ý
không chấp hành hiệu lệnh của những người đang làm nhiệm vụ điều khiển
18


hướng dẫn giao thông, gây nên hậu quả nghiêm trọng. Hoặc sau khi vi phạm,
mặc dù đã có hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ nưng người vi phạm
vẫn cố tình tiếp tục điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà không
dừng lại.
5. Gây hậu quả rât nghiêm trọng:
Việc xác định hậu quả rất nghiêm trọng căn cứ vào Khoản 2 Điều 2
Thông tư số 09 /2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC thông tư
liên tịch hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của Bộ luật
Hình sự về các tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn giao thông bao gồm những
trường hợp sau:
a) Làm chết một người;
b) Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật
của mỗi người từ 31% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của từ hai người trở lên với tỷ lệ thương tật
của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người
này từ 41% đến 100%;

d) Gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21%
đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới bảy mươi triệu đồng;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của từ hai người trở lên với tỷ lệ thương tật
của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người
này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm mươi
triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng;
e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ bảy mươi triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng.
Khung 3: Phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm nếu hành vi vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây ra hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng.

19


Việc xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng căn cứ vào Khoản 3 Điều 2
Thông tư số 09 /2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC thông tư
liên tịch hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của Bộ luật
Hình sự về các tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn giao thông bao gồm những
trường hợp sau:
a) Làm chết từ ba người trở lên;
b) Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường
hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;
c) Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường
hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e khoản 2 Điều này;
d) Gây tổn hại cho sức khoẻ của từ năm người trở lên với tỷ lệ thương tật
của mỗi người từ 31% trở lên;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của từ hai người trở lên với tổng tỷ lệ
thương tật của những người này trên 200%;

e) Gây tổn hại cho sức khỏe của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật
của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm
trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
g) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở
lên.
Khung 4: Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc
phạt tù từ ba tháng đến hai năm áp dụng đối với người phạm tội trong trường
hợp hành vi vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nếu
không được ngăn chặn kịp thời thì có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng. Đó là khả năng rõ ràng, tất yếu đối với hành vi vi phạm đó.
Trong hoàn cảnh cụ thể ấy, nếu không được ngăn chặn, khắc phục kịp thời thì
hậu quả nghiêm trọng tất yếu sẽ xảy ra.
Hình phạt bổ sung: Ngoài những hình phạt chính được nêu ở trên, người
phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề kinh doanh hoặc cấm
làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
20


Chương 2
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM, NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT XỬ LÝ TỘI PHẠM VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU
KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

2.1 Tình hình vi phạm tội “vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ” trong cả nước giai đoạn 2011 - 2013
2.1.1 Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở nước ta trong giai đoạn
2011 – 2013.
Giao thông là huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, là điều kiện để nâng
cao cuộc sống con người. Giao thông mang chức năng giao lưu gắn liền hoạt

động của con người từ địa phương này đến địa phương khác và trên phương
diện toàn cầu. Do đó, giao thông đường bộ có mối quan hệ gắn kết quan trọng
đối với các hoạt động của đời sống, đồng thời góp phần phục vụ đắc lực cho
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh những lợi ích to lớn về kinh tế như vậy thì một trong những
mặt trái của giao thông đó là “tai nạn giao thông”. Trong những năm gần đây,
trên phạm vi cả nước đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông đường bộ, gây
thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe và tài sản của nhân dân.
Thực hiện nghị quyết 88/NQ-CP ngày 24 tháng 08 năm 2011 về tăng
cường thực hiện các giải pháp trọng tâm đảm bảo trật tự an toàn giao thông;
Chỉ thị số 22- CT-CT/TW ngày 24 tháng 02 năm 2003 của ban bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ, các cấp, các ngành, các địa phương đã tích
cực triển khai và thực hiện mục tiêu kiềm chế tai nạn giao thông. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ đã có
những diễn biến hết sức phức tạp, tai nạn giao thông đường bộ tăng so với
những năm trước.

21


Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, được cấu thành
bởi tổng thể các tội phạm đã xảy ra trên một địa bàn, trên một lĩnh vực, trong
một khoảng thời gian nhất định.
Tình hình tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ” là toàn bộ tình hình thực tế tội phạm “Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” đã xảy ra ở nước ta trong
khoảng thời gian nhất định, nó được thể hiện thông qua nhiều yếu tố như: tình
hình tội phạm, cơ cấu tội phạm, diễn biến, thời gian phạm tội, địa điểm và
phương thức phạm tội…

Theo thống kê của Cục cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt:
Trong năm 2011 cả nước xảy ra 43.204 vụ TNGT, làm chết 10.800
người, bị thương 47.351 người.
Năm 2012 cả nước xảy ra 35.820 vụ, làm chết 9.540 người, bị thương
38.170 người.
Năm 2013, cả nước xảy ra 30.874 vụ TNGT, làm chết 9.627 người, bị
thương 31.982 người.
Theo đó tính riêng trong vòng 3 năm (2011 đến 2013) cả nước xảy ra
110.290 vụ TNGT, làm chết 30.145 người, bị thương 117.774 người. (phụ
lục, bảng 1)
Theo báo cáo tổng kết của Cục cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt
thì nguyên nhân TNGT đường bộ có cơ cấu như sau: Chạy quá tốc độ quy định
(11,5%); Đi không đúng phần đường, làn đường (28,25%); Tránh vượt sai quy
định (11%); Chuyển hướng (8%); Không nhường đường (3,4%); sử dụng rượu
bia (3,74%); Không chấp hành biển báo hiệu đường bộ (0,4%); Sai quy trình
thao tác lái xe (4,48%); Dừng đỗ sai quy định (0,41%); Không có giấy phép lái
xe (0,9%); Thiết bị không đảm bảo an toàn (1,45%); Đường giao thông không
đảm bảo (0,4%); Do người đi bộ (3,6%); Nguyên nhân khác (22,4%). (Phân
tích 82010 vụ TNGT trong ba năm liên tiếp). ( Phụ lục, bảng 2)

22


Xét về đối tượng gây tai nạn, theo số liệu thống kê thì ô tô chiếm 29,42%
số vụ tai nạn, xe máy chiếm 61,16% số vụ tai nạn còn lại các phương tiện
khác chiếm 9,42% (Phụ lục, bảng 3). Theo số liệu phân tích trên ta thấy số vụ
TNGT do xe máy gây ra chiếm số lượng lớn. Qua khảo sát thực tế, có nhiều
chủ phương tiện biết rõ phương tiện xe máy đã quá cũ, sắp hết niên hạn sử
dụng thì tìm cách bán cho người khác để người khác tiếp tục sử dụng, việc sử
dụng những phương tiện này gây nguy hiểm rất lớn khi tham gia giao thông.

Qua đó cho thấy rằng, số người điều khiển phương tiện xe máy gây ra TNGT
chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây chính là đối tượng cần tập trung áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, phòng ngừa và chế tài xử lý phải nghiêm minh để hạn chế
tình trạng TNGT.
Về thời gian xảy ra TNGT đường bộ qua thống kê trong ba năm liên tiếp
cho thấy kết quả như sau: Trong thời gian từ 0h đến 6h chiếm khoảng 19,23%
số vụ; trong khoảng thời gian từ 6h đến 12h chiếm khoảng 23,84% số vụ;
trong khoảng thời gian từ 12h đến 18h chiếm khoảng 27,30% số vụ; trong
khoảng thời gian từ 18h đến 24h chiếm khoảng 29,63%. (Phụ lục, bảng 4)
Về độ tuổi người gây TNGT đường bộ qua thống kê cho thấy kết quả
như sau: Dưới 18 tuổi chiếm khoảng 9,04% số vụ; từ 18 tuổi đến dưới 27 tuổi
chiếm khoảng 52,97% số vụ; từ 27 tuổi đến đưới 55 tuổi chiếm khoảng
27,95% số vụ; độ tuổi trên 55 chiếm khoảng 10,04% số vụ. (Phụ lục, bảng 5)
Qua kết quả thống kê ta thấy độ tuổi gây TNGT nhiều nhất là từ đủ 18
đến dưới 27 tuổi, đây là những người gây tai nạn giao thông và cũng là những
người bị tai nạn giao thông đường bộ đông nhất vì đây là đối tượng tham gia
giao thông nhiều nhất.
Cơ chế kinh tế thị trường (tâm lý chạy theo lợi nhuận tối đa bằng mọi
cách) cũng có những tác động tiêu cực đến việc tận dụng phương tiện giao
thông cũ nát không đảm bảo an toàn kỹ thuật phương tiện cũng như chấp
hành các quy định khác về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Hơn
nữa, phương tiện giao thông cơ giới ở nước ta hiện nay có quá nhiều chủng
23


loại, nguồn gôc xuất xứ, nhãn, mác khác nhau: Liên Xô, Đức, Trung Quốc,
Nhật Mỹ… đang lưu hành, có nhiều xe đã cũ nát, nhiều xe là “xe bãi”, không
đảm bảo an toàn kỹ thuật; nhiều phương tiện tự chế tại Việt Nam phát triển tự
phát, không đảm bảo an toàn đang hoạt động, đặc biệt ở vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa khó kiểm soát. Đây là nguy cơ rất lớn gây TNGT.

Tình hình TNGT diễn ra phức tạp và mức độ ngày càng nghiêm trọng,
nhưng chế định pháp luật quy định về giao thông chưa thực sự bám sát tình
hình giao thông Việt Nam. Số vụ TNGT bị xử lý về hình sự về tội “Vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” còn thấp so với số
vụ TNGT trên cả nước.
2.1.2 Tình hình tội phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ” trong cả nước.
Tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” là một hiện tượng xã hội tiêu cực đang diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động giao thông và các địa bàn trên phạm vi cả nước, gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức. Nắm
bắt tình hình tội phạm, diễn biến của tội phạm trong từng giai đoạn, tính chất,
cơ cấu và những vấn đề liên quan sẽ giúp cho chúng ta thấy được thực trạng
tình hình tội phạm, từ đó có căn cứ thực tiễn và cơ sở khoa học để tìm ra
những phương hướng, biện pháp giải quyết phòng ngừa, ngăn chặn, đấu
tranh, xử lý tội phạm đạt hiệu quả cao hơn.
Theo số liệu đã thống kê ở mục 2.1.1 thì trong vòng ba năm cả nước xảy
ra 110.290 vụ TNGT làm chết 30.145 người và bị thương 117.774 người. Tuy
nhiên theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì trong ba năm từ
2011 đến năm 2013 thì cả nước chỉ truy tố được 14.121 vụ án về TNGT và
khởi tố 14.352 bị can. Về phía Tòa án nhân dân tối cao thì trong ba năm, xét
xử được 13.436 vụ TNGT theo điều 202 BLHS, với 14.261 bị cáo. (Phụ lục,
bảng 6)

24


Qua số liệu thống kê cho thấy, số lượng các vụ TNGT đường bộ có dấu
hiệu tội phạm chiếm khoảng từ 20% - 25% tổng số các vụ TNGT được thống
kê. Nhưng chỉ xử lý bằng hình sự được với khoảng 12,18% trong tổng số vụ

TNGT.
Đặc điểm hình sự của tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ” là tập hợp các thông tin phản ánh đặc điểm
về thực trạng, động thái, cơ cấu, tính chất, thiệt hại của tình hình tội phạm,
nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội có
vai trò làm cơ sở để xây dựng phương pháp phòng ngừa và hỗ trợ cho công
tác điều tra, xử lý tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ”.
Khái quát thực tiễn giai đoạn 2011- 2013 cho thấy đặc điểm tội phạm
học của tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” được phản ánh như sau:
Tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” là một tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội đang xảy ra phổ
biến trong giai đoạn hiện nay, gây thiệt hại lớn, gây bất bình và tập trung chú
ý nhiều của mọi tầng lớp nhân dân. Tỷ trọng tội phạm này chiếm từ 90% 92% trong nhóm tội phạm xâm phạm An toàn giao thông vận tải đường bộ.
Hiện nay tội phạm “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ” diễn biến khá phức tạp, khi tăng, khi giảm nhưng nhìn
chung có xu hướng tăng.
Tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
thì chủ thể rất đa dạng, thuộc mọi thành phần, mọi lứa tuổi; tất cả những
người tham gia điều khiển các phương tiện giao thông đều có nguy cơ phạm
tội ở những mức độ khác nhau.
Xử lý hình sự theo điều 202 BLHS thì cũng có nhiều vấn đề cần đặt ra.
Quy định của tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết tình hình tai
25


×