Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ 5: TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.54 KB, 27 trang )

MỤC LỤC


BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM:
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG.

I. Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra.
Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
* Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh do hành
vi vi phạm hợp đồng của một bên, do đó bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại mà mình đã gây ra cho phía bên kia tương ứng
với mức độ lỗi của mình1. Trong pháp luật Việt Nam, các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng:
- Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự (Điều 302, BLDS 2005).
- Trách nhiệm dân sự do vi phạm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 303, BLDS
2005).
- Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện
một công việc (Điều 304, BLDS 2005).
- Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ (Điều 304, BLDS 2005).
* Những thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng:
Tại Điều 307, BLDS 2005 đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
dân sự. Tuy nhiên, quy định vừa nêu không đưa ra căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ, mà chỉ đề cập đến hai loại trách nhiệm. Đó là trách nhiệm bồi
thường về vật chất và trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần. Nói cách khác, BLDS
2005, chưa rõ về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại2. Từ đó, BLDS 2015
1



Lê Nết, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức 2016, tr 402.
Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2016
(xuất bản lần thứ hai), phần số 273.
2

1


đã bổ sung thêm Điều 360 với tiêu đề “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa
vụ”. Hướng sửa đổi nêu trên là thuyết phục và phù hợp với thực tiễn để giải quyết tranh chấp
về bồi thường thiệt hại.
Câu 2: Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt hại nào? Nêu rõ
đoạn của bản án liên quan đến từng khoản thiệt hại được bồi thường.
Toà án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt hại:
- Bồi thường giá trị căn hộ theo giá Hội đồng định giá đã định.
Đoạn của bản án liên quan đến việc bồi thường này:
“Mặt khác, phía Công ty Bitexco, bà Bình và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam cũng
thống nhất huỷ hợp đồng nên việc huỷ hợp đồng mua bán căn hộ AE305 là phù hợp và như
đã phân tích tại phần trên bà Bình không vi phạm nghĩa vụ thanh toán, việc buộc Công ty
Bitexco phải bồi thường giá trị căn hộ theo giá của Hội đồng định giá là cũng đảm bảo
quyền lợi của bà Bình nên có căn cứ được chấp nhận”.
- Bồi thường tiền thuê nhà.
Đoạn của bản án liên quan đến việc bồi thường này:
“Tuy nhiên, như phân tích ở trên, việc bà Bình đi thuê nhà ở là có thực và đây là thiệt hại
thực tế, bà Bình không có vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu của Bình buộc Công ty
Bitexco phải bồi thường khoản tiền mà bà Bình đã thanh toán tiền thuê nhà 22.000 Đô la Mỹ
tương đương 418.000.000 đồng (Tỷ giá đô la Mỹ ngày 27/04/2010 là 19.000đ/01USD), trả
ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật là hoàn toàn có căn cứ được chấp nhận”.
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý. Thứ nhất, Bixtexco yêu cầu huỷ hợp đồng mua
bán căn hộ AE 305 là không có căn cứ xác đáng vì theo như nhận định và căn cứ đưa ra
trước Tòa, bà Bình không có hành vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Thứ hai là “phía công ty
Bitexco, bà Bình và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam cùng thống nhất hủy hợp đồng”.
Việc Tòa án buộc công ty Bitexco phải bồi thường giá trị căn hộ theo giá của Hội đồng
định giá đã giúp bà Bình đảm bảo quyền lợi của mình trong tranh chấp, việc hủy hợp đồng
2


mua bán là phù hợp nên khoản bồi thường là hợp lý căn cứ theo Khoản 2 Điều 307, BLDS
2005.
Đối với khoản thiệt hại về tiền thuê nhà, hướng giải quyết của Tòa án cũng là hợp lý. Dù
khoản thiệt hại này xuất hiện trước khi có hành vi hủy hợp đồng và theo người bảo vệ cho
nguyên đơn thì hợp đồng thuê không được chứng thực và giá thuê bà Bình không thông báo
cho Bitexco tuy nhiên trên bà Bình có cung cấp hợp đồng thuê nhà và biên nhận tiền thuê
nhà nên đây là những thiệt hại thực tế mà bà Bình chịu tổn thất, là khoản thu nhập bị giảm
sút của bà Bình do hợp đồng không tiếp tục được thực hiện nên khoản tiền phải được đền bù.
Câu 4: Đoạn nào cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần?
Đoạn của bản án cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thát về tinh thần:
“Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Bình ngày 18/11/2008 thì ngoài những yêu cầu đã xem
xét ở trên bà Bình còn yêu cầu bồi thường về vật chất trong căn hộ AE305: do nước trào
ngược dơ bẩn làm hư hỏng một số tài sản với trị giá là 5.000.000 đồng và bồi thường thiệt
hại tinh thần do chất lượng căn hộ không bảo đảm gây ảnh hưởng về tâm lý là 16.000.000
đồng”.
Câu 5: Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng không? Vì sao?
Thực ra, tổn thất về tinh thần hoàn toàn có thể tồn tại xuất phát từ việc không thực hiện
đúng hợp đồng. Bộ Luật dân sự 2005 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm
cả thiệt hại về vật chất lẫn thiệt hại về tinh thần (Điều 307). Quy định này áp dụng cho nghĩa
vụ dân sự nói chung nên cũng được áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Tại Khoản 2, Điều 303, Luật Thương mại 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi

thường thiệt hại: “2. Có thiệt hại thực tế”. Theo đó phải có “thiệt hại thực tế”, tức là có thể
không chỉ có thiệt hại vật chất mà còn có cả thiệt hại tinh thần.
Như vậy, nhìn từ góc độ văn bản, tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng
cũng được bồi thường và thực tiễn cùng theo hướng này.

3


Câu 6: BLDS 2005 và BLDS 2015 có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát
sinh do không thực hiện đúng hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
- Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 3, Điều 307, BLDS 2005 về Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại:
“1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị thiệt hại”.
Với quy định trên của BLDS 2005, tổn thất về tinh thần được bồi thường và quy định này
áp dụng cho nghĩa vụ dân sự nói chung nên cũng được áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng.
- Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 3, Điều 361, BLDS 2015 về Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ:
“1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”.
BLDS 2015 đã quy định cụ thể tại Điều 361, thiệt hại về tinh thần do vi phạm nghĩa vụ thì
được bồi thường.
II. Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng.
Câu 1: Điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
- Về mức phạt vi phạm, tại Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 quy định:

“2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”.
Và tại Khoản 2, Điều 418, BLDS 2015 quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định
khác”.
BLDS 2015 có bổ sung quy định về mức phạt vi phạm trong trường hợp “luật liên quan có
quy định” ngoài trường hợp các bên thoả thuận so với BLDS 2005. BLDS 2015 bổ sung quy
4


định trên bởi lẽ hiện nay vẫn có luật quy định khác về mức phạt như Luật xây dựng, Luật
thương mại có quy định về mức phạt tối đa (các bên không được hoàn toàn tự do thoả
thuận).
- Tại Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005:
“3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm
mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường
thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
Và Khoản 3, Điều 418, BLDS 2015:
“3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà
không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường
thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa
phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải
chịu phạt vi phạm”.
BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại
thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại” của BLDS 2005, quy định này được bỏ đi vì đây là vấn
đề bồi thường thiệt hại và đã có quy định khác điều chỉnh (Điều 13 và Điều 360, BLDS
2015).

Về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 vẫn theo hướng
nếu không có thoả thuận cụ thể về việc kết hợp hai chế tài này thì thoả thuận phạt vi phạm
loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hai (có thoả thuận về phạt vi phạm mà không có thoả
thuận về sự kết hợp thì chỉ áp dụng phạt vi phạm)3.
* Đối với vụ việc thứ nhất:
Câu 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng?
3

Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2016
(xuất bản lần thứ hai), tr.372.

5


- Về đối tượng thực hiện: là khoản tiền buộc phải nộp cho một bên.
- Về hình thức: đều được lập thành văn bản.
- Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm bị mất một khoản tiền (mức phạt vi phạm hoặc phạt cọc),
và không căn cứ vào thiệt hại thực tế.
Câu 3: Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt tiền cọc hay là nội dung
của phạt vi phạm hợp đồng?
- Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt tiền cọc.
- Đoạn trong bản án cho thấy:
“Xét thấy, theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010 các
bên đã thoả thuận: Ngay sau khi kí hợp đồng, bên mua (Công ty Tân Việt) phải thanh toán
trước cho bên bán (Công ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, 40% giá
trị đơn hàng thanh toán ngay sau khi bên Công ty Tường Long giao hàng hoàn tất, 30% còn
lại sẽ thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày thanh toán cuối cùng. Do vậy số tiền thanh
toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng) được xác định là tiền đặt cọc”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả
trước 30%?

Cách giải quyết của Tòa án là chưa hợp lí và thiếu thống nhất trong cách giải quyết.
Về khoản tiền trả trước 30%, Tòa án đã xác định đây là tiền đặt cọc dựa trên khoản 7 Điều
292 Luật Thương mại và Điều 358 Bộ luật Dân sự. Khoản tiền này dùng để đảm bảo cho
việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sau đó Tòa án lại nhận định rằng phía bị đơn đã không
từ chối thực hiện hợp đồng mà hai bên đã đi vào thực hiện hợp đồng cho nên khoản tiền
30% được xác định là khoản tiền dùng để thanh toán đợt giao hàng lần thứ nhất. Theo hai
bên thoả thuận thì sau khi kí hợp đồng, Công ty Tân Việt (bên mua) phải thanh toán trước
cho Công ty Tường Long (bên bán) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, do đó theo quy
định tại Khoản 2, Điều 358, BLDS 2005 số tiền 30% trên thuộc về bên bán khi bên mua từ
chối thực hiện hợp đồng nhưng trên thực tế thì hai bên đã đi vào thực hiện hợp đồng nên

6


khoản tiền trên phải được trả lại cho bên mua (Công ty Tân Việt) chứ không được dùng vào
việc thanh toán cho giá trị đơn hàng thứ nhất.
Do đó, cách giải quyết nhiều mâu thuẫn như trên của Tòa án đã khiến quyền và lợi ích họp
pháp của nguyên đơn không được đảm bảo.
* Đối với vụ việc thứ hai:
Câu 5: Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn như thế
nào?
Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn ở mức 8% giá
trị hợp đồng theo Điều 301, Luật Thương mại 2005, do vậy mức phạt thoả thuận của hai bên
30% giá trị hợp đồng là không phù hợp và điều kiện này vô hiệu phần mức phạt Hợp đồng
cao hơn 8% giá trị hợp đồng.
Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài còn nhận định thêm nếu các bên đã có thoả thuận về mức bồi
thường thiệt hại thực tế tối đa là 30% tổng giá trị hợp đồng thì có thể xem xét bồi thường
thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, tổng mức bồi thường và phạt vi phạm không cao quá 30%
giá trị hợp đồng (theo Điều 301, Luật Thương mại 2005).
Câu 6: So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục

không? Vì sao?
So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định thuyết phục.
Trước hết, Tòa đã dựa vào Điều 301 Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định về “mức
phạt vi phạm”. Vì mức thỏa thuận cao hơn nên Tòa lấy mức phạt 8% giá trị của hợp đồng là
phù hợp, đảm bảo quyền lợi cho bên vi phạm. Mặc dù Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 có
quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên quy định” nhưng mức phạt như trong thoả thuận là
quá cao. Quy định về mức phạt trong BLDS để cho thấy các bên được tự do về mức phạt còn
việc viện dẫn Luật thương mại cho thấy các bên bị giới hạn trong việc định đoạt mức phạt.
Do vậy, Luật Thương mại sẽ được ưu tiên hơn.
Vậy, theo Luật Thương mại thì mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là đúng pháp
luật, thuyết phục. Tuy nhiên, căn cứ theo Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 quy định Thực
7


hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm như sau: “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận”; thì Quyết định này lại trái với quy định trong pháp luật dân sự.
Câu 7: Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có được kết
hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Căn cứ vào Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005 về Thực hiện hợp đồng có thoả thuận phạt vi
phạm:
“3. …
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
BLDS 2005 theo hướng phạt vi phạm hợp đồng không được kết hợp với bồi thường thiệt
hại nếu các bên không có thoả thuận.
- Căn cứ vào Khoản 2, Điều 307, Luật thương mại 2005 về Quan hệ giữa chế tài phạt vi
phạm và chế tài bồi thường thiệt hại:
“1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.

Luật thương mại 2005 cũng theo hướng nếu các bên không có thoả thuận thì phạt vi phạm
không được kết hợp với bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có quy định khác.
Câu 8: Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường thiệt hại
không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
- Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:
“Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên bị
thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao
hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị đơn. HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho

8


Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao
quá 30% giá trị hợp đồng”.
Câu 9: Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực
hiện đúng hợp đồng.
- Điểm giống nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp
đồng:
+ Là biện pháp chế tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm hợp
đồng.
+ Cơ sở để áp dụng 2 biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế và
phải có lỗi của bên vi phạm.
+ Mục đích chung của việc quy định cũng như áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn ngừa
sự vi phạm hợp đồng.
- Điểm khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp
đồng:
Phạt vi phạm hợp đồng


Bồi thường thiệt hại do không thực

hiện đúng hợp đồng
- Phải có sự thỏa thuận của các chủ - Không cần có sự thỏa thuận.
thể về việc áp dụng biện pháp phạt
Cơ sở để hợp đồng.
áp dụng - Không cần có thiệt hại do hành vi
vi phạm cũng có thể áp dụng

- Biện pháp này sẽ được áp dụng khi
có hành vi vi phạm gây ra thiệt hại cho
chủ thể bị vi phạm trên thực tế.

Mục đích Ngăn ngừa vi phạm.

Khắc phục hậu quả thiệt hại do vi

chủ yếu
Mức độ

Do thỏa thuận của các bên. Tối đa

thiệt hại

không quá 5% - 8% giá trị phần hợp được tính bao gồm cả thiệt hại thực tế

về vật

đồng bị vi phạm.


phạm.
Tùy theo mức độ thiệt hại. Thiệt hại
và trực tiếp do hành vi vi phạm hợp

chất của

đồng gây ra, những khoản lợi mà

người bị

người bị vi phạm đáng lẽ được hưởng
9


áp dụng

nếu không có hành vi vi phạm.

Câu 10: Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm hợp đồng với bồi thường thiệt hại
có bị giới hạn không? Vì sao?
- Theo Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005 về Thực hiện hợp đồng có thoả thuận phạt vi phạm:
“3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm
mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường
thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại.”.
Như vậy, BLDS 2005 không giới hạn về khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm hợp đồng với
bồi thường thiệt hại, mà do các bên thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật.
- Theo Khoản 2, Điều 307, Luật Thương mại 2005 về Quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và
chế tài bồi thường thiệt hại:
“2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng

cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định
khác”.
Ta thấy Luật Thương mại có quy định mức vi phạm do các bên thỏa thuận, nghĩa là pháp
luật đã giới hạn mức phạt không được vượt quá mức mà các bên thỏa thuận.
Câu 11: Theo Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt
hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trong Quyết định về vấn đề
này.
- Trong Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại có
bị giới hạn.
- Trong Phán Quyết Trọng tài có đoạn như sau:
“Tuy nhiên, Điều 301 luật thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên thiệt
hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao
hơn sẽ tạo ra bất ngờ cho bị đơn. HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho
10


Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao
quá 30% giá trị hợp đồng”.
- Suy nghĩ về giải pháp trong Quyết định về vấn đề này:
Hướng giải quyết của Tòa khá thuyết phục, đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm, phù
hợp với các quy định tại Khoản 2, Điều 307, Luật Thương mại 2005 và cả quy định Khoản
3, Điều 422, BLDS 2005. Bởi lẽ, các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại tối đa
là 30% tổng giá trị hợp đồng là do sự tự nguyện của các bên và việc cho phép bồi thường
mức cao hơn sẽ tạo ra bất ngờ cho bên chịu phạt. Do vậy, tòa vừa tôn trọng quyền tự do
quyết định trong giao kết hợp đồng, quyền thỏa thuận vi phạm hợp đồng và cả mức giới hạn
việc phạt vi phạm để đảm bảo quyền lợi của cả bên bị phạt vi phạm và bên còn lại. Việc Tòa
đã xem xét để đúng với quy định của pháp luật và đúng với thực tiễn.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi phạm hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam.

Việc Toà án giảm mức phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam thường được
thông qua việc giới hạn mức phạt vi phạm khi các bên kí hợp đồng. Đây là một “hạn chế tự
do ý chí của các bên trong việc thoả thuận kí kết hợp đồng”4. Ngày nay, việc giới hạn mức
phạt vi phạm này được thể hiện thông qua quy định tại Điều 301, Luật Thương mại 2005:
“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm
do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng
bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định trên thì lại gây xung đột với pháp luật dân sự. Cụ thể tại
Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 có quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”.
Việc viện dẫn một lúc hai văn bản về mức vi phạm này rất khó hiểu nhưng chúng ta có giải
thích như sau: Việc viện dẫn Bộ luật dân sự để cho thấy các bên được tự do về mức phạt còn
việc viện dẫn Luật Thương mại để cho thấy các bên bị giới hạn trong định đoạt mức phạt5.
4

Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ, Một số ý kiến về phạt vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí
Khoa học pháp lý, Số 1 (26)/2005, tr.26 – 31.
5
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án, Nxb. CTQG 2011, tr. 265.

11


Biện pháp phạt vi phạm được thiết lập vì lợi ích của bên bị vi phạm do đó bên bị vi phạm
lựa chọn hay kết hợp với bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi của mình. Tuy nhiên,
mức phạt đó phải không quá mức thỏa thuận. Việc Tòa án áp dụng hai chế tài này là phù
hợp, quyền lợi bên bị vi phạm được bảo vệ. Song, vấn đề đặt ra là nên áp dụng văn bản nào
để thuyết phục, đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, Tòa đã áp dung văn bản là Luật
thương mại. Do vậy, hướng giải quyết của Tòa là phù hợp vì không những đảm bảo quyền
lời của bên bị vi phạm mà đảm bảo quyền của bên vi pham.

III. Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng.
Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên có
thể thoả thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ sở khi trả
lời.
- Khoản 1, Điều 161, BLDS 2005 có quy định về sự kiện bất khả kháng:
“1. …
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng
cho phép”.
Từ đó, ta có những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng như sau:
+ Thứ nhất, đây phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan”. Bộ luật dân sự không cho
biết cần hiểu yếu tố khách quan như thế nào nhưng thông thường yếu tố khách quan này
được đánh giá trong mối quan hệ với bên thực hiện hợp đồng. Để được coi là sự kiện xảy ra
một cách khách quan thì sự kiện này phải vượt qua sự kiểm soát của bên phải thực hiện hợp
đồng và như vậy đây có thể là sự kiện tự nhiên như thiên tai nhưng cũng có thể do con người
gây ra như hành động của người thứ ba.
+ Thứ hai, đây phải là sự kiện “không thể lường trước được”. Về thời điểm không lường
trước được, Bộ luật dân sự chúng ta không rõ nhưng một số hệ thống pháp luật như Bộ
nguyên tắc châu Âu về hợp đồng theo hướng sự lường trước được hay không lường trước
được xác định ở “thời điểm giao kết hợp đồng”

12


+ Thứ ba, sự kiện xảy ra “không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép”.
- Các bên có thể thoả thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 302, BLDS 2005 về Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
dân sự:
“2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự

kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Câu 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất
khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
- Hệ lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng trong
BLDS:
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 302, BLDS 2005 về Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
dân sự:
“2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự
kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Theo quy định trên thì trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng
thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác.
Căn cứ vào Khoản 3, Điều 546, BLDS 2005 về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“3. Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc
bị huỷ hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Trong quy định về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng vận chuyển nếu trường hợp hợp
đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự,
trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

13


- Hệ lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng trong Luật
Thương mại:
Căn cứ theo Điểm b, Khoản 1, Điều 294, Luật Thương mại 2005 về Các trường hợp miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:

b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;”
Theo Luật thương mại thì trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất
khả kháng thì bên vi phạm được miễn trách nhiệm bồi thường.
Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các điều kiện
hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
- Số hàng trên có bị hư hỏng có thể do sự kiện bất khả kháng.
- Phân tích các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên:
+ Điều kiện thứ nhất: Tàu bị gió nhấn chìm dẫn đến hỏng toàn bộ tài sản ta thấy “gió thổi”
ở đây là một sự kiện xảy ra một cách khách quan.
+ Điều kiện thứ hai: Đây là sự kiện “không thể lường trước được” do thế giới khách quan
tác đông diễn ra ngoài ý chí chủ quan của con người.
+ Điều kiện thứ ba: Tàu chìm làm hàng hư hỏng toàn bộ có thật sự “Không thể khắc phục
được” tuy bản án cũng không nói rõ. Nếu số hàng hư hỏng trên có thể khắc phục được thì
đây không là sự kiện bất khả kháng; ngược lại, nếu số hàng hư hỏng trên không khắc phục
được thì đây là sự kiện bất khả kháng.
Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho anh
Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Khoản 3, Điều 546, BLDS 2005 về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“3. Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc
bị huỷ hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

14


Theo quy định trên, nếu giữa anh Văn và anh Bình không có thoả thuận về việc bồi thường
do sự kiện bất khả kháng thì anh Văn không phải chịu trách nhiệm bồi thường cho anh Bình
về việc hàng bị hư hỏng.
Nếu giữa anh Văn và anh Bình có thoả thuận về việc bồi thường do sự kiện bất khả kháng
thì anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng hay không phụ thuộc

vào thoả thuận của hai bên.
Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường
cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty bảo hiểm thanh
toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.
- Căn cứ vào Điều 580, BLDS 2005 về Bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
“1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo thoả thuận
hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo
hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với thiệt hại mà bên
mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã thoả thuận hoặc theo quy
định của pháp luật”.
Theo quy định này, nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận
bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn được yêu cầu Công ty bảo hiểm
thanh toán khoản tiền này.
- Tuy vậy, thực tiễn xét xử vấn đề này có hai quan điểm trái ngược nhau. Cụ thể được nêu
tại hai bản án:
+ Tại bản án 110/2006/DSPT ngày 5/5/2006 của Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh:
Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy. Anh Khen có mua bảo hiểm thân
tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho người thứ ba của Công ty Bảo Việt cho việc vận
chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn chìm và gây thiệt hại
đến tài sản hàng hóa. Trong hợp đồng nhận chuyển hàng, anh Khen thỏa thuận chịu trách
nhiệm trường hợp này và đã bồi thường cho chủ hàng anh chở thuê số tiền 40.950.000 đồng.
Tại bán án này, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc gây thiệt hại cho các chủ
hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Trong vụ tai nạn trên, sau khi sự việc xảy ra anh Khen
15


có thông báo cho Bảo Việt biết và cung cấp thông tin yêu cầu Công ty Bảo Việt hoàn lại cho
anh số tiền anh đã bồi thường. Nhưng theo Tòa, anh Khen mặc dù đã nhận được thông tin từ
Công ty Bảo Việt nhưng anh Khen tự nguyện nhận bồi thường (trái với quy định của pháp
luật và quy tắc bảo hiểm) nên anh phải tự chịu trách nhiệm.

+ Tại Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Toà dân sự TANDTC:
Ông Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ông Điền và ông Trình bằng tàu của mình.
Ông Khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu rõ điều kiện bảo
hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt nhận
trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu, thuyền được
bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do mưa gió to, nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu
bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000 đồng số tiền vịt. Vì ông Khóm thỏa thuận trong
hợp đồng với ông Trình ông Điền nên đã bồi thường số tiền trên. Nay ông Khóm yêu cầu
Bảo Việt hoàn trả ông số tiền nói trên. Về vụ việc trên, theo Tòa vì các bên có nêu rõ trong
hợp đồng bảo hiểm nói trên và theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người vận chuyển
và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong
trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trình, ông Điền là
không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang; Công ty Bảo Việt phải
có trách nhiệm bảo hiểm cho ông Khóm.
Thiết nghĩ, để uy tín trong các quan hệ tương tự như trên, tốt hơn hết các bên nên nêu rõ
trong hợp đồng bảo hiểm là có hay không bảo hiểm trong trường hợp thiệt hại do sự kiện bất
khả kháng.
IV. Vấn đề 4: Tìm kiếm bản án liên quan đế chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Tìm ít nhất 01 bản án (quyết định) của Tòa án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ
thanh toán.
Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án (quyết định)
liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà anh/chị đã tìm thấy.
1. Bản án có liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán:
16


TOÀ ÁN NHÂN DÂN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


THÀNH PHỐ HCM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

----------------------

-------------------------------

Bản án số: 1137/2014/DS-PT
Ngày: 08/9/2014
V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:

Ông Nguyễn Chí Cao

Các thẩm phán:

1. Bà Lê Thị Hồng Hạnh
2. Bà Lê Thị Nhanh

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Đặng Đình Tiến – Cán bộ Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông
Phan Văn Kiền – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 04 và 08 tháng 9 năm 2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 387/2014/TLPT-DS ngày 18

tháng 7 năm 2014 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 69/2014/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2014 của Tòa án
nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2417/2014/QĐPT–DS ngày 11 tháng 8 năm
2014, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Mai Ngọc Hằng, sinh năm 1968.
Cư trú tại nhà số 160/4F đường Trần Kế Xương, Phường 7, quận Phú Nhuận, Thành
phố Hồ Chí Minh (có mặt).
17


Bị đơn: Bà Mai Hồng Thắm, sinh năm 1979.
Cư trú tại nhà số 550/27/1 đường Huỳnh Tấn Phát, Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thu Hồng, sinh năm 1960. Cư trú tại
nhà số 363/20A đường Huỳnh Tấn Phát, Khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành
phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 17/01/2012) (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Ngô Hoàng Tâm (chồng nguyên đơn), sinh năm 1967 (có mặt).
Có cùng nơi cư trú với nguyên đơn.
2. Bà Mai Hồng Châu, sinh năm 1984.
3. Ông Mai Thành Đạt, sinh năm 1985
4. Bà Nguyễn Thị Bích, sinh năm 1983
Có cùng nơi cư trú với bị đơn.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thu Hồng có nơi cư trú nêu trên (Văn
bản ủy quyền của bà Châu, ông Đạt, bà Bích cùng ngày 13/02/2014) (có mặt).
NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại tòa án, nguyên đơn – bà Mai Thị Ngọc Hằng
trình bày:
Bà là cô ruột của bà Mai Hồng Thắm. Ngày 01/9/2011, tại phòng công chứng số 01

Thành phố Hồ Chí Minh, bà lập hợp đồng cho bà Thắm vay 900.000.000 đồng, thời hạn vay
24 tháng, lãi suất 1.2%/tháng, bà Thắm thế chấp cho bà bản chính giấy tờ căn nhà số
550/27/1 đường Huỳnh Tấn Phát, Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè. Sau đó, bà Thắm trả
cho bà được 08 tháng tiền lãi theo mức lãi suất 2.2%/tháng (Tổng cộng 158.400.000 đồng)
thì ngưng không trả nữa cho đến nay.
Bà khởi kiện yêu cầu bà Thắm trả 900.000.000 đồng vốn và tiền lãi theo mức lãi suất
1.2%/tháng tính từ ngày 01/9/2011 đến ngày Toà án xét xử sơ thẩm, trả ngay sau khi bản án
có hiệu lực pháp luật. Về số tiền lãi bà đã nhận 158.400.000 đồng, bà đồng ý cấn trừ vào số
tiền bà Thắm nợ.
Bà Mai Hồng Thắm có bà Nguyễn Thị Thu Hồng (mẹ ruột) đại diện trình bày:
18


Bà Thắm thừa nhận ngày 01/9/2011, bà Thắm vay bà Hằng 900.000.000 đồng với
mức lãi suất 1.2%/tháng, bà Thắm trả lãi được 08 tháng tiền lãi theo mức lãi suất
2.2%/tháng, tổng cộng 158.400.000 đồng thì ngưng không trả nữa cho đến nay. Hiện nay, bà
Thắm đang gặp khó khăn về kinh tế, bà Thắm đề nghị được trả góp 3 triệu đồng/tháng cho
đến khi bán được căn nhà đang thế chấp cho bà Hằng hoặc bà Hằng đồng ý mua lại căn nhà
trên để cấn trừ nợ, cụ thể: Bà Thắm bán nhà cho bà Hằng với giá 1 tỷ 300 triệu đồng, bà
Hằng phải thối lại cho bà Thắm 400.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Ngô Hoàng Tâm (chồng bà Hằng) trình bày:
Bà Hằng cho vay bà Thắm vay số tiền trên là tài sản chung của ông và bà Hằng, ông
thống nhất có cùng yêu cầu như bà Hằng.
Bà Mai Hồng Châu, ông Mai Thành Đạt, bà Nguyễn Thị Bích có bà Nguyễn Thị Thu
Hồng (mẹ ruột) đại diện trình bày: Căn nhà trên, bà Thắm đứng tên nhưng thực chất có sự
đóng góp ½ số tiền của ông Mai Thành Đạt, vì ông Đạt không có giấy tờ chứng minh nên
không tranh chấp. Bà Hồng đại diện cho những người con đang sống trong nhà có cùng ý
kiến với bà Thắm.
Tại bản án Dân sự sơ thẩm số 69/2014/DS-ST ngày 29/5/2014 của Tòa án nhân dân

huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Áp dụng: Khoản 3 Điều 25; điểm a khoản 1 Điều 33 và Điều 35 Bộ luật tố tụng Dân
sự;
Áp dụng: Điều 471, 473, 474, 476, 478 và khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm
2005;
Áp dụng: Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch
bảo đảm;
Áp dụng: Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
Áp dụng: Luật thi hành án dân sự;
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn: Buộc bà Mai Hồng Thắm có nghĩa vụ
trả cho bà Mai Ngọc Hằng, ông Ngô Hoàng Tâm số tiền nợ gốc 900.000.000 đồng, tiền lãi
19


tính từ ngày 01/9/2011 đến ngày 29/5/2014 là 333.145.161 đồng, được trừ đi tiền lãi hai bên
đã giao nhận 158.400.000 đồng, còn lại bà Thắm phải trả cho bà Hằng, ông Tâm tổng số tiền
là 1.074.745.161 đồng. Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi
án có hiệu lực pháp luật.
Nếu bà Thắm không thực hiện việc trả số tiền nêu trên, kể từ ngày bà Hằng, ông Tâm
có đơn yêu cầu thi hành án thì bà Thắm còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất
cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng thời gian chậm trả tại thời điểm thanh
toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Bà Mai Ngọc Hằng, ông Ngô Hoàng Tâm được quyền yêu cầu Chi cục thi hành án
dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp đối với căn nhà số 550/27/1 Huỳnh Tấn Phát,
Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh để thu hồi khoản nợ vay trong
trường hợp bà Mai Ngọc Hằng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Mai Ngọc Hằng phải chịu án phí 1.110.442 đồng, bà
Mai Hồng Thắm phải chịu án phí 44.242.355 đồng. Hoàn tạm ứng án phí 22.092.000 đồng
cho bà Mai Ngọc Hằng theo biên lai số AG/00142 ngày 19/11/2013 của Chi cục Thi hành án

dân sự huyện Nhà Bè.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên quyền thỏa thuận thi hành án, quyền kháng cáo
của đương sự.
Ngày 12/6/2014, bà Mai Hồng Thắm có bà Nguyễn Thị Thu Hồng đại diện kháng cáo
bản án sơ thẩm với nội dung: Yêu cầu cấp phúc thẩm tính lãi tiền lãi và xem xét giải quyết
cho bà Thắm trả dần số tiền nợ.
Ngày 27/6/2014, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra
Quyết định kháng nghị số 39/QĐKNPT-DS, kháng nghị bản án sơ thẩm với nội dung: Cấp
sơ buộc bị đơn trả lãi cho nguyên đơn với mức lãi 1,125%/tháng tính từ ngày vay tiền đến
ngày xét xử sơ thẩm là không đúng, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn. Đề nghị cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm vể lãi suất và tính lại án phí.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không rút kháng cáo, các đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
20


Bà Mai Hồng Thắm có bà Nguyễn Thị Thu Hồng đại diện giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo trên: Bà Hồng yêu cầu xét lại tiền lãi và yêu cầu bà Hằng cho bà Thắm trả dần mỗi tháng
5.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên yêu cầu kháng
nghị: Đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm vể lãi suất và tính lại án phí.
Bà Mai Ngọc Hằng trình bày: Bà đồng ý tính lại tiền lãi cho đúng theo pháp luật quy định.
Bà không đồng ý cho bà Thắm trả dần, bà yêu cầu bà Thắm trả tiền vốn và tiền lãi ngay sau
khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ông Ngô Hoàng Tâm có cùng yêu cầu với bà Mai Ngọc Hằng.
Bà Mai Hồng Châu, ông Mai Thành Đạt, bà Nguyễn Thị Bích có bà Nguyễn Thị Thu Hồng
đại diện có cùng yêu cầu với bà Mai Hồng Thắm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm vụ án.
Về hình thức: Trong quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã tuân thủ

đúng theo trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng,
người tham gia tố tụng và các quyền lợi ích hợp pháp khác của các đương sự cho đến tại thời
điểm kết thúc phần tranh luận. Về nội dung: Bà Thắm kháng cáo yêu cầu bà Hằng cho bà
Thắm trả dần số nợ nhưng không được bà Hằng đồng ý nên phần kháng cáo này không được
chấp nhận. Về phần tiền lãi, cấp sơ thẩm tính lãi không đúng gây ảnh hưởng đến quyền lợi
của bà Thắm, đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà Thắm và kháng nghị của
Viện kiểm sát về phần lãi và sửa án sơ thẩm.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc:
Căn cứ lời khai của nguyên đơn – bà Mai Ngọc Hằng và lời thừa nhận của bị đơn – bà
Mai Hồng Thắm có bà Nguyễn Thị Thu Hồng đại diện thì: Vào ngày 01/9/2011, bà Hằng
cho bà Thắm vay 900.000.000 đồng với mức lãi suất 1.2%/tháng, thời hạn vay 24 tháng, bà
Thắm thế bản chính chấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà số 550/27/1 Huỳnh Tấn
Phát, Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè của UBND huyện Nhà Bè cấp cho bà Thắm vào
ngày 25/11/2009 (Hồ sơ gốc số 367/2009/GCN-UB). Sau khi vay tiền, bà Thắm trả cho bà
21


Hằng 8 tháng tiền lãi với mức lãi suất 2.2%/tháng với số tiền là 158.400.000 đồng. Căn cứ
khoản 2 Điều 80 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án công nhận đó là sự thật.
Xét yêu cầu kháng cáo của bà Mai Hồng Thắm có bà Nguyễn Thị Thu Hồng đại diện
và xét kháng nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:
Về yêu cầu tính lại tiền lãi: Như đã nêu trên, các bên thừa nhận ngày 01/9/2011, bà
Hằng cho bà Thắm vay 900.000.000 đồng, thời hạn vay là 24 tháng với mức lãi
suất 1,2%/tháng, sau khi vay bà Thắm trả cho bà Hằng 158.400.000 đồng. Tại khoản 1 Điều
476 của Bộ luật dân sự quy định “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”. Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thì lãi suất cơ bản là 9%/năm (tức 0,75%/tháng).

Như vậy, theo quy định thì mức lãi suất là: 0,75%/tháng x 150% = 1,125%/tháng.
Nhưng bà Hằng cho bà Thắm vay với mức lãi 1,2%/tháng là cao hơn mức lãi quy định nên
cần phải điều chỉnh lại cho đúng và số tiền lãi được tính như sau: Ngày vay 01/9/2011, ngày
đến hạn trả 01/9/2013 (24 tháng). 900.000.000 đồng (vốn) x 1,125%/tháng x 24 tháng =
243.000.000 đồng (lãi trong hạn).
Theo khoản 5 Điều 474 của Bộ luật dân sự quy định “Trong trường hợp vay mà khi
đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi
quá hạn theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
vay tại thời điểm trả nợ”.
Do đó, số tiền lãi quá hạn được tính như sau: Từ ngày 02/9/2013 đến ngày xét xử sơ
thẩm 29/5/2014 là 8 tháng 27 ngày. 900.000.000 đồng (vốn) x 0,75%/tháng x 8 tháng 27
ngày = 60.075.000 đồng (lãi quá hạn).
Tổng cộng bà Thắm nợ bà Hằng: 900.000.000 đồng (vốn) + 243.000.000 đồng (lãi
trong hạn) + 60.075.000 đồng (lãi quá hạn) = 1.203.075.000 đồng. Nhưng bà Thắm đã trả
cho bà Hằng được 158.400.000 đồng (lãi), như vậy bà Thắm chỉ còn nợ bà Hằng
1.203.075.000 đồng - 158.400.000 đồng = 1.044.675.000 đồng, gồm 900.000.000 đồng
(vốn) và 144.765.000 đồng (lãi).

22


Cấp sơ thẩm buộc bà Thắm trả cho bà Hằng 1.074.745.161 đồng (gồm tiền vốn, lãi) là
không đúng. Do đó kháng cáo của bà Thắm và kháng nghị của viện kiểm sát về phần lãi là
có căn cứ nên được chấp nhận.
Về yêu cầu trả nợ dần: Bà Thắm yêu cầu bà Hằng cho bà Thắm mỗi tháng 5.000.000
đồng cho đến khi hết nợ nhưng không được bà Hằng đồng ý, do đó yêu cầu này của bà Thắm
không được chấp nhận.
Từ những phân tích trên, cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của
bà Thắm có bà Hồng đại diện về phần tiền lãi và sửa bản án sơ thẩm. Lời đề nghị của Viện
kiểm sát được chấp nhận.

Về án phí: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
Áp dụng: Điều 263; khoản 2 Điều 275; Điều 131 và Điều 132 của Bộ luật Tố tụng dân
sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2011;
Áp dụng: Khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự;
Áp dụng: Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
Áp dụng: Luật Thi hành án dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Sửa bản án sơ thẩm.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Mai Hồng Thắm có bà Nguyễn Thị
Thu Hồng đại diện.
3. Chấp nhận kháng nghị của Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh.
Bà Mai Hồng Thắm có trách nhiệm thanh toán cho bà Mai Ngọc Hằng, ông Ngô
Hoàng Tâm số tiền 1.044.675.000 đồng, trong đó có 900.000.000 đồng (vốn) và
144.765.000 đồng (lãi).
Ngay sau khi bà Thắm thanh toán xong cho bà Hằng, ông Tâm số tiền trên, thì bà
Hằng có trách nhiệm trả cho bà Thắm bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất căn nhà số 550/27/1 Huỳnh Tấn Phát, Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện
Nhà Bè của UBND huyện Nhà Bè cấp cho bà Thắm vào ngày 25/11/2009 (Hồ sơ gốc số
23


367/2009/GCN-UB). Nếu, bà Thắm không thanh toán cho bà Hằng, ông Tâm số tiền trên thì
bà Hằng được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi căn nhà
trên để thu hồi nợ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được
thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả số tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân
hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Thắm chịu 42.340.250 đồng. Bà Hằng chịu 2.612.250
đồng được khấu trừ vào số tiền bà Hằng đã tạm ứng án phí 22.092.000 đồng theo biên lai số
AG/00142 ngày 19/11/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, hoàn trả lại cho
bà Hằng 19.479.750 đồng.
5. Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả cho bà Thắm 200.000 đồng đã đóng tạm ứng án
phí theo biên lai thu tiền số AG/2011/00593 ngày 18/6/2014 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Nhà Bè.
Thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án
dân sự đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
CÁC THẨM PHÁN
Lê Thị Hồng Hạnh

Lê Thị Nhanh

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Chí Cao

24


×