MỤC LỤC
BUỔI THẢO LUẬN THỨ 6:
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG (phần chung).
I. Vấn đề 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?
Theo Điều 604, BLDS 2005 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”.
Hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban
hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP. Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện sau:
“1.1. Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều
608 BLDS; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt
hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611BLDS.
b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà
người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về
tình cảm, bị giảm sút hoặc mấy uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm… và cần phải
được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là
pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó
1
bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
1.2. Phải có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành
động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt
hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp
luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng
để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc
thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không
xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi
không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này
được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó”.
Như vậy, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát
sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp
đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã
ký kết”1. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
- Phải có thiệt hại: Thiệt hại là một yếu tố cấu thành của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
Không có thiệt hại thì không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại là một điều
kiện bắt buộc phải có làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật trong trách
nhiệm dân sự là hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
1
Phạm Kim Anh, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức 2013, tr. 436.
2
lợi ích hợp pháp của người khác và do đó xâm phạm đến những quy định của pháp luật bảo
vệ lợi ích đó.
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại và thiệt hại đã
xảy ra: Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành
vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra hậu quả.
- Người gây ra thiệt hại có lỗi (lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý): Lỗi là một yếu tố chủ quan nói lên
thái độ tâm lý của con người đối với hành vi của mình và hậu quả của hành vi ấy.
Bốn điều kiện trên mới chỉ là những điều kiện nói chung của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoải hợp đồng, tức là những trường hợp thông thường, còn có những trường hợp đặc
biệt khác hoặc là không cần bốn điều kiện đó (Ví dụ: Trách nhiệm về thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra không cần điều kiện có lỗi)2.
Câu 2: Thế nào là hành vi trái pháp luật? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự là hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và do đó xâm phạm đến
những quy định của pháp luật bảo vệ lợi ích đó. Hành vi trái pháp luật là hành vi vi phạm
một quy phạm pháp luật cụ thể hay xâm phạm quyền chủ quan của người khác3.
Theo Tiểu mục 1.2, Mục 1, Phần I, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP:
“Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua
hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật”.
Về mặt khách quan hành vi trái pháp luật có thể là :
- Hành động: Bằng chính hành vi của cá nhân, tổ chức vi phạm điều pháp luật cấm.
- Không hành động: cá nhân, tổ chức không làm những việc mà pháp luật yêu cầu phải
làm.
Về mặt chủ quan hành vi trái pháp luật có thể là cố ý hoặc vô ý.
Câu 3: Trong vụ việc trên, ông Trung có hành vi trái pháp luật không? Vì sao?
- Trong vụ việc trên, ông Trung có hành vi trái pháp luật.
2
3
Phạm Kim Anh, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức 2013, tr. 443.
A.M Bêliakova, Trách nhiệm tài sản do gây thiệt hại, Nxb. Pháp lý Matxcơva,1979, tr.14
3
- Theo Tiểu mục 1.2, Mục 1, Phần I, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP:
“Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua
hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật”.
Điều luật chỉ quy định chủ thể của hành vi trái pháp luật là con người nói chung chứ
không hề quy định về tuổi chịu trách nhiệm dân sự cũng như tình trạng năng lực trách
nhiệm dân sự của chủ thể nên có thể nói hành vi của ông Trung trong vụ việc trên là hành
vi trái pháp luật vì ông đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác dẫn
đến thiệt hại xảy ra.
Câu 4: Trong vụ việc trên có tồn tại thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành
vi trái pháp luật không? Vì sao?
- Trong vụ việc trên có tồn tại thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái
pháp luật.
- Vì tình huống có nêu “do có rối loạn thần kinh, ông Trung đã gây thiệt hại cho người
khác”, do đó thiệt hại có tồn tại. Nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại đó chính là hành vi
trái pháp luật của ông Trung, nếu không có hành vi đó thì thiệt hại không xảy ra. Nên có
tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại. Thiệt hại xảy ra cho
người khác được xuất phát từ hành vi trái pháp luật của ông Trung, nếu ông Trung không
thực hiện hành vi trái pháp luật thì sẽ không có thiệt hại bị xảy ra.
Câu 5: Thế nào là lỗi với tư cách là một căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng?
Lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố
ý hoặc vô ý. Lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi suy đoán.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để
mặc cho thiệt hại xảy ra.
4
- Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra
thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
BLDS năm 2005 cho rằng “lỗi” điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng nhưng không định nghĩa thế nào là “lỗi” mà chỉ nêu là “lỗi cố ý” hoặc “lỗi vô ý”
trong phần không thực hiện nghĩa vụ dân sự. (Khoản 2, Điều 308, BLDS 2005 về Lỗi trong
trách nhiệm dân sự).
Theo Tiểu mục 1.4, Mục 1, Phần I, Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP:
“1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để
mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy
trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy
ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
Nhìn chung, lỗi cũng được hiểu là “trạng thái tâm lý, thái độ tâm lý” hay nói cách khác là
nhận thức của con người (biết hoặc phải biết) đối với hành vi của mình. Quan hệ tâm lý ở
đây bao gồm hai yếu tố lý trí và ý chí:
- Yếu tố lý trí thể hiện ở nhận thức thực tại khách quan;
- Yếu tố ý chí thể hiện năng lực điều khiển hành vi.
Như vậy, một người bị coi là có lỗi khi người đó nhận thức được hoặc không nhận thức
được nhưng có đủ điều kiện thực tế để nhận thức được tính chất gây thiệt hại của hành vi
và có đủ điều kiện để điều khiển một hành vi khác không gây thiệt hại. Đó là căn cứ lỗi với
tư cách là một căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, còn
những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có
lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.
Câu 6: Lỗi và hành vi trái pháp luật nêu trên khác nhau ở điểm nào?
5
Lỗi
Hành vi trái pháp luật
- Là thái độ của người gây thiệt hại - Là hành vi xử sự của con người trái với quy
đối với hành vi và hậu quả đã thực
định của pháp luật.
hiện.
- Được thể hiện thông qua hành động hoặc
- Được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc không hành động.
vô ý.
- Hành vi trái pháp luật là hành vi mang yếu tố
- Lỗi là yếu tố chủ quan.
khách quan.
- Về bản chất, lỗi được xác định là quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật
với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện
thông qua các quy định của pháp luật. Khi một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa
chọn cách xử sự sao cho phù hợp với pháp luật, tránh gây thiệt hại cho chủ thể khác nhưng
vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm
lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh thái độ nhận thức của người đó đối với
hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện.
- Hành vi trái pháp luật là những hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp
luật cụ thể là làm những việc mà pháp luật cấm.
- Điểm khác biệt rõ rệt nhất chính là cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường. Cụ thể là
trong thực tiễn các Tòa án xét xử không lấy yếu tố lỗi làm cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại mà căn cứ vào hành vi có trái pháp luật hay không.
Như vậy có thể xem hành vi trái pháp luật là hình thức, còn lỗi là nội dung của một vi
phạm pháp luật. Một hành vi trái pháp luật được thực hiện không đương nhiên bao gồm
yếu tố lỗi.
Câu 7: Trên cơ sở sự khác biệt giữa lỗi và hành vi trái pháp luật nêu trên, ông Trung có lỗi
trong việc gây thiệt hại không? Vì sao?
- Trên cơ sở sự khác biệt giữa lỗi và hành vi trái pháp luật nêu trên, có thể nói ông Trung
không có lỗi trong việc gây thiệt hại.
- Vì theo như tình huống trên thì ta thấy ông Trung đã mắc bệnh tâm thần sau khi nghỉ hưu
nhưng do không có ai yêu cầu nên ông không bị Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự,
6
trong lúc do rối loạn thần kinh, ông đã gây thiệt hại cho người khác, tức là lúc đó ông
không biết và cũng không nhận thức được hành vi của mình (có cơ sở chứng minh) là gây
ra thiệt hại nên ông không có lỗi trong việc này.
Câu 8: Trong thực tiễn xét xử, đối với hoàn cảnh như ông Trung nêu trên, người gây thiệt
hại có chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không? Nếu có, cho biết thực tiễn xét xử mà
anh/chị biết.
- Trong thực tiễn xét xử, đối với hoàn cảnh như ông Trung nêu trên, người gây thiệt hại
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc người giám hộ của họ sẽ phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Thực tiễn xét xử, có 2 vụ việc theo hướng giải quyết đã nêu:
+ Vụ việc thứ nhất:
Do có mâu thuẫn từ trước vì tranh chấp đất đai nên sáng ngày 31-7-2010, giữa gia đình bà
T và vợ chồng ông M đã xảy ra cự cãi, xô xát. Trong lúc hai bên xô xát, con gái của ông M
đã dùng dao đâm bà T. Theo kết quả giám định, bà T bị tổn hại sức khỏe 45%. Tuy nhiên,
Công an huyện không khởi tố con gái của ông M vì người này bị bệnh tâm thần, chỉ áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau đó, TAND huyện cũng ra quyết định tuyên bố con
gái của ông M bị mất năng lực hành vi dân sự.
Tháng 5-2011, bà T đã gửi đơn đến TAND huyện khởi kiện vợ chồng ông M đòi bồi
thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại. Theo bà T, thương tật của bà do con gái của ông
M. gây ra nhưng người này bị mất năng lực hành vi dân sự nên vợ chồng ông M (người
giám hộ của người bệnh) phải bồi thường tổng cộng gần 80 triệu đồng.
+ Vụ việc thứ hai:
Khánh điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe hạng A1, do phóng nhanh vượt ẩu
nên xe mô tô do Khánh điều khiển va vào xe mô tô do ah Đức điều khiển đi ngược chiều
làm hai xe mô tô đổ. Hậu quả là anh Đức chết tại chỗ, hai xe mô tô bị hư hỏng nặng. Như
vậy, Khánh đã có hành vi gây thiệt hại. Tuy nhiên, tại biên bản giám định pháp y tâm thần
của Tổ chức giám định Pháp y tâm thần Hà Nội kết luận: Về y học - Đối tượng bị bệnh rối
loạn loại phân liệt; Về pháp luật - Do bệnh tật khả năng nhận thức và điều khiển hành vi bị
7
hạn chế. Đối tượng được miễn một phần năng lực trách nhiệm hình sự. Tòa án đã xét rằng:
“Căn cứ yêu cầu gia đình bị thiệt hại và thiệt hại thực tế, cần buộc bị cáo phải bồi thường
1.639.000 đồng tiền sửa chữa xe máy của anh Đức bị hư hỏng. Tiền mai táng phí khoảng 8
triệu. Tiền tổn thất cho gia đình người bị hại 10 triệu đồng. Về phần nuôi hai con chung
của anh Đức, chị Nhiên là cháu Qúy sinh 8-10-1996 và Quyền sinh 31-9-1999 đến khi
trưởng thành mỗi cháu là 350.000đồng/tháng. Phần trách nhiệm của anh Đức là là
175.000đồng/tháng. Do vậy, cần buộc bị cáo Khánh phải bồi thường các khoản nêu trên
theo quy định tại khoản 1,2 Điều 610 BLDS 2005”.
Như vậy, cho dù người có hành vi gây thiệt hại đi chăng nữa do không nhận thức được
hành vi của mình thì người này vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự theo các quy định của
pháp luật dân sự4.
Câu 9: Những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về yếu tố lỗi và suy nghĩ của
anh/chị về vai trò của yếu tố “lỗi” trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Điều 604 của BLDS năm 2005 quy định:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”.
- Khoản 1,2 Điều 584 của BLDS năm 2015 quy định:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường,
trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt
hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
4
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. ĐH Quốc gia TP.HCM
2014, tr.134-135.
8
Theo Điều 604 BLDS 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng yêu cầu
người gây thiệt hại phải có “lỗi cố ý hoặc vô ý”. Nghị quyết số 03/2006-NQ-HĐTP ngày
08/7/2006 của Hội đông Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ yếu tố sau: Phải có thiệt
hại xảy ra, phải có hành vi trái pháp luật, phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy
ra và hành vi trái pháp luật, phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.”
Với quy định trên, ngoài việc chứng minh người gây thiệt hại có “hành vi trái pháp luật”,
cần phải chứng minh thêm rằng người gây thiệt hại phải có “lỗi cố ý hay vô ý”, tức phải có
lỗi. Nếu theo hướng này, người tâm thần (chưa bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự) không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì không có lỗi (cố ý hay vô ý) và
điều này rất bất lợi cho người bị thiệt hại.
Do vậy, Điều 584 của BLDS 2015 đã khắc phục nhược điểm này.
Ở đây chỉ cần tồn tại yếu tố có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có hành vi trái pháp luật (xâm
phạm tới lợi ích của người khác mà không thuộc trường hợp không chịu trách nhiệm bồi
thường) và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra
đã làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, không cần xem xét người gây thiệt hại
có lỗi hay không có lỗi.
Như vậy, so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã bỏ đi yếu tố lỗi khi xem xét một người gây
thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Sự thay đổi của BLDS năm 2015 so với BLDS 2005 về yếu tố lỗi là hợp lí, đảm bảo
được quyền lợi của người bị thiệt hại, đặc biệt trong trường hợp thiệt hại đó do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra. Trong trường hợp đó, người gây thiệt hại không có lỗi do
không có khả năng nhận thức,điều khiển hành vi nên không phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Nếu áp dụng BLDS 2015 đòi hỏi về yếu tố lỗi sẽ đặt ra vấn đề ai là người bồi
thường thiệt hại đáng lí phải được hưởng của người bị thiệt hại.
Ở góc độ văn bản, Luật thương mại trước đây có yêu cầu “lỗi” để làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường nhưng Luật thương mại 2005 đã bỏ yếu tố lỗi (chỉ cần hành vi vi phạm,
thiệt hại, quan hệ nhân quả) và việc bỏ yếu tố lỗi này không gây ra bất cứ khó khăn gì mà
ngược lại tạo sự thuận lợi trong việc vận dụng. Văn bản mới và hiện đại nhất do Quốc hội
9
thông qua về bồi thường thiệt hại là Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
cũng theo hướng này. Điều 6 về căn cứ xác định nhấn mạnh yếu tố “trái pháp luật” và
không đề cập đến “yếu tố lỗi”.
Ở góc độ so sánh, Pháp hay một số nước khác5, theo Điều 1340-1 Dự thảo sửa đổi Bộ
luật Dân sự Pháp: “người gây thiệt cho người khác vẫn có trách nhiệm bồi thường cho dù
người này không có khả năng nhận thức”. Thổ Nhĩ Kỳ khi tiến hành sửa đổi pháp luật và
họ cũng theo hướng người gây thiệt hại phải bồi thường cho dù không có khả năng nhận
thức.
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án ở nước ta đã theo hướng người điên cũng phải bồi thường
khi gây ra thiệt hại (như làm chết người).
II. Vấn đề 2: Xác định thiệt hại vật chất khi tính mạng bị xâm phạm.
Câu 1: Đoạn nào của bản án trên cho thấy Tòa án đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi
phí vé máy bay và thuê ô tô với tư cách là chi phí hợp lí cho việc mai táng?
Đoạn của bản án trên cho thấy Tòa án đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy
bay và thuê ô tô với tư cách là chi phí hợp lí cho việc mai táng:
“Hội đồng xét xử xét thấy, chi phí hợp lý cho việc mai táng anh Quyên gồm: Chi phí vé
máy bay 5.175.000đ, tiền thuê ô tô từ sân bay đến bệnh viện 500.000đ, tiền thuê xe ô tô
chở thi hài anh Quyên về quê 22.000.000đ, tiền bồi dưỡng lái xe 600.000đ, tiền chi phí trên
đường đưa thi hài anh Quyên về quê là 2.000.000đ; tiền thuê lều bạt, bàn ghế 3.000.000đ;
tiền đất, công đào huyệt 2.500.000đ, tiền xe chở người bị hại đi mai táng 1.500.000đ, tổng
cộng 37.275.000đ”
Câu 2: Nghị quyết 03 của HĐTP có quy định chi phí hợp lí đi lại dự tang lễ được bồi
thường không? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
Nghị quyết 03 của HĐTP không có quy định chi phí hợp lí đi lại dự tang lễ được bồi
thường.
Căn cứ vào Mục 4, Phần I về Chi phí hợp lí:
5
Xem G.Viney: Introduction à la ressponsabilité, LGDJ 2008, tr.38.
10
“Các khoản chi phí hợp lý quy định tại các điểm a và c khoản 1 Điều 609, các điểm b và
c khoản 1 Điều 610 và điểm a khoản 1 Điều 611 BLDS là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp
với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời
điểm chi phí”.
Điểm b và c, Khoản 1, Điều 610, BLDS 2005 về Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng”.
Theo đó, nghị quyết 03 không quy định chi tiết chi phí đi lại dự tang lễ được bồi thường
mà chỉ quy định các khoản chi phí hợp lí cho việc mai táng theo trường hợp tại Điểm b và
c, Khoản 1, Điều 610, BLDS 2005 là chi phí thực tế cần thiết và cần được bồi thường.
Câu 3: Trong vụ việc trên Tòa án có cho biết ai bỏ ra chi phí máy bay và thuê ô tô trên
không?
Trong vụ việc trên Tòa án không cho biết ai bỏ ra chi phí máy bay và thuê ô tô.
Tuy nhiên, Tòa án đã gián tiếp khẳng định rằng chị Đỗ Thị Bảy là người bỏ ra chi phí
máy bay và thuê xe ô tô vì đây là một trong những khoản được tính trong chi phí mai táng.
Trong bản án có đoạn: “Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Phạm Văn Uyên yêu cầu các bị cáo
bồi thường cho chị Đỗ Thị Bảy là người đại diện người bị hại toàn bộ chi phí mai táng là
73.700.000đ.”
Câu 4: Căn cứ vào thực tiễn xét xử, cách giải quyết trên có thuyết phục không? Vì sao?
Căn cứ và thực tiễn xét xử cách giải quyết trên là thuyết phục.
Thực tiễn từ Bản án số 331/2012 hình sự phúc thẩm ngày 27 tháng 9 năm 2012 của tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng:
Việt thường xuyên gây chuyện với Hai, tối 12/10/2011 việt cầm dao tìm hai để gây
chuyện đánh nhau nên Việt đã bị Huy (anh ruột Hai) dùng roi đện dí vào người, Hai dùng
kiếm chém. Hậu quả việt bị tử vong. Tòa án buộc bị cáo Huy và Hai phải liên đới bồi
11
thường chi phí cấp cứu, mai táng 62760000đ cho gia đình người bị hại, người đại diện
nhận là ông Hào.
Theo đó, hướng giải quyết của tòa án là yêu cầu buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường
chi phí cấp cứu mai táng cho gia đình người bị hại. Chi phí này là chi phí thực tế cần thiết
phù hợp với tính chất mức độ thiệt hại.
Câu 5: Nếu đó là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự tang lễ thì có được bồi thường
không? Vì sao?
Nếu đó là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự tang lễ thì cũng không được bồi thường.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 610, BLDS 2005:
“2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định
tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những
người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những
người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi
dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về
tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu
mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.
Và Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 về Người thừa kế theo pháp luật
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;”
Như vậy, cháu của anh Quyên (người bị thiệt hại) không phải là hàng thừa kế thứ nhất
của anh Quyên nên theo nội dung tại Khoản 2, Điều 610 thì cháu bị hại không được bồi
thường chi phí để đi dự tang lễ.
Căn cứ vào tiểu mục 2.1 và 2.2 phần II NQ 03/2006/NQ-HĐTP:
“2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi
chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị
mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1
Phần II này.
12
2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật
dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản
chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không
chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...”
Xét thấy nội dung quy định tại NQ 03/2006/NQ-HĐTP về việc xác định thiệt hại do tính
mạng bị xâm phạm thì không xác định chi phí đi lại để dự lễ tang của người thân người bị
thiệt hại cũng là thiệt hại. Vậy nên, chi phí này không được xem xét để bồi thường.
Câu 6: Tòa án đã buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho ai? Đoạn
nào của bản án cho câu trả lời?
- Tòa án đã buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho con của anh
Phạm Văn Quyên là hai cháu Phạm Thị Thu Trang và Phạm Quỳnh Nga.
- Đoạn của bản án cho thấy:
“Về trợ cấp nuôi con của người bị hại, đại diện người bị hại yêu cầu mỗi tháng, các bị
cáo phải trợ cấp:
Nuôi cháu Phạm Thị Thu Trang cho chị Nguyễn Thị Lương số tiền 108.500đ (Một trăm
lẻ tám ngàn năm trăm đồng) (Ông Phạm Văn Y nhận thay chị Lương).
Nuôi hai cháu Phạm Thị Thu Trang và Phạm Quỳnh Nga mỗi cháu số tiền là 800.000đ
(Một trăm lẻ tám ngàn năm trăm đồng)”.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến tiền cấp
dưỡng.
Hướng xác định mức tiền cấp dưỡng của Tòa án là chưa thuyết phục.
Theo bản án, Tòa án yêu cầu các bị cáo trợ cấp nuôi dưỡng con của người bị hại cho đến
khi hai đứa con người bị hại được 18 tuổi. Căn cứ vào khoản 2.3 nghị quyết 03/2006
NQTP thì hướng giải quyết của Tòa án là thoả đáng. Bởi rằng, các bị cáo đã cướp đi tính
mạng của bố hai đứa trẻ thì điều đương nhiên là các bị cáo phải có trách nhiệm nuôi
dưỡng, phụ cấp cho những đứa trẻ này cho đến khi chúng đến 18 tuổi. Tuy nhiên mức cấp
dưỡng được bồi thường thì Toà án xác định chưa thực sự hợp lí. Bởi lẽ, khi xác định mức
13
bồi thường thì phải phụ thuộc vào khả năng của người cấp dưỡng trước đó. Vì vậy, Tòa án
nên làm rõ mức thu nhập bình quân hàng tháng của anh Quyên khi còn sống để mà tính
toán khoản tiền bù đắp thích hợp.
Câu 8: BLDS 2005 có quy định ngày phát sinh trách nhiệm bồi thường tiền cấp dưỡng và
ngày kết thúc trách nhiệm này cho người thân của nạn nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
BLDS 2005 không quy định ngày phát sinh trách nhiệm bồi thường tiền cấp dưỡng nhưng
lại có quy định ngày kết thúc trách nhiệm này cho người thân của nạn nhân.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 612, BLDS 2005 về Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do
tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm:
“2. Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ
cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:
a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống
sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp
người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu
nhập đủ nuôi sống bản thân;
b) Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng
cho đến khi chết”.
Về thời điểm cuối cùng phải bồi thường tiền cấp dưỡng, khoản 2 Điều 612 BLDS 2005
quy định khá rõ, cụ thể là người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người
chết và còn sống sau khi sinh ra thì được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám
tuổi và người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì được hưởng tiền cấp
dưỡng cho đến khi chết.
Còn về thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường cấp dưỡng, BLDS chưa cho chúng ta
biết trách nhiệm này bắt đầu từ ngày nào. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử, Tòa án thường
xác định thời điểm cá nhân chết là ngày bắt đầu trách nhiệm cấp dưỡng và hướng xác định
này là thuyết phục vì cho đến khi cá nhân chết họ không bị mất giảm thu nhập hoặc được
14
bồi thường mất giảm thu nhập (trong trường hợp bị thương một thời gian rồi mới chết) nên
thu nhập của họ giúp cấp dưỡng cho người thân vẫn còn6.
Câu 9: Trong thực tiễn xét xử (ngoài bản án được bình luận), hướng xác định ngày phát
sinh trách nhiệm bồi thường tiền cấp dưỡng như thế nào? Nêu rõ bản án/quyết định mà
anh/chị biết.
Trong thực tiễn xét xử, hướng xác định ngày phát sinh trách nhiệm bồi thường tiền cấp
dưỡng có được xác định là ngày Tòa tuyên án.
Chẳng hạn có một trường hợp được xét xử trên thực tiễn như sau:
Ngày 5-10-2004 Tú điều khiển xe môtô là xe của ông Mỹ đi giao bánh phở theo yêu cầu
của ông Mỹ (Tú không có giấy phép lái xe hạng A1). Khi đi trên đường, Tú cho xe chạy
tốc độ 45-50km/h và gây tai nạn làm chị Thoa đang đi bộ qua đường chết khi được đưa đến
bệnh viện. Liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng, Tòa án sơ thẩm tuyên buộc ông Mỹ: “Hàng
tháng phải cấp dưỡng 290.000 đồng cho cháu Cương cho đến khi đủ 18 tuổi, thời gian cấp
dưỡng tính từ khi tuyên án”. Khi xem xét phúc thẩm, có Tòa phúc thẩm đã xử rằng: “Ông
Mỹ cấp dưỡng cho cháu Cương sinh ngày 4-11-1985 mỗi tháng 290.000 đồng, thời gian
cấp dưỡng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm”.
Bên cạnh đó, hướng xác định trên có nhiều trường hợp không được chấp nhận, mà Toà án
lại công nhận hướng xác định tính từ ngày người bị hại chết. Cụ thể, tại Quyết định số
26/HS-GĐT ngày 8/9/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:
Toà án cấp phúc thẩm đã xác định anh Hải (người gây thiệt hại) phải cấp dưỡng cho con
của anh Hậu (người bị thiệt hại, tử vong do hành vi của anh Hải gây ra) và thời gian cấp
dưỡng Toà án cấp phúc thẩm quyết định bắt đầu tính từ ngày xét xử sơ thẩm. Toà án nhân
dân tối cao đã bác bỏ việc xác định trên và xác định ngày bắt đầu cấp dưỡng là ngày người
bị hại chết.
Câu 10: Trong vụ việc trên, Tòa án đã xác định ngày bắt đầu trách nhiệm bồi thường tiền
cấp dưỡng là ngày nào ?
6
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. ĐH Quốc gia TP.HCM
2014, Bản án số 64-68, tr 539.
15
- Trong vụ việc trên, Tòa án đã xác định ngày bắt đầu trách nhiệm bồi thường tiền cấp
dưỡng là ngày 25/5/2008 – ngày anh Quyên bị đâm chết.
- Đoạn của bản án cho thấy:
“Thời gian trợ cấp từ ngày 25/5/2008 đến khi các cháu Phạm Thị Thu Trang và Phạm
Quỳnh Nga đủ 18 tuổi”.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến ngày bắt
đầu trách nhiệm bồi thường tiền cấp dưỡng.
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý, có tính thuyết phục.
Theo nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP xác định ngày bắt đầu nghĩa vụ cấp dưỡng là “từ
thời điểm tính mạng bị xâm phạm”. Nhưng ngày này là ngày nào thì nghị quyết không nêu
rõ. Thiết nghĩ thời điểm bắt đầu nghĩa vụ cấp dưỡng là ngày chết của người có tính mạng
bị xâm phạm là giải pháp có thuyết phục hơn cả. Trong trường hợp này thì vào ngày
25/05/2008 thì giữa anh Thọ và anh Hùng có mâu thuẫn với anh Mơ, anh Bảy và anh
Quyên. Và sau đó anh Quyên bị anh Hưng (bạn anh Thọ dùng dao chém vào cổ gây tử
vong cho nạn nhân. Như vậy ngày 25/05/2008 là ngày anh Quyên chết. Do đó việc Tòa án
đã xác định ngày bắt đầu trách nhiệm nuôi dưỡng cho cháu Trang và Cháu Nga là ngày
25/05/2008 đã phù hợp với luật.
Câu 12: Nếu cháu Nga sinh ngày 28/10/2008 thì ngày bắt đầu trách nhiệm cấp dưỡng là
ngày nào? Vì sao?
Nếu cháu Nga được sinh ra và còn sống thì ngày bắt đầu trách nhiệm cấp dưỡng là ngày
28/10/2008.
Căn cứ theo Điểm a, Khoản 2, Điều 612, BLDS 2005 về Thời hạn hưởng bồi thường thiệt
hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm
“2. Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ
cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:
a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống
sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp
16
người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu
nhập đủ nuôi sống bản thân;”
Nếu cháu Nga sinh ngày 28/10/2008 thì ngày bắt đầu trách nhiệm cấp dưỡng là ngày cháu
bé được sinh ra và còn sống vì khi anh Quyên chết một thời gian thì trách nhiệm cấp dưỡng
cho cháu Nga mới phát sinh, trước khi anh Quyên chết thì chị Bảy mới mang thai được 5
tháng, 4 tháng sau đứa trẻ mới ra đời, như vậy khi đứa trẻ ra đời thì người gây thiệt hại mới
có trách nhiệm cấp dưỡng cho đứa trẻ.
III. Vấn đề 3: Xác định người có trách nhiệm bồi thường (cùng gây thiệt hại).
Câu 1: Trong phần “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS, trách
nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp nào?
Theo quy định tại Điều 616, BLDS 2005 về Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây
ra:
“Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi
thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại
được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ
lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau”.
Như vậy, theo BLDS thì trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong
trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại. Cụ thể:
- Thứ nhất, cùng cố ý gây ra thiệt hại, tức là có cùng ý chí, cùng nhau thực hiện một hành
vi hoặc là những người này không cùng ý chí nhưng đều có thể nhận thức được hành vi đó
là trái pháp luật, có thể gây ra thiệt hại nhưng vẫn thực hiện hành vi đó. Trường hợp này,
nếu người bị gây ra thiệt hại không có lỗi thì đương nhiên những người gây ra thiệt hại
phải bồi thường, còn trong trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi thì sẽ bồi thường thiệt
hại theo quy định tại Điều 617, BLDS 2005.
- Thứ hai, cùng vô ý gây ra thiệt hại, trường hợp này nếu như người bị thiệt hại cũng có
lỗi thì những người gây ra thiệt hại bồi thường theo quy định tại Điều 617, BLDS 2005,
nhưng nếu người gây ra thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng của những người cùng gây thiệt hại được xác định trong hai trường hợp
17
liên đới bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi chủ sở hữu để
người khác chiếm hữu sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ (Khoản 4, Điều 623,
BLDS 2005) và trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu súc vật và người
thứ ba khi họ cùng có lỗi để súc vật gây thiệt hại cho người khác (Khoản 2, Điều 625,
BLDS 2005).
- Thứ ba, vừa cố ý vừa vô ý gây ra thiệt hại, trường hợp nay là gộp lại giữa hai trường
hợp trên, hướng giải quyết sẽ tách ra thành từng bên có lỗi vô ý và có lỗi cố ý để giải
quyết.
Câu 2: Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác định chính
xác được người gây thiệt hại cho bà Khánh không?
Bà Khánh bị thiệt hại về tài sản trong lúc anh Hải, chị Tám, chị Hiền giằng co, xô xát với
nhau.
Không xác định được chính xác ai là người gây ra thiệt hại cho bà Khánh, chỉ biết bà
Khánh bị thiệt hại do xô xát giữa chị Tám và chị Hiền với anh Hải gây ra nên cả ba người
phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Khánh.
Câu 3: Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền và
anh Hải liên đới bồi thường?
Đoạn của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền và anh Hải liên
đới bồi thường:
“Về phần thiệt hại tài sản, bà Khánh trước đây yêu cầu 324.000đ (ba trăm hai mươi bốn
ngàn đồng), nhưng sau đó yêu cầu 800.000đ (tám trăm ngàn đồng) và yêu cầu anh Hải phải
bồi thường cho bà toàn bộ số tiền này. Xét thiệt hại về tài sản của bà Khánh do xô xát giữa
chị Tám và chị Hiền với anh Hải đã dẫn đến là hai chiếc ghế gỗ bị gãy chân và các loại
bánh, trứng tại quán bà Khánh bị đổ, bể…trong quá trình xô xát là có thật. Do vậy, cần
buộc những người này liên đới bồi thường cho bà Khánh, tuy nhiên bà Khánh chỉ khởi kiện
yêu cầu đối với anh Hải, do đó Tòa án chỉ xem xét phần trách nhiệm của anh Hải, buộc anh
18
Hải phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Khánh bằng 1/3 số tiền bà yêu cầu là
267.000đ (hai trăm sáu mươi bảy ngàn đồng)”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về trách nhiệm liên đới.
Hướng giải quyết của Toà án là thuyết phục.
Theo khoản 1 Điều 288 quy định: “Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng
phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ
phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”. Mặc dù trong bản án trên thì chỉ có bà Lan là người thực
hiện hành vi (bà Lan đã đánh vào mặt gây thương tích ở mắt trái làm cho bà Hộ bị loét giác
mạc mắt trái) nhưng ông Bảo cũng có hành vi là đã kêu gọi các con đánh bà Hộ. Trường
hợp của ông Bảo cũng giống như đồng phạm trong Luật hình sự. Mặt khác hướng giải
quyết của Tòa án khá gần gũi với Bộ nguyên tắc Châu Âu vê bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Bởi điểm a, khoản 1, Điều 9.101: “Trách nhiệm liên đới phát sinh khi một người
làm nảy sinh hay thúc đẩy hành động xấu của chủ thể khác gây thiệt hại cho nạn nhân”.
Như vậy việc Tòa giải quyết theo hướng buộc ông Bảo phải có trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại cho bà Hộ là đúng, đảo bảm được quyền lợi cho bà Hộ.
Câu 5: Trong quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?
Trong quyết định số 226, bà Nguyễn Huệ Lan là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ.
Đoạn trong quyết định cho thấy:
“Hành vi trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ là Nguyễn Huệ Lan…”.
Câu 6: Trong quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Hộ?
Trong quyết định số 226, ông Trần Thúc Bảo là người phải liên đới bồi thường thiệt hại
cho bà Hộ.
Đoạn trong quyết định cho thấy:
“… song cũng cần phải xem xét trách nhiệm dân sự của người khởi xướng trong vụ án cố
ý gây thương tích là ông Trần Thúc Bảo, người đã kêu các con đánh bà Hộ, việc bà Hộ bị
19
thương tích dẫn đến hỏng mắt có quan hệ nhân quả của ông Bảo. Do đó cần buộc ông Bảo
phải chịu trách nhiệm dân sự cùng với Nguyễn Huệ Lan”.
Câu 7: Hướng giải quyết trong quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có nêu tóm tắt
tiền lệ đó.
Hướng giải quyết trong Quyết định 226 đã có tiền lệ.
Theo Quyết định số 114/2006/DS-GĐT ngày 26-5-2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao:
Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận ông An là người chủ mưu, khởi
xướng, rủ rê con cháu cùng gây thương tích cho Hiền. Tại đơn khởi kiện, anh Hiền yêu cầu
ông An phải bồi thường thiệt hại, do đó theo quy định của Bộ luật Dân sự thì ông An là
người có lỗi cố ý cùng gây thiệt hại nên phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho anh Hiền.
Anh Hiền có thể khởi kiện yêu cầu một trong những người cùng gây thiệt hại phải bồi
thường. Cùng tham gia gây thương tích cho anh Hiền còn có anh Bằng (con trai ông An),
sau khi gây thương tích cho anh Bằng anh An đã bị chết nên anh Hiền chỉ khởi kiện ông
An bồi thường. Vì vậy, căn cứ vào đơn khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông An là
bị đơn dân sự là đúng7.
Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm liên đới.
Hướng giải quyết trên của Tòa án là phù hợp.
Trong tình huống trên mặc dù bà Nguyễn Huệ Lan là người trực tiếp gây ra thương tích
cho bà Hộ, tuy nhiên cũng cần chú ý đến người khởi xướng trong vụ án này là ông Trần
Quốc Bảo. Ông Bảo đã có hành vi kêu các con đánh bà Hộ và gây thương tích cho bà Hộ.
Do đó, ông Bảo đã gián tiếp và có lỗi trong việc gây ra thương tích cho bà Hộ. Việc Toà
giám đốc thẩm xác định ông Bảo phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường với bà Lan cho
bà Hộ là thoả đáng.
Và theo Điều 616 BLDS 2005:
7
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Bản án và bình luận bản án, Nxb. ĐH QG TP.HCM năm 2014, tr.9.
20
“Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương xứng
với mức độ lỗi của mỗi người”.
Ở đây, Tòa án đã xét theo tính chất mức độ phạm tội của từng bị cáo cũng là mức độ lỗi
đối với người bị thiệt hại để xác định số tiền phải bồi thường cho người bị thiệt hại là hợp
lí, không làm ảnh hưởng tới quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Câu 9: Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi
thường?
Trong Bản án số 19, bà Khánh ban đầu yêu cầu 324.000 đồng, nhưng sau đó yêu cầu
800.000 đồng và yêu cầu anh Hải phải bồi thường.
Đoạn của Bản án cho thấy điều đó:
“Về phần thiệt hại tài sản, bà Khánh trước đây yêu cầu 324.000đ (ba trăm hai mươi bốn
ngàn đồng), nhưng sau đó yêu cầu 800.000đ (tám trăm ngàn đồng) và yêu cầu anh Hải phải
bồi thường cho bà toàn bộ số tiền này”.
Câu 10: Bản án số 19, Tòa án đã yêu cầu anh Hải bồi thường bao nhiêu?
Bản án số 19, Tòa án đã yêu cầu anh Hải bồi thường 267.000 đồng.
Đoạn của Bản án cho thấy điều đó:
“Do đó, cần vuộc những ngươì này phải liên đới bồi thường cho bà Khánh, tuy nhiên nà
Khánh chỉ khởi kiện yêu cầu đối với anh Hải, do đó toà án chỉ xem xét phần trách nhiệm
của anh Hải phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Khánh bằng 1/3 số tiền bà yêu cầu
là 267.000đ (hai trăm sáu mươi bảy ngàn đồng)”.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải.
Việc Tòa án quyết định để anh Hải chỉ bồi thường 1/3 số tiền thiệt hại của bà Khánh là
chưa thực sự thỏa đáng.
Bởi vì theo trong quá trình xô xát có xảy ra lỗi của cả 3 người là: chị Tám, chị Hiền và
anh Hải nên theo Điều 298 và Điều 616, BLDS 2005 thì trách nhiệm bồi đó thuộc về cả ba
21
người. Nhưng bà chỉ yêu cầu anh Hải thực hiện trách nhiệm bồi thường, do vậy anh Hải
chỉ chịu 1/3 số tiền gây thiệt hại cho bà Khánh.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp Tòa án cần xác định trách nhiệm lỗi do ai gây thiệt
hại nhiều hơn thì phải bồi thường nhiều hơn. Không phải mọi lúc ta phải chia phần tách
nhiệm theo số người gây ra thiệt hại cho người bị hại
Đồng thời đối với vụ việc của chị Hiền thì các lời khai của các nhân chứng khác nhau và
bà Khánh (người được chị Hiền ủy quyền) không xuất trình được các tài liệu chứng minh
được chính anh Hải là người gây thương tích cho chị Hiền nên không có cơ sở buộc anh
Hải phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về phần thương tích hiện có của chị Hiền.
IV. Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế.
Câu 1: Theo BLDS 2005, trong những điều kiện nào một người được giảm mức thiệt mà họ
có trách nhiệm bồi thường? Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS.
Khoản 2, Điều 605, BLDS 2005 về Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
“2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”.
Để được giảm mức bồi thường thiệt hại cần có hai điều kiện sau:
- Người gây thiệt hại có lỗi vô ý, tức là người gây thiệt hại không lường trước được hành
vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho chủ thể khác.
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây ra
thiệt hại. Điều này có nghĩa là xét tại thời điểm bồi thường cũng như trong tương lai thì
người gây ra thiệt hại không có đủ khả năng kinh tế để bồi thường phần lớn hay toàn bộ
thiệt hại mà mình gây ra.
Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án xác định bà Lan có lỗi vô ý đối với thiệt hại
của của ông Mạnh?
Đoạn của bản án cho thấy Tòa án xác định bà Lan có lỗi vô ý đối với thiệt hại của ông
Mạnh là:
22
“Trong trường hợp này việc xảy ra cháy nhà và gây thiệt hại cho ông Mạnh là do lỗi của
bà Lan để cho hệ thống điện quá cũ kỹ gây nên chập điện, cháy nhà và thời điểm phát cháy
bà đã nhờ người làm trông coi mà không có sự cảnh giác cao độ, tuy nhiên đây chỉ là lỗi vô
ý…”.
Câu 3: Suy nghị của anh/chị về cách xác định lỗi vô ý trên của Tòa án đối với bà Lan.
Cách xác định lỗi vô ý của Tòa án đối với bà Lan là thoả đáng.
Theo nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP: “Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không
thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết trước hoặc có thể
biết trước thiệt hại xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
Trong trường hợp của bà Lan thì bà Lan có lỗi vô ý gây thiệt hại. Bởi lẽ nhà ông Mạnh
cháy bắt nguồn từ gia đình bà Lan. Cụ thể là do hệ thống điện của gia đình bà quá cũ kỹ,
gây nên chập điện cháy nhà.
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 623, BLDS 2005 về Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra:
“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống
tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất
phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ,
vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật”.
Theo quy định trên thì hệ thống tải điện trong Bản án số 81 là nguồn nguy hiểm cao độ
nên bà Lan phải tuân thủ các quy định, trông giữ hệ thống tải điện. Do đó, bà có trách
nhiệm phải biết trước được hậu quả có thể xảy ra khi hệ thống tải điện này xảy ra sự cố. Vì
thế Tòa án xác định bà Lan có lỗi vô ý đối với thiệt hại của ông Mạnh là hợp lý.
Câu 4: Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án giảm mức bồi thường cho bà Lan?
Đoạn của bán án cho thấy Tòa án giảm mức bồi thường cho bà Lan là:
23
“...Trong trường hợp này việc xảy ra cháy nhà và gây thiệt hại cho ông Mạnh là do lỗi của
bà Lan để cho hệ thống điện quá cũ kỹ gây nên chập điện, cháy nhà và thời điểm phát cháy
bà đã nhờ người làm trông coi mà không có sự cảnh giác cao độ, tuy nhiên đây chỉ là lỗi vô
ý và hoàn cảnh kinh tế hiện nay của bà Lan rất khó khăn, nợ nần, bệnh tật, tuổi cao, nuôi
con bệnh tâm thần và mức bồi thường trên là quá cao so với khả năng kinh tế của bà Lan
nên cần xem xét giảm mức bồi thường cho bà 20% là phù hợp, nghĩ nên chấp nhận”.
Câu 5: Mức bồi thường được giảm bao nhiêu? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Mức bồi thường được giảm là 145.200.200đ xuống còn 76.160.000đ.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời:
“...mức bồi thường trên là quá cao so với khả năng kinh tế của bà Lan nên cần xem xét
giảm mức bồi thường cho bà 20% là phù hợp, nghĩ nên buộc bà Lan bồi thường cho ông
Mạnh 80% mức thiệt hại nêu trên, tức là 76.160.000 đồng. Đồng thời cần buộc bà Lan bồi
thường chi phí mắc điện mới của ông Mạnh theo liệt kê là 310.364 đồng là phù hợp”.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/ chị về việc Tòa án quyết định giảm mức bồi thường cho bà Lan
(đánh giá từng điều kiện nêu trong BLDS để giảm mức bồi thường).
Việc Tòa án quyết định giảm mức bồi thường cho bà Lan là phù hợp với quy định của
BLDS năm 2005, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ việc.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 605, BLDS 2005 quy định Về Nguyên tắc bồi thường thiệt
hại:
“2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”.
Trong vụ việc của bà Lan, điện chập làm cháy khu trọ của bà đồng thời lan sang nhà ông
Mạnh làm tài sản bị thiêu rụi toàn bộ, ngoại trừ hai chiếc xe máy. Tòa án theo hướng giải
quyết buộc bà Lan bồi thường cho ông Mạnh. Bên cạnh đó, Tòa cũng xem xét giảm mức
bồi thường của bà Lan cho ông Mạnh dựa trên những căn cứ sau:
- Xét trên phương diện lỗi: Điểm b, Tiểu mục 1.4, Mục 1, Phần II, của Nghị Quyết số
03/NQ-HĐTP quy định:
24