Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Qúa trình tiếp xúc văn hóa của nhóm cư dân Môn Khơ me ở vùng Tây Bắc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.93 KB, 9 trang )

Quá trình tiếp xúc văn hoá của nhóm c dân Môn Khơ me ở
vùng Tây Bắc Việt Nam
TS. Đặng Thị Hoa
Viện Dân tộc học
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, nhóm c dân Môn Khơ me ở
Tây Bắc Việt Nam có nguồn gốc bản địa. Nhng cũng có quan điểm cho rằng
nhóm c dân này di c từ phía Bắc và sống rải rác ở khu vực Tây Bắc Việt Nam và
Bắc Lào. Trong lịch sử, nhóm c dân này đã có quá trình di chuyển c và bị xé lẻ,
c trú xen kẽ với các nhóm c dân Tày Thái và Hmông Dao ở khu vực Tây
Bắc Việt Nam.
Trong quá trình cộng c, nhóm c dân Môn Khơ me đã có quá trình tiếp
xúc về văn hoá. Nhiều yếu tố văn hoá Môn Khơ me vẫn đợc bảo lu trong
phong tục tập quán, nhng cũng mang nhiều yếu tố văn hoá của các nhóm c dân
khác cùng c trú cận kề nh văn hoá của ngời Thái. Quá trình tiếp xúc văn hoá
của nhóm c dân Môn Khơ me diễn ra không đồng đều ở các tộc ngời cả về
phong tục tập quán, ngôn ngữ. Có dân tộc vẫn giữ đợc ngôn ngữ riêng (dân tộc
Khơ mú, Kháng, La Ha) nhng cũng có nhóm không còn giữ đợc ngôn ngữ riêng
mà đã bị đồng hoá bởi ngôn ngữ của ngời Thái (dân tộc Xinh Mun). Quá trình
tiếp xúc cũng diễn ra không đồng đều theo khu vực, địa bàn c trú. ở những nơi
c trú khá biệt lập, nét riêng của văn hoá Môn Khơ me vẫn đợc bảo lu, trong
khi đó ở một số nơi, sự pha trộn, hoà đồng văn hoá đã làm thay đổi văn hoá của
nhóm c dân Môn Khơ me.

1


Quá trình tiếp xúc văn hoá của nhóm c dân Môn Khơ me ở vùng Tây
Bắc Việt Nam
TS. Đặng Thị Hoa
Viện Dân tộc học


Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Nhóm c dân Môn Khơ me ở Tây bắc Việt Nam thuộc ngữ hệ Nam á, mặc dù không
có chung về nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ và văn hoá nhng lại có tên gọi chung là "Xá" - theo
cách gọi của ngời Thái. Dẫn theo Nguyễn Chí Huyên, "trên đờng từ An nam đến Vân Nam
(thuộc địa phận từ Phong Châu đến châu Cam Đờng - lào Cai) là địa bàn c trú của ngời Sinh
Lão - là tên phiếm xng chỉ chung cả các tộc ngời ngôn ngữ Môn - Khơ me (Kháng, La Ha,
Xinh Mun)"(1).
Theo sử cổ Thái Tây Bắc có ghi chép vào thế kỷ XI- XII, khi ngời Thái chiếm đánh
vùng Nghĩa Lộ và vùng ven sông Đà đã gặp sự kháng cự của một nhóm các tộc ngời "Xá".
Cuộc đánh chiếm mở rộng đất đai của Lạng Chợng đợc miêu tả kỹ lỡng trong "Quán tố mơng" quá trình kéo quân của Lạng Chợng chiếm vùng Mờng Chiến, Mờng Trại, Mờng Bú, Mờng Muỗi (Thuận Châu); Mờng é, Mờng Quài (Tuần Giáo). Đây cũng là vùng c trú lâu đời
và ổn định của nhóm c dân Môn- Khơ me cho đến ngày nay.
Theo cố giáo s Vơng Hoàng Tuyên, trong Các dân tộc nguồn gốc Nam á ở miền Bắc
Việt Nam, cho rằng, trong quá khứ xa xăm của lịch sử, các dân tộc nói tiếng Môn-Khơ me là
lớp nhân chủng cổ xa nhất ở khu vực Đông Dơng. Điều này là một thực tế lịch sử. các nhóm
Mạng Ư, Xá Cẩu, Xá Khao, Xa Puộc ở Tây Bắc; các nhóm Vân Kiều, Khùa, Trì và Ma Coong
ở Quảng Bình, Quảng Trị; nhóm Ơ Đu ở miền tây Nghệ An... đều là di duệ của những c dân
cổ đại nói tiếng Môn - Khơ me đã từng sinh sống ở các khu vực nói trên muộn nhất cũng là
vào thời kỳ từ trớc Công nguyên và đầu Công nguyên(1).
Giáo s Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự trong công trình Những nhóm dân tộc thuộc
ngữ hệ Nam á ở Tây Bắc Việt Nam cho rằng, "nhóm La ha với tiếng nói còn nhiều yếu tố
Malayô - pôlynêxia, có quan hệ với nhóm kađai; nhóm Kháng là nhóm c dân có nhiều quan
hệ gần gũi về tiếng nói với nhóm Việt - Mờng. Chúng ta có thể xem ngôn ngữ Kháng là gạch
nối giữa ngôn ngữ Việt - mờng và ngôn ngữ Môn - Khơ me; nhóm Xinh mul và nhóm Mảng
cũng là c dân lâu đời miền Tây Bắc nớc ta trớc khi ngời Thái tràn vào. Đó là hai nhóm mà
Nguyễn Chí Huyên chủ biên, Hoàng Hoa Toàn, Lơng văn Bảo, nguồn gốc lịch sử tộc ngời vùng biên giới
phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, H, 2000, tr.111-112
(1)
Vơng Hoàng Tuyên, Các dân tộc nguồn gốc Nam á ở miền bắc Việt nam, Nxb Giáo dục, H, 1963.
(1)


2


sự di chuyển địa vực c trú ít nhất. Nhóm Khmụ là nhóm đông đảo nhất do với bốn nhóm
kể trên ở miền Tây và Tây Bắc nớc ta"(2).
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà Dân tộc học, trong số các cộng đồng đợc gọi là
Xá - theo cách gọi của ngời Thái hiện đang sinh sống ở Tây Bắc, thì tới có 4 dân tộc thuộc
ngôn ngữ Môn Khơ me. Đó là: Khơ mú (Xá cẩu), Mảng (Xá Mãng, Xá Chại càng lài...),
Xinh mun (Xá Pụa, Xá Puộc) và Kháng (Xá khao, Xá Xúa, Xá Đón...). Ngoài ra còn có dân tộc
Khơ mú là những ngời mới di c từ thợng Lào đến vùng Tây Bắc Việt Nam cách nay khoảng
trên hoặc dới 300 năm, còn các cộng đồng Mảng, Kháng, Xinh mun có phải là c dân bản địa
ở Tây Bắc hay không. Đây là vấn đề cần phải có thêm thời gian và t liệu nghiên cứu.
Trong quá trình cộng c, xen cài với ngời Thái, các tộc ngời Môn - Khơ me thờng
xuyên chịu sự tác động qua lại của ngời Thái. Ngời Thái ngày càng thể hiện sức mạnh chiếm
lĩnh vùng Tây bắc, do vậy, họ đã bắt quy phục các dân tộc nhỏ bé hơn, trong đó có các tộc
ngời Môn - Khơ me. Các tộc ngời Môn - Khơ me đã bị ảnh hởng của ngời Thái cả về kinh tế
- văn hoá -chính trị, từ văn hoá vật chất nh mái nhà hình mai rùa, khau cút, tục tằng cẩu, đến
văn hoá tinh thần nh lễ hội xên cha; xên pẳng a, sử dụng ngôn ngữ Thái trong giao tiếp,
"Trong các nhóm Nam á, nhóm Kháng và La ha là những nhóm chịu ảnh hởng đậm nét của
dân tộc Thái. Đối với các nhóm khác nh Khmú, Mảng ảnh hởng đó có ít hơn, nhng cũng rất
đáng kể"(1).
Cho đến nay, trong quá trình cộng c, nhóm c dân Môn Khơ me đã có quá trình tiếp
xúc về văn hoá. Nhiều yếu tố văn hoá Môn Khơ me vẫn đợc bảo lu trong phong tục tập
quán, nhng cũng mang nhiều yếu tố văn hoá của các nhóm c dân khác cùng c trú cận kề nh
văn hoá của ngời Thái. Quá trình tiếp xúc văn hoá của nhóm c dân Môn Khơ me diễn ra
không đồng đều ở các tộc ngời cả về phong tục tập quán, ngôn ngữ. Có dân tộc vẫn giữ đợc
ngôn ngữ riêng (dân tộc Khơ mú, Kháng, La Ha) nhng cũng có nhóm không còn giữ đợc
ngôn ngữ riêng mà đã bị đồng hoá bởi ngôn ngữ của ngời Thái (dân tộc Xinh Mun). Quá
trình tiếp xúc cũng diễn ra không đồng đều theo khu vực, địa bàn c trú. ở những nơi c trú khá
biệt lập, nét riêng của văn hoá Môn Khơ me vẫn đợc bảo lu, trong khi đó ở một số nơi, sự

pha trộn, hoà đồng văn hoá đã làm thay đổi văn hoá của nhóm c dân Môn Khơ me.

Dân tộc Kháng

Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình, Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam á ở Tây bắc Việt nam,
Nxb KHXH, H,1972.
(1)
Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự, sđd, tr.32.
(2)

3


Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1.4.1999, ngời Kháng có 10.272 ngời, c
trú chủ yếu tại các xã: Chiềng Bôm, Noong Lay (huyện Thuận Châu), Nậm ét ( huyện
Quỳnh Nhai), Nậm Giôn, Nậm Păm ( huyện Mờng La) của tỉnh Sơn La và các xã Phình
Sáng, Ta ma, Quài Na (huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên) và một số ít c trú rải rác tại các
huyện Mờng Tè, Phong Thổ của tỉnh Lai Châu; Mờng Lay tỉnh Điện Biên và các huyện Sông
Mã, Mai Sơn, của tỉnh Sơn La.
Theo trí nhớ của các cụ già ngời Kháng ở Chiềng Bôm, do sống gần ngời Thái, ngời
Kháng phải cung dịch cho ngời Thái cả về công sức và ruộng đất. ở những mảnh đất hoang
mới đợc khai phá, ngời Thái cũng nhòm ngó và bắt ngời Kháng phải nộp hoa lợi trên mảnh
đất đó. Đây là lý do của cuộc nổi dậy chống lại ngời Thái của Lò văn Phanh. Tuy nhiên Lò
văn Phanh bị bắt và từ đó ngời Kháng không dám chống lại ngời Thái và thờng phải chịu nộp
lúa gạo, công phục dịch cho quan bản, quan mờng ngời Thái. Quan mờng Thái bắt ngời
Kháng phải làm nhà giống nh ngời Thái, mặc quần áo giống ngời Thái và nói tiếng của ngời
Thái. Quan mờng Thái cũng bắt các hộ gia đình Kháng không đợc làm nhà gần nhau, không
đợc trao đổi với nhau bằng tiếng Kháng sợ làm loạn. Nếu cố ý làm khác phải đi làm phục
dịch cho ngời Thái từ 10 ngày đến 1 tháng. đây là một trong những nguyên nhân khiến cho
ngời Kháng bị ảnh hởng đậm nét của văn hoá Thái. tuy nhiên, trong quá trình c trú cận kề,

ngời Kháng cũng chịu nhiều ảnh hởng bởi văn hoá Thái chiếm đa số ở khu vực Tây bắc.
Cho đến nay, đối với ngời Kháng ở Sơn La, sự ảnh hởng của ngời Thái đã diễn ra khá
đậm nét, chẳng hạn ngời Kháng ở các huyện Thuận Châu, Quỳnh Nhai và Mờng La không
còn giữ đợc tiếng nói dân tộc mà phần lớn đã chuyển sang giao tiếp bằng tiếng Thái, tiếng
Kháng chỉ còn đợc nói ở trong gia đình ở một số ít bản Kháng. Hầu hết ngời Kháng ở Sơn La
không còn lu giữ đợc trang phục truyền thống và các nghi lễ cúng, điệu múa dân tộc của ngời
Kháng vì trong quá khứ, họ đã quên từ khá lâu kể từ khi cộng c cùng với ngời Thái.
Trong khi đó, ở các xã Phình Sáng và Quài Na, do đặc điểm c trú của ngời Kháng nơi
đây gần với ngời Hmông và ngời Kinh lên khai hoang nên phần nào ít chịu ảnh hởng của ngời Thái. Trong cộng đồng, tiếng Kháng vẫn đợc duy trì là ngôn ngữ chính. Ngời Kháng ở xã
Phình Sáng cho đến nay vẫn duy trì đợc nhiều phong tục truyền thống nh lễ hội Sơn Pẳng ả,
điệu múa tăng bu,mang nét riêng của dân tộc Kháng.
Trong sản xuất kinh tế, ngời Kháng có một bộ phận chịu ảnh hởng mạnh của ngời
Thái là nhóm c trú dọc theo sông Đà. ở nhóm này, ngời Kháng đã biết làm ruộng nớc, làm
thuỷ lợi, cày nơng theo cách làm của ngời Thái. Nhng còn một bộ phận ngời Kháng c trú ở
vùng cao của huyện Tuần Giáo, có thể do địa hình là các nơng bằng, khó có thể khai thác
ruộng nớc, cho đến nay ruộng nớc ở đây vẫn cha phát triển. Phơng pháp trọc tỉa vẫn phổ biến.

4


Tuy nhiên, trong quan hệ hôn nhân, ngời Kháng ở Điện Biên và Sơn La đều có mang
những nét đặc trng trong quan hệ hôn nhân của ngời Thái. Mặc dù c trú khá xa với ngời Thái
nhng ngời Kháng ở Phình Sáng chủ yếu vẫn có quan hệ hôn nhân với đồng tộc của mình hoặc
với ngời Thái ở ven sông Đà mà không có trờng hợp nào kết hôn với ngời Hmông c trú cận
kề.
Dân tộc Xinh Mun:
Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1.4.1999, ngời Xinh Mun cí 18.618 ngời,
c trú tập trung ở tỉnh Sơn La (16.654 ngời) và một số ít rải rác ở huyện Mờng Lay tỉnh Lai
Châu (1.331 ngời). Tại tỉnh Sơn la, ngời Xinh Mun c trú tập trung và khá ổn định tại huyện
Yên Châu (6.803 ngời); huyện Sông Mã (5.461 ngời) và huyện Mai Sơn (3.871 ngời).

Theo các nhà nghiên cứu, dân tộc Xinh mun là một trong những c dân bản địa lâu đời
ở Tây Bắc Việt Nam, là di duệ của lớp c dân cổ đại phân bố ở khắp Bắc Đông Dơng. Cho đến
nay, ngời Xinh mun vẫn c trú ổn định tại các bản làng của mình tại các huyện Yên Châu và
Sông Mã của tỉnh Sơn la.
Dân tộc Xinh mun vốn có ngôn ngữ riêng. Trong ngôn ngữ Xinh Mun có nhiều từ
đồng nhất với từ cơ bản của các ngôn ngữ trong nhóm Môn Khơ me. Tuy nhiên trong quá
trình cộng c với ngời Thái, do nhiều lý do khác nhau, ngời Xinh mun đã dần quên tiếng mẹ
đẻ, tiếng Thái trở nên thành ngôn ngữ phổ biến trong cộng đồng Xinh mun. "Đến nay hầu
hết mọi ngời Xinh mun đều sử dụng thông thạo tiếng Thái trong sinh hoạt, giao tiếp ở bên
ngoài cũng nh bên trong cộng đồng dân tộc mình. Nhiều nơi (phổ biến), ngời Xinh mun đã
quên mất tiếng mẹ đẻ, chỉ biết dùng tiếng Thái. Khong những lớp trẻ dùng tiếng Thái, quên
tiếng mẹ đẻ mà đông đảo ngời già hiện nay cũng ở trong tình trạng tơng tự"(1). Tiếng Xinh
mun chỉ còn lại rơi rớt trong các bài cúng, trong đó có tới 60% là tiếng Thái và tiếng Xinh
mun chỉ còn chiếm 40%.
Không chỉ bị ảnh hởng bởi ngôn ngữ, văn hoá Xinh mun cũng chịu nhiều ảnh hởng
của văn hoá Thái. Trong hoạt động kinh tế, ngời Xinh mun đã tiếp thu khá nhiều yếu tố từ
ngời Thái nh dệt vải, trồng lúa nớc, làm nơng,Ngôi nhà của ngời Xinh mun so với ngôi nhà
ngời Thái có nhiều nét tơng đồng cả về cách thức phân chia không gian, kiểu dáng mai rùa
đến mặt bằng sinh hoạt gian quản, gian chan,
Cũng nh ngời Kháng, thiết chế xã hội của ngời Xinh mun cũng chịu ảnh hởng nhiều
của ngời Thái từ tổ chức làng bản đến thiết chế dòng họ. Thậm chí tên gọi của các dòng họ
Xinh mun phổ biến hiện nay cũng là tên của các dòng họ Thái nh họ Vì, họ Lò, Trong

(1)

Trần Bình, dân tộc Xinh mun ở Việt nam, Nxb Văn hoá dân tộc, H.1999

5



quan hệ hôn nhân, ngời Xinh mun kết hôn với ngời Thái khá phổ biến và cũng tuân theo mối
quan hệ ải, noọng, lúng ta nh của ngời Thái.
Dân tộc La Ha
Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1.4.1999, ngời La Ha hiện nay có 5.686
ngời, c trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La. Địa bàn c trú của ngời La Ha dọc hai bên bờ sông Đà, tại
huyện Mờng La có 2.269 ngời (tập trung tại các xã ít Ong, Nậm Păm, Pi Toong) và huyện
Thuận Châu có 3.119 ngời (tập trung tại các xã Noong Lay, Liệp Tè và Nậm ét).
Từ những năm 1960 trở lại đây, ngời La Ha vẫn c trú khá ổn định tại huyện Mờng La
của tỉnh Sơn La dọc theo hai bên bờ sông Đà. Từ trớc, ngời La ha vốn sống bằng nơng rẫy và
du canh du c. Trong quá trình cận c với ngời Thái, ngời La ha đã phát triển ruộng nớc và đã
có những địa phơng trở thành điển hình sản xuất ruộng nớc nh hợp tác xã Pi tạy thuộc xã Pi
Toong, huyện Mờng La. Về nhà ở, ngời La ha chịu ảnh hởng nhiều của ngôi nhà ngời Thái.
Trớc đây, xã hội ngời La ha có nhiều phụ thuộc vào ngời Thái thể hiện bằng hệ thống
cai trị của ngời Thái đối với ngời La ha. Tuy nhiên đã có một số thủ lĩnh ngời La ha đứng lên
cầm quyền nhng vẫn phục vụ chung cho bộ máy cai trị của ngời Thái trong vùng. Do vậy, các
yếu tố văn hoá Thái đã ăn sâu vào phong tục tập quán của ngời La ha.
Mặc dù vậy, ở ngời La ha các xã ít Ong, Nậm Giôn, Pi Toong, Nậm ét, Liệp Tè vẫn
giữ đợc tiếng nói mẹ đẻ, chỉ riêng ngời La ha ở xã Noong Lay, huyện Thuận Châu không
còn giữ đợc tiếng mẹ đẻ mà phổ biến đã sử dụng tiếng Thái và tiếng Kinh trong ngôn ngữ
giao tiếp hàng ngày.
Trong phong tục tập quán, ngời La ha có quan hệ hôn nhân phổ biến với ngời Thái và
có phần hoà nhập với với c dân ngời Thái kể cả về trang phục hàng ngày cũng nh các nghi lễ
thờ cúng, lễ hội. Dân tộc La ha cho đến nay không còn giữ đợc vốn văn nghệ dân gian truyền
thống mà phần lớn là sử dụng của ngời Thái. Tuy nhiên, ngoài các nghi lễ giống nh ngời
Thái, ngời La ha vẫn giữ đợc một số nghi lễ thờ cúng riêng của dân tộc mình nh nghi lễ cầu
mừng thọ sơn mán sơn rn. Trong các nghi lễ của ngời La ha, lễ vật cúng giống nh của ngời
Thái nhng rợu cúng phải là rợu cần vì họ quan niệm rằng nếu cúng ma bằng chai rợu thì tổ
tiên ngời La ha sẽ nhận nhầm với ngời Thái.
Hiện nay, địa bàn c trú của ngời La ha đang có nhiều xáo trộn bởi kế hoạch di chuyển
tái định c phục vụ công trình thuỷ điện Sơn la. La ha là dân tộc bị ảnh hởng nhiều nhất do họ

c trú chủ yếu dọc hai bên bờ sông Đà. Theo kế hoạch di chuyển tái định c , các bản ngời La
ha bị xé lẻ, di chuyển đến nhiều nơi ở mới khác nhau, do vậy những yếu tố văn hoá truyền
thống trong cộng đồng La ha cũng bị phá vỡ khi tiếp cận nơi ở mới với những điều kiện kinh

6


tế - xã hội - văn hoá mới. Vấn đề bảo lu văn hoá truyền thống của ngời La ha đang gặp những
thách thức trong xu thế hội nhập và phát triển.
Dân tộc Khơ mú
Dân tộc Khơ mú có số dân đông nhất trong nhóm các dân tộc thuộc ngôn ngữ Môn
Khơ me ở Tây và Tây bắc Việt Nam. Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1.4.1999,
dân tộc Khơ mú có 56.542 ngời, c trú tập trung ở các tỉnh Sơn La (9.950 ngời); Lai Châu (cũ)
(14.894 ngời); Nghệ An (27.014 ngời). Tại tỉnh Sơn La, ngời Khơ mú c trú tập trung tại
huyện Sông Mã (4.930 ngời), Thuận Châu (1.797 ngời); Mai Sơn (1.638 ngời) và Quỳnh
Nhai (1.007 ngời). Tại tỉnh Lai Châu cũ (nay thuộc tỉnh Điện Biên), ngời Khơ mú c trú tập
trung tại huyện Mờng Lay (2.574 ngời), Tuần Giáo (2992 ngời). Đặc biệt, ngời Khơ mú c trú
khá đông và tập trung tại huyện Kỳ Sơn, Nghệ An (17.951 ngời) và các huyện Tơng Dơng
(7.288 ngời), Quế Phong (1.688 ngời).
Về lịch sử và quá trình tộc ngời Khơ mú ở Tây bắc có nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều
ý kiến cho rằng ngời Khơ mú có mặt ở vùng Tây bắc từ thế kỷ thứ XI-XII. Nhng cũng có ý
kiến cho rằng lịch sử di c của ngời Khơ mú gắn với chuyện kể về ngời anh hùng huyền thoại
Chơng Han với lực lợng quân lính hùng hậu ở vùng Tây bắc và cho rằng ngời Khơ mú mới di
c từ Lào sang cách đây khoảng 200 năm(1). Nh vậy, so với các dân tộc La ha, Kháng hay Xinh
mun, ngời Khơ mú có mặt ở Tây bắc muộn hơn nên có lẽ, "mặc dù đại bộ phận ngời Khơ mú
còn c trú ở miền rừng núi nớc Lào, miền Tây, Tây Bắc Việt nam song đó là nhóm độc nhất
tới Việt nam cách đây cha lâu, nên về mặt nhân chủng, ngôn ngữ và văn hoá, họ còn giữ
những nét gần gũi với bà con của họ, hoặc những dân tộc láng giềng của họ ở bên kia bờ
sông Mã. Họ sống phụ thuộc vào rừng và phơng thức canh tác của họ, họ ở những vùng xa
xôi hẻo lánh nhất trong nội địa và cũng nh dọc biên giới Việt - Lào"(2).

Dân tộc Khơ mú cho đến nay vẫn đợc biết đến là nhóm điển hình nhất trong canh tác
nơng rẫy. Phơng thức canh tác nơng rẫy của ngời Khơ mú vẫn giữ nét đặc thù riêng: "Xá ăn
theo lửa, Thái ăn theo nớc" và trong công cụ canh tác và kỹ thuật sản xuất. Mặc dù sống xen
kẽ với ngời Thái, chịu sự chi phối mạnh mẽ của văn hoá và xã hội của ngời Thái nhng tộc ngời Khơ mú vẫn giữ đợc một nét riêng biệt. Trong xã hội của ngời Khơ mú vẫn thể hiện mối
quan hệ trong một công xã nông thôn cha có phân hoá giai cấp, nhất là trong lĩnh vực văn
hoá tinh thần và tín ngỡng tôn giáo.
Hiện nay, ngời Khơ mú ở Tây Bắc đã có cuộc sống ổn định, không còn tình trạng di
c, du canh. Phơng thức canh tác chính của ngời Khơ mú ở Tây bắc vẫn là làm nơng rẫy và
sống dựa vào rừng. Khác với các tộc ngời Môn - Khơ me khác ở Tây bắc, dân tộc Khơ mú là
Viện Dân tộc học, Dân tộc Khơ mú ở Việt nam, Nxb Văn hoá dân tộc, H.1999.tr.27-29
Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự, Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam á ở Tây bắc Việt nam, Nxb KHXH.
H1972. tr.22-24
(1)

(2)

7


tộc ngời bảo lu đợc nhiều yếu tố truyền thống tộc ngời nhất, đặc biệt là tiếng mẹ đẻ. Hầu hết
ngời Khơ mú vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ giao tiếp trong cộng đồng. Cho đến nay,
ngời Khơ mú vẫn đợc đánh giá là tộc ngời còn bảo thủ nhiều với yếu tố văn hoá truyền thống,
kể cả trong sản xuất kinh tế, giao tiếp xã hội và các yếu tố văn hoá khác.
Tuy nhiên, trong quan hệ hôn nhân và gia đình, có nhiều biểu hiện trong mối quan hệ
tai hem (hay ải noọng trong tiếng Thái), dông êm, mạ êm (quan hệ lúng ta), mạ cn, dông
quynh (quan hệ nhính sao)- mang nhiều đặc điểm của quan hệ hôn nhân gia đình của ngời
Thái đen vùng Tây bắc. Tên gọi của các dòng họ phần lớn đã chuyển sang họ Thái trong quá
trình cộng c, xen kẽ với ngời Thái và chịu sự chi phối mạnh mẽ của ngời Thái. Có rất nhiều
ngời Khơ mú mang tên gọi họ Lờng, Vì, Quàng, Mè, Tòng là những tên gọi dòng họ của
ngời Thái.

Trong tôn giáo, tín ngỡng, mặc dù vẫn giữ đợc những đặc điểm riêng của tàn d tô tem giáo trong biểu tợng thờ của các dòng họ (Tvai, Tmoong, ), hay các nghi lễ cúng
chữa bệnh, thờ cúng ma bản, Nh ng yếu tố văn hoá Thái đã đan xen với các loại thầy mo
một, mo mùn và các nghi lễ xên lẩu nó (nghi lễ cúng chữa bệnh) của văn hoá Thái.
Có thể nói, quá trình tiếp xúc văn hoá của nhóm c dân Môn - khơ me ở Tây bắc Việt
Nam cũng biểu hiện đợc quá trình cộng c và xu hớng hoà hợp giữa các tộc ngời. Mặc dù là
những nhóm c dân nhỏ, có dân số ít và sống xen lẫn với nhóm ngời Thái có số dân đông,
mạnh hơn về kinh tế - văn hoá - xã hội nhng các tộc ngời Môn - Khơ me ở một mức độ nào
đó vẫn giữ đợc bản sắc văn hoá của mình. ở mỗi mức độ khác nhau, các tộc ngời Môn - Khơ
me có quá trình tiếp xúc - hoà trộn nhng không hoà tan - với cộng đồng các dân tộc Tây bắc
mà ngời Thái có vai trò chủ đạo. Trong xu thế phát triển hiện nay, quá trình tiếp xúc văn hoá
của các tộc ngời ở Tây Bắc vẫn đang diễn ra và có xu hớng mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng có
những ảnh hởng nhất định tới bản sắc văn hoá tộc ngời của các tộc ngời có dân số ít, trong đó
có nhóm Môn - khơ me. Những yếu tố ảnh hởng của văn hoá Thái tới cộng đồng các c dân
Môn - khơ me là rất rõ nét. Nghiên cứu quá trình tiếp xúc văn hoá giữa nhóm c dân Môn khơ me ở vùng Tây Bắc Việt Nam là vấn đề cần quan tâm và tiếp tục đầu t nghiên cứu trong
thời gian tới.

Tài liệu tham khảo

1. Trần Bình, Dân tộc Xinh mun ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1999
2. Trần Bình, Về văn hoá Xinh mun, Nxb KHXH, Hà Nội, 2002

8


3. Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình, Nguyễn Văn Huy, Thanh Thiên, Những nhóm
dân tộc thuộc ngữ hệ Nam á ở Tây bắc Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1972.
4. Viện Dân tộc học, Dân tộc Kháng ở Việt Nam, T liệu, Th viện Viện Dân tộc học, 2007.
5. Viện Dân tộc học, Dân tộc Khơ mú ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà nội, 1999.
6.Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít ngời ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), Nxb KHXH,
1978.

7. Tiểu luận về sự phát triển của các chế độ chính trị Thái, t liệu Viện Dân tộc học, tài
liệu dịch.
8. Tổng cục thống kê. Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1.4.1999. Kết quả toàn diện.

9



×