Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Chính sách cử tuyển của tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.36 KB, 26 trang )

THỰC TIỄN TRIỂN KHAI VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TRONG
VIỆC THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH CỦA
NHÀ NƯỚC VỀ CHÍNH SÁCH CỬ TUYỂN ĐỐI VỚI HỘC SINH DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh
Viện Dân tộc học
1. Đặt vấn đề
Giáo dục là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng và nhà
nước ta. Sự quan tâm này thể hiện trước hết qua các chính sách ưu tiên cho
giáo dục. Đặc biệt trong những năm gần đây, giáo dục ở vùng miền núi,
vùng các dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo đã trở thành một nội
dung quan trọng trong hệ thống chính sách giáo dục của Việt Nam. Từ đó,
góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của nền giáo
dục cả nước nói chung và cải thiện giáo dục vùng miền núi nói riêng.
Cùng với sự phát triển của cả nước, trong những năm vừa qua, bộ mặt
kinh tế - văn hóa vùng miền núi phía Bắc đã phần nào được cải thiện, từng
bước đưa người dân thóat khỏi tình trạng đói nghèo. Giáo dục theo đó cũng
có một số chuyển biến theo hướng tích cực. Tuy nhiên, bức tranh giáo dục ở
các dân tộc thiểu số còn tồn tại nhiều vấn đề nan giải đòi hỏi sự quan tâm
đầu tư thường xuyên của địa phương nói riêng và Nhà nước nói chung.Vì
vậy, tìm hiểu việc triển khai chính sách cử tuyển ở Tuyên Quang là việc làm
cần thiết nhằm lựa chọn những giải pháp hợp lí nhất thúc đẩy sự phát triển
của tỉnh trên mọi lĩnh vực.
Tuyên Quang là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc thiểu số (Tày, Nùng
Sán Dìu, Sán Chay, Dao, Hmông…), địa hình hiểm trở, điều kiện tự nhiên
rất khó khăn, phức tạp, trình độ nhận thức của người dân còn thấp. Bên cạnh
đó chất lượng đội ngũ cán bộ chưa cao, dẫn tới hạn chế sự phát triển các mặt

1|



kinh tế - xã hội ... Từ khi bước vào thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn
có các chính sách ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng dân tộc.
2. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về giáo dục dân tộc
Đối với giáo dục ở vùng dân tộc, Đảng và Nhà nước “... thực hiện chính
sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu
số và các vùng đặc biệt khó khăn...”1.
Nghị quyết số 37/2004/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 đã nhấn mạnh: Thực hiện tốt hơn công
bằng xã hội trong giáo dục, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh
tế-xã hội đặc biệt khó khăn.
Những chủ trương phát triển giáo dục dân tộc được quan tâm cụ thể ở
các vấn đề sau:
2.1. Phát triển mạng lưới trường lớp và nâng cao dân trí
- Giáo dục miền núi, vùng DTTS có vị trí quan trọng, mang tính chiến
lược trong công cuộc phát triển KT-XH, củng cố an ninh quốc phòng; chỉ có
bằng con đường phát triển giáo dục, mới có thể nhanh chóng đưa miền núi,
vùng DTTS thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, từng bước rút ngắn dần khoảng
cách về mọi mặt giữa miền núi, vùng DTTS với các vùng khác.
“Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vật
chất - kỹ thuật các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú và có chính
sách bảo đảm đủ giáo viên cho vùng này...
... Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người
nghèo có cơ hội học tập, tiếp tục phát triển các trường phổ thông dân tộc nội
1

Điều 36 - Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam - 1992

2|



trú dành cho con em dân tộc thiểu số, chú trọng quyền được học tập của nhân
dân ở trên hai nghìn xã nghèo nhất...”1
2.2.Tập trung đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số
Vấn đề đào tạo cán bộ người DTTS cần được thấm nhuần: vừa là
nhiệm vụ trước mắt, vừa là một công việc có tính chiến lược lâu dài. Cùng với
sự hỗ trợ của cả nước, một yếu tố đóng vai trò quan trọng quyết định thành
công của sự nghiệp xây dựng và phát triển KT-XH ở miền núi, vùng DTTS là
tiềm năng và nội lực. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Thực chất
của chính sách dân tộc là vấn đề cán bộ dân tộc” và “Phải có đội ngũ cán bộ
của các dân tộc để có người đảm đang sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xây dựng đời sống mới xã hội chủ nghĩa về kinh tế, về văn hoá của dân tộc
mình. Không có đội ngũ cán bộ dân tộc để làm việc đó thì khó có ai làm thay.
Dẫu có người làm thay cũng chưa chắc đã tốt hơn họ”.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn lực - nhân tố quyết định sự
phát triển của đất nước trong thời kì CNH, HĐH, Văn kiện Đại hội Đảng
khoá IX bàn về “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ” đã
chỉ rõ: “... Phát triển và nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú; tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc ...”2
Việc xây dựng, quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ người DTTS có vị trí
quan trọng trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp phát triển giáo dục vùng DTTS là phải góp
phần tạo nguồn đào tạo cán bộ, trước hết là nguồn cán bộ người DTTS cho
công cuộc phát triển KT-XH ở miền núi, vùng DTTS.
“...Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em
các dân tộc vào học tại các trường đại học, cao đẳng; mở thêm trường dự bị
1

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX - 2001


2

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX - 2001

3|


đại học dân tộc ở khu vực Miền Trung, Tây Nguyên; nghiên cứu tổ chức hệ
thống trường đặc biệt chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ người dân
tộc thiểu số”.
2.3. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về giáo dục cho vùng
dân tộc góp phần thúc đẩy các dân tộc cùng phát triển
Hệ thống các chính sách hỗ trợ bao gồm: chính sách trợ cấp cho người
học; chế độ miễn giảm học phí; ưu tiên trong tuyển sinh đào tạo và chính sách
với giáo viên.
Việc chi trả lương được thực hiện theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP
ngày 14- 12- 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang; xếp lương theo trình độ đào tạo theo
Quyết định số 61/2005/QĐ-BNV ngày 15-6-2005 của Bộ Nội vụ ban hành
tạm thời chức danh và mã ngạch viên chức ngành giáo dục và đào tạo, văn
hóa- thông tin.
Nhà nước đã có Quyết định số 973/1997/QĐ-TTg ngày 17-11-1997 và
Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06-10-2005 của Thủ tướng Chính phủ
về trợ cấp ban đầu, kinh phí tham quan học tập, trả lương dạy thêm giờ cho
cán bộ, giáo viên …
Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20- 6-2006 của Chính phủ quy định
về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường chuyên
biệt, ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Thông tư số 17/TT/LB ngày 27-7-1995 của Liên Bộ LĐ-TB-XH, Bộ Tài

chính, Bộ GD & ĐT về trả lương dạy thêm giờ và phụ cấp dạy lớp ghép.
Học sinh PTDTNT được hưởng các chính sách hỗ trợ theo Quyết định số
82/2006/QĐ-TTg ngày 14- 4-2006 của Thủ tướng Chính phủ. Thông tư liên
tịch số 43/2007/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 02-5-2007 của Bộ Tài chính và Bộ
GD & ĐT về điều chỉnh mức học bổng chính sách và trợ cấp xã hội đối học

4|


sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số học tại các trường đào tạo công lập.
Theo đó, từ 01/10/2006 học sinh các trường PTDTNT được hưởng học bổng
360.000đ/tháng/HS và được hưởng 12 tháng/năm.
Ngoài ra học sinh các trường PTDTNT được hưởng các chế độ hiện hành
theo Thông tư liên tịch số 126/1998/TTLT-BTC-BGDĐT ngày 09-9-1998 của
Bộ Tài chính và Bộ GD & ĐT, đó là: miễn học phí và các loại lệ phí thi,
tuyển sinh; tiền tàu xe nghỉ hè, nghỉ tết (cả lượt đi, về); hỗ trợ học phẩm, cặp
học sinh, bút bi, bút chì đen, hộp chì mầu.... ; các em còn được hưởng các chế
độ khác như cấp tiền điện nước, mua bảo hiểm y tế; được mượn sách giáo
khoa, sách tham khảo phục vụ học tập....
- Thực hiện Điều 78 của Luật Giáo dục về chế độ cử tuyển và triển khai
thực hiện Thông tư Liên tịch số 04/2001/TTLT-BGD&ĐT-BTCCBCPUBDT&MN ngày 26/02/2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tổ chức Cán
bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), Uỷ ban Dân tộc và Miền núi (nay là Uỷ ban
Dân tộc) về tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp theo
chế độ cử tuyển, chế độ cử tuyển đã được các Bộ, Ngành và các địa phương
quan tâm và nghiêm túc thực hiện. Nhờ đó, số cán bộ là người dân tộc có
trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ở các địa phương ngày
một tăng lên, góp phần đáng kể vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế- xã hội, xoá đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh, quốc phòng ở các
vùng đồng bào dân tộc và miền núi.
3.Thực tiễn triển khai và tác động trong việc thực hiện chính sách

cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào các trường Đại học, Cao đẳng...
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, từ những năm 1990, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã tuyển sinh các lớp riêng hệ cử tuyển tại một số trường
đại học, cao đẳng và trung cấp nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về cán bộ dân tộc
thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đó là một chính sách đúng đắn của Đảng

5|


và Nhà nước ta, nhằm tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số cho các tỉnh có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trong đó có các tỉnh phía Bắc.
Hơn 15 năm thực hiện chế độ cử tuyển con em các dân tộc thiểu số vào
các trường cao đẳng và đại học đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Nó
đã khẳng định rằng hệ cử tuyển là hình thức phát triển nguồn cán bộ dân tộc
thiểu số trực tiếp, có hiệu quả nhất. Quá trình thực hiện từ năm 1990 đến nay
trải qua 3 thời kỳ:
Thời kỳ từ năm 1990 đến năm 1995 là thời kỳ đầu tiên, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm.
Thời kỳ từ 1996 đến năm 1998 đã có kinh nghiệm, khắc phục những
thiếu sót, đẩy mạnh một bước đào tạo hệ cử tuyển, thực hiện tuyển sinh đúng
đối tượng, tiêu chuẩn và khu vực cần tuyển.
Thời kỳ từ năm 1999 đến nay thực hiện chế độ cử tuyển con em dân tộc
thiểu số vào cao đẳng, đại học và trung cấp theo quy định của Luật giáo dục.
Sau đây là những kết quả thực hiện chế độ cử tuyển qua từng thời kỳ ở
Tuyên Quang (so sánh với một số tỉnh)
Bảng 1: Kết quả thực hiện chế độ cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số
vào cao đẳng, đại học từ năm 1990 đến năm 1995 ở 5 tỉnh miền núi phía
Bắc
TT


Đơn vị

Chỉ tiêu Thực hiện Tỷ lệ (%)
(người)

6|

(người)

1

Tuyên Quang

115

107

93,0

2

Hà Giang

242

232

95,9

3


Thái Nguyên

24

26

108,3

4

Phú Thọ

65

56

86,1

5

Yên Bái

213

208

97,6



Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006)
Hai mươi lăm trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã được Bộ Giáo
dục và Đào tạo giao nhiệm vụ đào tạo hệ cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số.
Riêng khu vực phía Bắc đã có 18 trường:
Về cơ cấu đào tạo chủ yếu tập trung vào các ngành: nông – lâm nghiệp,
sư phạm, y tế và mở dần sang lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội phù hợp với
đặc điểm của miền núi, vùng sâu, vùng xa, để số cán bộ này sau khi tốt
nghiệp có kiến thức chuyên môn đáp ứng nhu cầu cấp thiết của địa phương.
Đối tượng xét tuyển được xác định là học sinh dân tộc thiểu số thuộc
khu vực I - vùng cao, khu vực I - vùng sâu và hải đảo; độ tuổi trung bình
tuyển chọn đến 35 tuổi, nếu phải học dự bị đại học thì tuổi không quá 33. Học
sinh dân tộc thiểu số quá ít người ở vùng cao thì có thể tuyển những người chỉ
học hết chương trình lớp 12 trung học phổ thông. Các địa phương và các
trường đều thực hiện đúng đối tượng cử tuyển, đúng vùng cử tuyển quy định,
chưa có những sai phạm nghiêm trọng. Đó là thành tựu đáng kể của các tỉnh
miền núi phía Bắc trong công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số
những năm đầu tiên thực hiện chủ trương cử tuyển.
Bảng 2: Kết quả thực hiện chế độ cử tuyển học sinh dân tộc thiểu
số vào cao đẳng, đại học từ năm 1996 - 1998 ở 5 tỉnh miền núi phía Bắc
TT

Đơn vị

Chỉ tiêu Thực hiện Tỷ lệ (%)
(người)

7|

(người)


1

Tuyên Quang

98

86

87,8

2

Hà Giang

127

102

80,3

3

Phú Thọ

27

16

59,3


4

Thái Nguyên

22

33

150,0


5

Yên Bái

103

109

105,8

Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006)
Đầu năm 1996, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị sơ kết, đánh
giá kết quả thực hiện chủ trương cử tuyển thời kỳ 1990 - 1995, rút kinh
nghiệm chỉ đạo thực hiện chế độ cử tuyển có hiệu quả hơn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kiến nghị với Nhà nước tăng cường đầu tư cơ
sở vất chất để tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo tại các
trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học dân tộc và các trường
đại học, cao đẳng được giao nhiệm vụ đào tạo hệ cử tuyển học sinh dân tộc
thiếu số. Bước đầu kiểm tra đánh giá việc bố trí sử dụng số cán bộ đã được

đào tạo qua hệ cử tuyển tại các địa phương cử đi học. Nguồn cử tuyển trong
thời kỳ này là những học sinh dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp phổ thông trung
học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú.
Sau khi Nhà nước ban hành Bộ Luật Giáo duc năm 1998, Thủ tướng
Chính phủ có Quyết định số 135/1998/QĐ - TTg, phê duyệt chương trình phát
triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu - vùng
xa. Căn cứ theo điều 78 của Luật Giáo dục và Quyết định của Chính phủ, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), Uỷ
ban Dân tộc và miền núi (nay là Uỷ ban Dân tộc) đã ban hành Thông tư Liên
tịch số 04/2001/TTLT/BGD & ĐT - BTCCBCP - UBDT & MN ngày 26 - 2 2001 "Hướng dẫn tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
(nay là trung cấp) theo chế độ cử tuyển".
Trên cơ sở của pháp luật hiện hành, hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
hướng dẫn chỉ đạo các địa phương thực hiện việc xét tuyển đảm bảo đúng đối
tượng, đúng vùng tuyển đã được quy định tại các xã đặc biệt khó khăn, các xã
biên giới, an toàn khu thuộc diện hỗ trọ đầu tư của chương trình 135 CP. Trải

8|


qua 7 năm thực hiện chế độ cử tuyển theo Luật Giáo dục, trên địa bàn miền
núi phía Bắc đã đạt được những kết quả sau:
Bảng 3: Kết quả thực hiện chế độ cử tuyển học sinh DTTS vào
ĐH,CĐ năm 1999 - 2005
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006)
TT

Đơn vị

Chỉ tiêu Thực hiện Tỷ lệ (%)
(người)


(người)

1

Tuyên Quang

258

257

99,6

2

Hà Giang

316

294

93,0

3

Phú Thọ

178

172


96,6

4

Thái Nguyên

171

171

100,0

5

Yên Bái

249

252

101,2

Bảng 4: Kết quả thực hiện chế độ cử tuyển học sinh DTTS vào ĐH,
CĐ ở Tuyên Quang từ năm 2003 - 2010
Tổng số

Năm

Năm


Năm

Năm

Năm

Năm

HS

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Na Hang

58

11

10


19

4

9

5

Chiêm Hóa

59

13

13

17

1

10

5

Hàm Yên

38

11


11

7

2

4

3

Yên Sơn

44

12

13

8

3

4

4

Sơn Dương

34


10

10

6

3

2

3

Tổng

233

57

57

57

13

29

20

Huyện


9|


Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tuyên Quang
Trên chặng đường thực hiện các mụ tiêu của sự nghiệp công nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, mặc dù đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức
gay gắt nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn tập trung đầu tư để thực hiện chế độ
cử tuyển đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù ngân sách còn hạn
hẹp nhưng Đảng và Nhà nước vẫn vận dụng chính sách thực hiện chế độ học
bổng, chế độ trợ cấp đảm bảo cho học sinh các dân tộc thiểu số học tốt để xây
dựng đất nước.
Theo Thông tư Liên tịch số 13/2002/TTLT - GD - BTC ngày 18 - 3
-2002, mức học bổng hiện nay học sinh cử tuyển được hưởng là 160.000
đồng/người/tháng, không phải đóng học phí, tiền ký túc xá, được cấp tàu xa
hai lượt nghỉ hè và nghỉ tết hàng năm. Những con số trên đây tuy còn rất
khiêm tốn nhưng đã đủ chứng minh rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
đối với việc chăm lo đào tạo, phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Đồng
chí Chủ tịch Hội đồng dân tộc Quốc hội khóa XI đã khẳng định: "Đảng và
Nhà nước ta đã có sự đầu tư rất lớn cho việc thực hiện chủ trương cử tuyển,
nhất là những năm gần đây khi chủ trương cử tuyển trở thành chế độ cử tuyển
trong Luật Giáo dục với mục đích nhằm tạo được đội ngũ cán bộ tri thức cho
miền núi, vùng dân tộc thiểu số, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc.
Có thể khẳng định rằng, thực hiện chính sách cử tuyển chính là phương
thức phát triển nguồn cán bộ dân tộc trực tiếp, đang mang lại những hiệu quả
thiết thực cho đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta. Theo điều tra
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 87,2% sinh viên tốt nghiệp hệ cử tuyển trở về
quê hương công tác đúng ngành nghề được đào tạo, chấp hành nghiêm chỉnh
sự phân công của địa phương. Điều này hoàn toàn phù hợp với thống kê chất


10 |


lượng đội ngũ cán bộ cấp tỉnh, huyện và cơ sở của các tỉnh miền núi phía Bắc 1
(đã được phân tích ở trên).
Có thể nói, sự phát triển, trưởng thành của đội ngũ cán bộ DTTS ở
miền núi phía Bắc trong 20 năm qua luôn gắn liền với các thành tựu phát
triển nguồn cán bộ DTTS, trước hết và trực tiếp là kết quả thực hiện chế độ
cử tuyển.
Những kết quả đạt được thể hiện sự nỗ lực cao của toàn Đảng, toàn
dân ta nhằm quyết tâm xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng
vững mạnh đáp ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng ở nước
ta. Những thành quả bước đầu ấy đã tạo nèn tảng quan trọng để đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số trưởng thành và phát triển vững mạnh trong tương lai 2
4.Những mặt tích cực và hạn chế của chính sách cử tuyển
Những năm qua, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách ưu tiên, ưu đãi
đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn như chính
sách cử tuyển, ưu tiên điểm, hỗ trợ sinh hoạt phí. Tuy nhiên, quá trình thực thi
các chính sách đó đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Dưới đây, chúng tôi xin
trình bày những điểm tích cực và hạn chế của chính sách cử tuyển vì mấu
chốt của chính sách này là đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho miền
núi, dân tộc thiểu số.
4.1.1 Những mặt tích cực của chính sách cử tuyển
Quan điểm nhất quán của Đảng từ khi ra đời đến nay đều khẳng định: vấn
đề dân tộc có tầm quan trọng chiến lược trong cách mạng Việt Nam. Cán bộ
là nhân tố quyết định trước tiên trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng. Quan điểm đó đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo trong quá trình xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong hơn bảy thập kỷ vừa qua.
1


Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006, Tư liệu đã dẫn.

2

Lô Quốc Toản, 2010, Sđd,tr 111.

11 |


Từ sau khi có Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ VI (1986),
thực hiện đổi mới tư duy, công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số đã
từng bước đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp cách mạng, phù hợp với
điều kiện của từng địa phương, từng vùng dân tộc. Sau khi có nghị quyết 22
NQ - TW của Bộ chính trị (1989), vấn đề "Tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số"
được đặt ra một cách chính thức, trở thành một trong những nội dung cơ bản,
cấp bách của chính sách dân tộc và công tác dân tộc. Từ đó, các nội dung của
Nghị quyết từng bước được thể chế hoá, cụ thể hóa và triển khai thực hiện
đồng bộ trong cả nước. Từ năm 1990 trở đi, hệ thống các trường phổ thông
dân tộc nội trú được phục hồi và phát triển đến cấp huyện và cụm xã; hệ cử
tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào đại học, cao đẳng, và trung cấp được mở
ra và ngày càng phát triển....nhằm hướng vào mục tiêu là phát triển nguồn cán
bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc - một địa bàn trọng điểm của
cả nước.
Năm 2003, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khoá IX) về
công tác dân tộc đã đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: "....thực hiện tốt chính sách dân tộc;
quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số. Nghị quyết đã ghi rõ mục tiêu đến năm 2010 là "Xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp
ứng được yêu cầu của địa phương; củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch

vững mạnh".
Hội nghị trung ương lần thứ bảy khoá IX còn khẳng định rõ nhiệm vụ chủ
yếu và cấp bách của công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số trong
tình hình hiện nay: "Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở
và các chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp; đẩy
mạnh việc tổ chức các trường mẫu giáo công lập; mở rộng việc dạy chữ dân

12 |


tộc. Đa dạng hoá, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi duỡng, dạy nghề
ở vùng dân tộc; đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú;
tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em các dân
tộc vào học tại các trường đại học và cao đẳng; mở thêm trường dự bị đại học
dân tộc ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên. Nghiên cứu tổ chức trường
chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ là người dân tộc thiểu số" .
Thứ hai: Quan điểm, đường lối của Đảng đã được thể chế hóa, cụ thể hóa
bằng pháp luật, bằng chương trình hành động của các cấp, các ngành trong
công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số.
Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số là một vấn đề quan trọng, thể
hiện tập trung thái độ chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm giải quyết
vấn đề dân tộc, thực hiện tốt chính sách dân tộc trong chặng đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phấn đấu vì mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong hơn hai mươi năm qua,
quan điểm của Đảng đã được thể chế hóa thánh các chế định trong Hiến pháp
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 1992 và 2002);
các bộ luật và các văn bản pháp quy. Thông qua hoạt động của hệ thống chính
trị, các nội dung pháp luật được phổ biến và áp dụng rộng rãi trong nhân dân,
tạo nên những phong trào hoạt động thực thi pháp luật dưới sự lãnh đạo của

Đảng. Nhờ đó chính sách dân tộc, được cụ thể hóa bằng các chương trình
hành động, các dự án phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội; gắn phát triển kinh
tế - xã hội với an ninh - quốc phòng, được triển khai rộng khắp đã và đang
mang lại những hiệu quả thiết thực, đáng phấn khởi. Một trong những thành
tựu đó chính là sự phát triển khá nhanh chóng về số lượng cán bộ dân tộc
thiểu số, đặc biệt là đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở hệ thống chính trị cấp
cơ sở.
Chủ trương phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số đã được thể chế hóa
trong hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước, được tổ chức thực hiện

13 |


thông qua hoạt động của hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Trong
quá trình thực hiện tuy còn có những hạn chế nhưng đã thu hút được kết quả
đáng ghi nhận. Chính điều đó là một trong những nguyên nhân quan trọng để
đạt được những thành tựu trong công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc
thiểu số trong những năm qua.
Thứ ba: Sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền đối với vấn đề phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số
Đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước, một số dân tộc ở vùng cao,
vùng sâu của miền núi nước ta như: Hmông, Dao, Giáy, Nùng, Thái đều rơi
vào tình trạng thiếu cán bộ trầm trọng. Nạn mù chữ trở thành phổ biến trong
các vùng dân tộc. Các vùng này đã lâm vào tình trạng cạn nguồn cán bộ. Xuất
phát từ thực tế đó đã bắt buộc cấp uỷ, chính quyền địa phương tính đến việc
tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Nhưng trong lúc đó, cơ chế quản lý quan
liêu, bao cấp còn nặng nề, một số địa phương thực hiện đổi mới nhận thức
theo cách vận dụng cơ chế, tuyển chọn một số thanh niên dân tộc thiểu số vào
biên chế, mở lớp bổ túc văn hóa để đào tạo bồi dưỡng họ trở thành cán bộ. Cá
biệt, có cấp ủy tỉnh Hà - Tuyên đã ra Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về

tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các xã vùng cao, biên giới, giao cho
trường Đảng tỉnh (nay là trường Chính trị) mở các lớp đặc biệt để đào tạo số
thanh niên dân tộc được tuyển chọn đạt những tiêu chuẩn cần thiết đối với cán
bộ chủ chốt cấp xã, đưa về địa phương công tác. Thực chất là vận dụng cơ chế
theo cách riêng của tỉnh uỷ Hà - Tuyên nhằm giải quyết yêu cầu cấp bách của
địa phương trong thời điểm đó. Đồng thời đây cũng là một sự vận dụng có
tính chất đột phá của cấp uỷ địa phương để thực hiện đổi mới tư duy, phương
thức tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc. Sau khi có Nghị
quyết 22 - NQ/TW của Bộ chính trị, hầu như các cấp uỷ của các tỉnh miền núi
phía Bắc đã nhanh chóng chuyển biến nhận thức, chuyển biến hành động, tích
cực triển khai mạnh mẽ công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở

14 |


các địa phương. Chính nhờ có sự chuyển biến đó, hệ thống trường dân tộc nội
trú đã nhanh chóng được tái lập và phát triển, hệ cử tuyển con em các dân tộc
thiểu số vào cao đẳng, đại học được triển khai thực hiện khá nghiêm túc, đạt
được những kết quả đáng khích lệ.
Từ sự đổi mới nhận thức đến sự đổi mới phương thức hành động là cả
một quá trình, cần thiết phải có thời gian. Nhưng do yêu cầu bức bách của
thực tiễn, nên quá trình đổi mới tư duy và đổi mới phương thức phát triển
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số đã được cấp uỷ, chính quyền địa phương tiến
hành đồng thời trong toàn bộ hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cơ sở. Đó là
nguyên nhân chính dẫn đến những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác
phát triển nguồn và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của cả 15 tỉnh
miền núi phía Bắc trong hơn 20 năm qua.
Thứ tư, những thành tựu đã đạt được trong công tác phát triển nguồn cán
bộ dân tộc là thể hiện sự phấn đấu cao độ, ý thức tự vươn lên mạnh mẽ của
đồng bào các dân tộc ở miền núi phía Bắc. Sự quan tâm của Đảng, sự đầu tư

của nhà nước, sự chuyển biến năng động của cấp uỷ và chính quyền địa
phương sẽ không có kết quả nếu không phát huy được nội lực của nhân dân
các dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng, nhân dân các dân tộc ở Tuyên
Quang luôn luôn tự ý thức rất sâu sắc vấn đề này. Do những hạn chế khách
quan, đồng bào phải chịu đựng những khó khăn, thiệt thòi, nhưng khi có cơ
hội, họ đã vươn lên mạnh mẽ, nhanh chóng vượt qua những thách thức để tận
dụng thời cơ. Ngay từ trong những năm chiến tranh ác liệt, mặc dù còn vô vàn
những khó khăn, nhưng một số gia đình đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi
cao, vùng sâu vẫn cố gắng hết sức, tạo điều kiện cho con em mình học tập,
gửi con em tới các trường trung tâm huyện lỵ, tỉnh lỵ để đào tạo thành tài. Khi
hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được thành lập, thực sự là một cơ
hội thuận lợi cho đồng bào các dân tộc vùng đặc biệt khó khăn. Khảo sát thực
tế tại các địa phương cho thấy đồng bào các dân tộc thiểu số đã tự ý thức

15 |


được điều đó, tự chuyển biến nhận thức, tích cực tham gia các lớp xoá mù
chữ, tích cực đưa con em đến trường, thực hiện phổ cập tiểu học và trung học
cơ sở. Việc bình chọn dân chủ, công khai các đối tượng ưu tiên để gửi đến các
trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh, cấp huyện, bình chọn, xét duyệt
công khai các chỉ tiêu cử tuyển vào cao đẳng và đại học mỗi khi được phân bổ
về cơ sở đã được tiến hành ở nhiều địa phương. Có thể khẳng định rằng đây
chính là điểm hội tụ của ý Đảng với lòng dân. Sự bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ giữa các dân tộc được thể hiện cụ thể bằng những hành động thực tế trong
công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ngay từ cấp cơ sở. Từ năm
1990 đến nay, ở một số địa phương, việc tuyển chọn con em để đưa đi đào tạo
đã dần dần trở thành nền nếp, tạo ra sự đồng thuận, ổn định trong nhân dân,
đảm bảo tuyển đúng đối tượng, đủ chỉ tiểu, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng
quy trình. Điều đó đã động viên khuyến khích nhân dân các dân tộc đề cao

trách nhiệm của mình, tích cực tham gia công tác phát triển nguồn cán bộ, tạo
ra không khí phấn khởi, đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc ở mối địa
phương. Đây là một nguyên nhân quan trọng, có tính chất quyết định hiệu quả
tổ chức công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở địa phương.
Trên chặng đường thực hiện các mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, mặc dù đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức gay gắt
nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn tập trung đầu tư để chế độ cử tuyển đạt được
những kết quả đáng ghi nhận. Tuy ngân sách còn hạn hẹp nhưng Đảng và Nhà
nước vẫn thực hiện chính sách học bổng và trợ cấp đảm bảo cho học sinh các dân
tộc thiểu số học tốt để góp phần xây dựng đất nước trong tương lai.
Theo Nghị định số 94/2006/NĐ - CP ngày 07 - 9 - 2006 của Chính phủ, mức
học bổng học sinh cử tuyển được hưởng hiện nay là 360.000 đồng/người/tháng,
không phải đóng học phí, được ưu tiên ở ký túc xá nhà trường.
Tuy còn một số ý kiến đánh giá chưa thống nhất về chất lượng, hiệu quả
đào tạo của hệ cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào các trường cao đẳng và

16 |


đại học, song, như trên đã phân tích, thực hiện chế độ cử tuyển chính là
phương thức phát triển nguồn cán bộ dân tộc trực tiếp, đang mang lại những
hiệu quả thiết thực cho đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta. Theo
điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì 87,2% sinh viên tốt nghiệp hệ cử
tuyển trở về quê hương công tác đúng ngành nghề được đào tạo, chấp hành
nghiêm chỉnh sự phân công của địa phương. Điều này hoàn toàn phù hợp với
thống kê chất lượng đội ngũ cán bộ cấp tỉnh, huyện và cơ sở của các tỉnh
miền núi phía Bắc (đã được phân tích ở trên).
Có thể nói, sự phát triển, trưởng thành của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
ở miền núi phía Bắc trong 20 năm qua luôn gắn liền với các thành tựu phát
triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, trước hết và trực tiếp là kết quả thực hiện

chế độ cử tuyển.
4.1.2. Những mặt hạn chế của chính sách cử tuyển
Trước hết, các giải pháp phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số mới chỉ
tập trung giải quyết vấn đề thiếu hụt về số lượng, chưa chú ý nâng cao chất
lượng và cơ cấu nguồn cán bộ
Sau khi Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (khoá VI) và Quyết định số 72
TTg của Hội đồng Bộ trưởng, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được
khôi phục trên diện rộng khá nhanh chóng. Một trong những nhiệm vụ chủ
yếu của nó là tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Chỉ trong vòng 6 năm (1990
- 1995) về cơ bản hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú đã hình thành và
hoàn thiện đến cấp huyện. Nhờ đó đã đào tạo được hàng chục nghìn con em
các dân tộc thiểu số đạt trình độ học vấn cơ bản, tạo cơ sở tối thiểu để trở
thành cán bộ. Nhưng khi khảo sát thực tế đã cho thấy, hệ thống trường phổ
thông dân tộc nội trú đã và đang phát triển theo diện rộng, nhằm đáp ứng nhu
cầu xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở của các địa phương.
Có lúc, có nơi, ở một số địa phương coi đây như những hoạt động mang tính
chất phong trào, chưa chú ý đúng mức đến chất lượng đào tạo. Nhìn chung,

17 |


chất lượng giáo dục - đào tạo của các trường dân tộc nội trú được đánh giá
thấp hơn so với chất lượng chung. Mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước về xây dựng cơ sở trường học, thiết bị dạy học, sách giáo khoa và chế
độ phụ cấp sinh hoạt phí cho học sinh, nhưng chưa có sự ưu tiên thích đáng
để xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của các trường phổ
thông dân tộc nội trú. Chính vì lẽ đó đã dẫn đến chất lượng đầu vào của hệ cử
tuyển ở các trường cao đẳng, đại học thấp so với hệ đào tạo chính quy.
Hầu hết con em các dân tộc ở các vùng sâu, vùng xa đều chưa biết tiếng
phổ thông hoặc giao tiếp hạn chế, trong khi đó giáo viên lại không biết tiếng

dân tộc, và không hiểu phong tục, tập quán và tâm lý dân tộc. Vì vậy đã hạn
chế cả về chất lượng dạy học của giáo viên và chất lượng học tập của học
sinh. Đây là nguyên nhân chủ quan có thể khắc phục được nếu như chúng ta
thống nhất trong nhận thức và hành động, quyết tâm vượt qua trong những
năm trước mắt.
- Thứ hai, chính sách cử tuyển là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo miền núi, vùng dân tộc
và phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, nhưng một số địa phương chưa
thực sự coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, chưa tập trung lãnh đạo và chỉ
đạo kiên quyết để đạt hiệu quả cao.
Biểu hiện cụ thể là: nhiều địa phương chưa xây dựng được kế hoạch cử
tuyển theo nhu cầu đào tạo; chưa xác định được những ngành nghề thiết thực
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình. Sở Giáo dục
và Đào tạo chưa phân công cán bộ chuyên trách theo dõi hệ cử tuyển, phối
hợp cùng các trường thực hiện nhiệm vụ quản lý việc học tập, rèn luyện của
học sinh, sinh viên, đồng thời thực hiện quản lý, phân công số học sinh đã tốt
nghiệp hệ cử tuyển trở về địa phương công tác. Cá biệt, còn có hiện tượng coi
nhẹ hệ cử tuyển, đánh giá thấp chất lượng đào tạo của học sinh cử tuyển.
Thực hiện chủ trương cử tuyển và chế độ cử tuyển học sinh, sinh viên dân tộc

18 |


thiểu số vào các trường cao đẳng, đại học và trung cấp, có nhiều tỉnh không
hoàn thành chỉ tiêu cử tuyển được giao trong nhiều năm liên tục.
- Thứ ba, chất lượng văn hóa của học sinh cử tuyển nhìn chung còn thấp so
với hệ đào tạo chuẩn. Hầu hết các trường đại học và cao đẳng được giao nhiệm vụ
đào tạo hệ cử tuyển đều bố trí lớp học riêng và chọn cử cán bộ giảng dạy có kinh
nghiệm kèm cặp giúp đỡ. Song, kết quả học tập, chất lượng đào tạo của học sinh
hệ cử tuyển vẫn chưa tương xứng với yêu cầu. Điều đó đã gây nên những dư luận

xã hội, những ý kiến đánh giá thấp về chất lượng cán bộ được đào tạo qua hệ cử
tuyển; thậm chí đã xuất hiện những định kiến không thuận cho việc bố
trí, phân công công tác đối với những học sinh tốt nghiệp hệ cử tuyển
khi trở về một số địa phương.
Tâm lý chung của học sinh dân tộc thiểu số sau khi được đào tạo qua hệ
phổ thông dân tộc nội trú là chỉ muốn được cử tuyển vào cao đẳng, đại học,
không muốn học trung cấp chuyên nghiệp. Đây cũng là một bất cập không
nhỏ trong quá trình thực hiện chế độ cử tuyển. Từ năm 2002, để khắc phục
tình trạng "thừa thầy thiếu thợ", căn cứ vào nhu cầu của sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, một số tỉnh miền núi phía Bắc đã tiến hành
cử tuyển con em dân tộc thiểu số vào các trường trung cấp chuyên nghiệp và
dạy nghề. Nhưng tỷ lệ học sinh tự nguyện vào học thấp hơn so với các trường
cao đẳng và đại học.
- Cử tuyển học sinh theo học các ngành nghề không xuất phát từ nhu cầu
thực tế địa phương và chỉ tiêu giao từ trên xuống. Vì vậy, học sinh tốt nghiệp
về địa phương khó bố trí công tác. Ví dụ: học sinh học chế tạo máy, nhưng cả
tỉnh, huyện không có ngành cơ khí chế tạo.
- Một số học sinh diện cử tuyển sau khi tốt nghiệp không trở lại địa
phương mà tự liên hệ công tác ở miền xuôi, gây khó khăn cho địa phương
trong việc bố trí công tác. Một số huyện không có kế hoạch bố trí, sử dụng học
sinh cử tuyển dẫn đến tình trạng thừa cán bộ, gây lãng phí cho Nhà nước.

19 |


Trở lại vấn đề đào tạo nhân lực tại chỗ, tất cả các giáo viên được hỏi đều
cho rằng chất lượng cử tuyển chưa đạt yêu cầu, đây là tồn tại của cả khu vực
miền núi nói chung chứ không riêng của tỉnh nào, bởi nhiều học sinh cử tuyển
không theo nổi chương trình học và thường xuyên phải thi lại, nhờ sự chiếu cố
mới ra trường được. Khi ra trường họ không đảm bảo năng lực công tác.

Cũng có ý kiến cho rằng không nên cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số
học các trường Y và Sư phạm vì liên quan đến chất lượng giảng dạy và khám
chữa bệnh. Đối với giáo dục chỉ nên cử tuyển giáo viên dạy xoá mù, mầm non
và tiểu học. Thực tế là đã có nhiều giáo viên dạy quá yếu nhưng đào tạo ra thì
phải sử dụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến của giáo viên đề nghị duy trì cử tuyển
để tăng đội ngũ cán bộ địa phương, nhưng phải xét sao cho người cử tuyển có
chất lượng.
Công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, một mặt phụ thuộc ở
điều kiện kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc, các yếu tố văn hoá, tâm lý của
đồng bào dân tộc thiểu số ở một số địa phương, mặt khác còn phụ thuộc vào
sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở
địa phương đó. Hầu hết các địa phương từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở đã vận dụng
đúng chính sách dân tộc của Đảng, của Nhà nước, thực hiện chủ trương phát
triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Song, vẫn còn một số nơi vận dụng chệch
hướng, gây ra sự hoài nghi đối với nhân dân hoặc là trầm trọng thêm tâm lý
mặc cảm đối với một số vùng dân tộc. Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm,
cần phải chú ý khắc phục. Nguyên nhân này vừa liên quan đến những yếu tố
khách quan, vừa liên quan đến những nhân tố chủ quan, đòi hỏi phải có sự
thống nhất nhận thức và hành động của tất cả các cấp, các ngành từ Trung
ương đến các địa phương và cơ sở, có cách làm và bước đi phù hợp với từng
địa phương, từng đối tượng dân tộc, mới có thể khắc phục được một cách cơ
bản, triệt để

20 |


Thứ tư, trong quá trình thực hiện chế độ cử tuyển ở một số địa phương
đã nảy sinh những tiêu cực: cử tuyển không đúng đối tượng, không thực hiện
công khai, minh bạch quy trình, chỉ tiêu cử tuyển, chưa tạo cơ hội thực sự cho
các dân tộc đặc biệt khó khăn có được số lượng con em cần thiết đưa vào diện

"tạo nguồn".
- Đối tượng cử tuyển là con em các dân tộc đang sinh sống có khẩu
thường trú 5 năm trở lên (tính đến ngày 30 - 9 của năm tuyển sinh) tại vùng
có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Vùng này được cụ thể hóa đến
cấp xã theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
Về cơ bản, đối tượng tuyển sinh ưu tiên cho vùng 3 (khu vực 3) là hợp lí.
Tuy nhiên, các xã thuộc vùng 3 cũng có những biến động, do một số xã kinh
tế - xã hội đã phát triển nên đã xin rút khỏi chương trình 135 và có xã lại được
bổ sung. Mặt khác, ở vùng khó khăn nhiều năm không tuyển đủ học sinh.
Thực tế, nhiều thôn bản thuộc các xã vùng 2, đồng bào gặp muôn vàn khó
khăn, có khi còn khó khăn hơn một số thôn bản thuộc các xã vùng 3. Vì không
ít xã vùng 3 lại nằm trên trục đường quốc lộ có điều kiện phát triển kinh tế. Cho nên
việc phân định vùng ưu tiên cử tuyển lại phải tính đến cả vấn đề thôn bản. Nếu cứ
“đóng cứng” vào tiêu chí xã mà tuyển nhiều khi sẽ không công bằng.
Thứ năm, vấn đề tộc người trong cử tuyển cũng đáng lưu ý, trong nhiều
năm qua tình trạng mất cân đối trong công tác đào tạo nguồn nhân lực ở từng
dân tộc tại một số xã, vùng đặc biệt khó khăn còn khá phổ biến. Để đảm bảo
hơn về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trong đó có quyền bình đẳng về văn
hóa, học thuật thì việc ưu tiên cho các tộc người có ít cán bộ trình độ cao là rất cấp
thiết.
Tuy nhiên, trong quá trình xét tuyển cũng có những bất cập. Theo quy
định của thông tư Liên bộ số 04/2001/TTLT-BGD &ĐT- BTCCBCPUBDT&MN ngày 26 - 2 - 2001: Học sinh là con em các dân tộc đang sinh
sống và có hộ khẩu thường trú đủ 5 năm trở lên (tính đến ngày 30 - 9 của năm

21 |


tuyển sinh) tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thuộc
diện xét cử tuyển.
Chính quy định này đã hạn chế việc xét tuyển vì nhiều trường hợp học

sinh là người dân tộc thiểu số ở xã khó khăn, nhưng bố mẹ các em do yêu cầu
công tác được điều động về làm việc tại thị trấn, thị xã. Do vậy hộ khẩu các
em lại rơi vào vùng thuận lợi nên những em này không đủ điều kiện tham dự
xét tuyển cử tuyển. Mặt khác thông tư này cũng tạo kẽ hở cho một số cán bộ
có chức quyền, bản thân họ và con cái họ sống ở thị xã, thị trấn nhưng để
được hưởng chế độ cử tuyển đã hợp thức hóa hộ khẩu cho con em mình. Đây
cũng là một trong những vấn đề bức xúc của công tác cử tuyển hiên nay ở
nhiều địa phương.
Những hiện tượng trên đây đã xuất hiện ngay từ những năm đầu thực
hiện chế độ cử tuyển, đặc biệt là giai đoạn 1990 - 1995, hầu như địa phương
nào cũng có thiếu sót trong vấn đề này. Giai đoạn tiếp theo, 1996 - 1998, sau
khi sơ kết rút kinh nghiệm, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo
cùng với các địa phương chấn chỉnh một bước, cơ bản không còn những sai
phạm nghiêm trọng về đối tượng cử tuyển. Những năm 1999 - 2010, thực
hiện chế độ cử tuyển theo Luật Giáo dục, những thiếu sót trong quá trình cử
tuyển đã được khắc phục, nhưng vẫn còn một số địa phương chưa thực sự
quan tâm đến các dân tộc đặc biệt khó khăn, chưa tạo cơ hội cho các dân tộc
đó vươn lên trong quá trình đào tạo cán bộ dân tộc của mình.
- Thứ sáu, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của hệ cử tuyển tại các trường
cao đẳng và đại học còn thiếu và chưa đồng bộ. Mặc dù đã được nhà nước
quan tam đầu tư, song các trường chưa thực sự ưu tiên đặc biệt đối với hệ cử
tuyển để tạo điều kiện tốt nhất, tiện lợi nhất cho học sinh các dân tộc thiểu số.
Vì vậy chưa thể nâng cao chất lượng dạy và học đối với hệ cử tuyển của các
trường cao đẳng, đại học và trung cấp. Thậm chí cho đến nay, các trường

22 |


trung cấp được giao nhiệm vụ đào tạo học sinh cử tuyển nhưng chưa được cấp
kinh phí đào tạo.

Đội ngũ cán bộ giảng dạy hệ cử tuyển của các trường cao đẳng và đại học
chưa được lựa chọn kỹ càng, chất lượng giảng dạy không đều. Một số trường
chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng đào tạo so với quy định. Chương trình
đào tạo còn nặng nề, quá tải, phương pháp giảng dạy chưa phù hợp với đối
tượng học sinh hệ cử tuyển, chậm đổi mới. Điều đó đã làm hạn chế chất lượng
đào tạo của hệ cử tuyển, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp loại khá, loại giỏi còn thấp.
Kết quả đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phát triển nguồn cán bộ dân
tộc thiểu số và chất lượng nguồn nhân lực của miền núi phía Bắc.
- Thứ bảy, sự phối hợp giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh với các trường đại học,
cao đẳng và trung cấp chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Nhìn chung các địa
phương không quan tâm theo dõi quản lý học sinh, sinh viên hệ cử tuyển;
không nắm được số lượng cụ thể học sinh đã được cử tuyển vào các trường
cao đẳng, đại học và trung cấp. Do đó, cũng không thể nắm được chất lượng
học tập, rèn luyện của học sinh, sinh viên tại các nhà trường. Hiện nay hầu hết
các đại phường đều có tình trạng không quản lý được số học sinh dân tộc
thiểu số đã tốt nghiệp đang công tác ở đâu, làm việc gì và làm như thế nào.
Chính vì vậy đã không đánh giá chính xác về chất lượng công tác cũng như
khả năng tác nghiệp của số cán bộ đã được đào tạo qua hệ cử tuyển. Đặc biệt
là việc đánh giá về khả năng tác nghiệp của đội ngũ y sĩ, bác sĩ và đội ngũ
giáo viên được đào tạo theo chế độ cử tuyển. Đây không chỉ đơn thuần chỉ là
một hạn chế trong quá trình thực hiện chế độ cử tuyển mà còn biểu hiện cụ
thể về sự thiếu trách nhiệm của các địa phương đối với vấn đề này. Sự thiếu
trách nhiệm đó đã gây ra những lãng phí không nhỏ trong quá trình đầu tư
phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Chính
điều đó hạn chế hiệu quả đầu tư của Đảng và Nhà nước đối với việc phát triển
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, gây ra những ý kiến đánh giá thiên lệch, thiếu

23 |



khách quan về chất lượng đào tạo hệ cử tuyển trong những năm qua. Vì vậy,
trong những năm trước mắt cần phải có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hạn
chế trên đây. Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ, đưa các hoạt động phối hợp
giữa các địa phương với các trường cao đẳng, đại học và trung cấp vào nền
nếp để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo của hệ cử tuyển.
- Thứ tám, chế độ học bổng và các chính sách hỗ trợ khác cho học sinh,
sinh việ hệ cử tuyển tuy đã được quan tâm nhưng còn ở mức thấp. Từ năm
2002 đến nay, chúng ta vẫn thực hiện mức học bổng cho học sinh, sinh viên
hệ cử tuyển là 160.000 đồng/tháng và tiền hỗ trợ trang thiết bị hiện vật là
360.000 đồng/1 học sinh cho cả khóa học là quá thấp, chưa đủ để học sinh,
sinh viên các dân tộc trang trải các chi phí tối thiểu cho cuộc sống và học tập,
như ăn, uống, mua sắm sách, tài liệu nghiên cứu....Do vậy chưa đảm bảo được
đủ điểu kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì mức học bổng kể trên
không đảm bảo được điều kiện sinh hoạt tối thiểu nên đã có không ít học sinh
hệ cử tuyển phải bỏ học giữa chừng.
5. Kiến nghị - giải pháp
Căn cứ vào thực trạng nêu trên và dựa vào những đặc điểm riêng biệt của
khu vực về tự nhiên - kinh tế - văn hóa - xã hội, chúng tôi đưa ra một số kiến
nghị và nhóm giải pháp sau đây:
5.1. Nhóm giải pháp về kinh tế
Để phát triển văn hóa - giáo dục, trước hết, đời sống của người dân phải
được đảm bảo. Việc Chính phủ, địa phương “rót” vốn hỗ trợ cho người dân
chỉ có thể tạm thời làm giảm bớt khó khăn, muốn để người dân chủ động
trong kinh tế thì bên cạnh việc trợ giúp vốn, công cụ sản xuất, quan trọng hơn
là phải hướng dẫn cho họ cách thức sản xuất sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Chỉ khi đời sống ổn định, sản xuất phát triển, người dân mới có thể nghĩ đến
việc đầu tư cho con cái học hành. Đồng thời, tình trạng trẻ em bỏ học theo bố
mẹ lên nương rẫy làm ăn cũng từ đó mà giảm bớt.

24 |



5.2. Nhóm giải pháp về nhận thức
Một trong những nhân tố hàng đầu để thay đổi được những hạn chế đang
tồn tại trong ngành giáo dục Tuyên Quang (và chung cho cả nước) chính là sự
thay đổi về mặt nhận thức của người dân, đặc biệt là của đồng bào DTTS đối
với giáo dục. Địa phương cần thường xuyên tuyên truyền cho đồng bào hiểu
tác dụng của việc học thông qua những ví dụ thực tế (chẳng hạn: được học
hành đầy đủ, sẽ có nhiều cơ hội làm các công việc có thu nhập tốt).
Bấy lâu nay, người dân vẫn quen “chờ đợi”, thậm chí ỷ lại vào sự hỗ trợ của
Nhà nước. Đây là một thói quen tiêu cực, đã ăn sâu vào ý thức của người dân.
Để thay đổi thói quen này, cần một thời gian lâu dài, trước hết phải hướng người
dân đến sự chủ động trong mọi lĩnh vực đời sống. Ngay cả với giáo dục, không
thể cứ trông chờ vào các chính sách của Nhà nước mà chính mỗi gia đình, mỗi
người dân cũng phải có trách nhiệm đóng góp vào sự phát triển của giáo dục
thông qua các hoạt động như: góp sức để xây dựng trường lớp, động viên con
em đi học ...
5.3. Nhóm giải pháp về chính sách
- Tập trung đào tạo nguồn lực cán bộ, giáo viên cả về trình độ chuyên
môn, phương pháp làm việc lẫn đạo đức nghề nghiệp bằng nhiều hình thức
mềm dẻo, linh hoạt. Đặc biệt, tăng cường đào tạo đội ngũ giáo viên là người
DTTS, để vừa góp phần nâng cao trình độ chung của đồng bào dân tộc vừa
thuận lợi trong việc tiếp cận và giúp đỡ các học sinh thuộc khu vực DTTS.
Bên cạnh đó, cần có kế hoạch rà soát, kiểm tra lại toàn bộ số giáo viên hiện
đang trong biên chế về trình độ đã được đào tạo. Những giáo viên chưa tới 40
tuổi có trình độ đào tạo dưới chuẩn nhưng phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề và
có nhu cầu gắn bó lâu dài với nghề, có năng lực thì nên bố trí đào tạo lại cho
họ đạt chuẩn.
Ngoài ra, Nhà nước và địa phương cần có sự hỗ trợ thích đáng và có
chính sách luân chuyển cán bộ hợp lí để đời sống giáo viên được đảm bảo,


25 |


×