Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Giáo án Nhập môn công tác xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.32 KB, 128 trang )

BÀI GIẢNG
HỌC PHẦN NHẬP MÔN
CÔNG TÁC XÃ HỘI


MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
I. CÔNG TÁC XÃ HỘI LÀ MỘT NGÀNH KHOA HỌC – MỘT NGHỀ CHUYÊN
MÔN
1. Khái niệm công tác xã hội
2. CTXH là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn
2.1. CTXH là một ngành khoa học
2.2. CTXH với tư cách là một nghề trong xã hội
II. MỤC ĐÍCH VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Mục đích của Công tác xã hội
2. Chức năng của Công tác xã hội
2.1. Chức năng khoa học của CTXH
2.2. Chức năng nghề CTXH
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Đối tượng của CTXH
1.1. Đối tượng nghiên cứu của CTXH
1.2. Đối tượng tác nghiệp của CTXH
2. Phạm vi hoạt động của CTXH
IV. MỘT SỐ KHÁI NIỆM/THUẬT NGỮ TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Nhóm người yếu thế
2. Chức năng xã hội
3. Vấn đề xã hội
4. Cá nhân
5. Gia đình
6. Cộng đồng
7. Nhu cầu


8. Nhân viên CTXH
V. ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Mối quan hệ giữa con người toàn diện và môi trường toàn diện
2. Gia đình là "trường hợp" trong CTXH
3. Cộng đồng là một "đặc trưng" của CTXH
4. Tổ chức là "đặc trưng" của CTXH
5. Quan hệ xã hội là "then chốt" trong CTXH
6. Tương tác xã hội là "đặc trưng" của CTXH
7. Tự quyết là "đặc trưng" của CTXH
8. Giám sát/Kiểm huấn
VI. PHÂN BIỆT CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CÔNG TÁC TỪ THIỆN, CỨU TRỢ XÃ
HỘI VÀ BẢO ĐẢM XÃ HỘI
1. Phân biệt công tác xã hội với công tác từ thiện
2. Phân biệt Công tác xã hội với Cứu trợ xã hội và Bảo đảm xã hội
VII. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VÀ CÁC NGÀNH KHOA
HỌC XÃ HỘI KHÁC
1. Mối quan hệ giữa CTXH với An sinh xã hội
2. Mối quan hệ giữa CTXH và Xã hội học
3. CTXH với Tâm lý học
4. Mối quan hệ giữa CTXH và Triết học
5. Quan hệ giữa chính sách xã hội và CTXH
VIII. SƠ LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI Ở
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1. Trên thế giới

2


2. Ở Việt Nam
CHƯƠNG II: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI

I. NỀN TẢNG TRIẾT LÝ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
II. MỘT SỐ LÝ THUYẾT TIẾP CẬN TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Tiếp cận dựa trên thuyết về nhu cầu con người của A.Maslow
2. Tiếp cận dựa trên thuyết về quyền con người
3. Thuyết nhân văn hiện sinh
4. Lý thuyết hệ thống
5. Tiếp cận dựa trên thuyết sinh thái
III. QUAN ĐIỂM GIÁ TRỊ, NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG VÀ QUY ĐIỀU ĐẠO
ĐỨC CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Quan điểm giá trị của công tác xã hội
2. Các nguyên tắc hoạt động của công tác xã hội
2.1. Các nguyên tắc cơ bản của CTXH
2.2. Các nguyên tắc hướng dẫn hành động của NVXH
3. Quy điều đạo đức của công tác xã hội
3.1 Mục đích của các quy điều đạo đức trong CTXH
3.1.1 Quy điều đạo đức trong CTXH là gì?
3.1.2 Mục đích của các quy điều đạo đức trong CTXH
3.2 Các quy điều đạo đức trong công tác xã hội
3.2.1 Những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
3.2.2 Tư cách đạo đức nghề nghiệp của nhân viên công tác xã hội
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP, KỸ NĂNG VÀ TIẾN TRÌNH TRONG CTXH
I. CÁC PHƯƠNG PHÁP TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Phương pháp CTXH với cá nhân
2. Phương pháp CTXH với nhóm
3. Tổ chức và phát triển cộng đồng
4. Quản trị ngành CTXH
5. Phương pháp nghiên cứu trong CTXH
II. MỘT SỐ KỸ NĂNG CƠ BẢN TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Kỹ năng lắng nghe
2.Kỹ năng giao tiếp

3. Kỹ năng thấu cảm
4. Kỹ năng đặt câu hỏi
5. Kỹ năng quan sát
7. Kỹ năng vãng gia
8. Kỹ năng thiết lập mối quan hệ với thân chủ
III. TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
CHƯƠNG IV: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC
1. Công tác xã hội với trẻ em
2 Công tác xã hội với người khuyết tật
3. CTXH với người cao tuổi
4. CTXH trong trường học
5. CTXH với gia đình
6. Công tác xã hội trong lĩnh vực y tế
7. Công tác xã hội với người nhiễm HIV/AIDS
8. Công tác xã hội với người nghiện ma tuý
9. Công tác xã hội với đối tượng mại dâm
10. Công tác xã hội nông thôn

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Công tác xã hội:

CTXH

Nhân viên xã hội: NVXH
Xã hội học:


XHH

Tâm lý học:

TLH

An sinh xã hội:

ASXH

4


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
(9 tiết LT)
Mục tiêu chung: Chương I trang bị cho người học những khái quát chung
nhất về ngành CTXH, giúp người học nắm bắt và mô tả được CTXH là một ngành
khoa học – một nghề chuyên môn, nắm bắt được mục đích, chức năng, đối tượng và
phạm vi hoạt động của CTXH. Đồng thời, chương I cũng giúp người học hiểu rõ các
đặc trưng trong CTXH, biết vận dụng đúng chức năng và các đặc trưng của CTXH
vào phân tích các tình huống trong thực tiến, hiểu rõ vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn
của nhân viên CTXH trong quá trình tác nghiệp với đối tượng.
I. CÔNG TÁC XÃ HỘI LÀ MỘT NGÀNH KHOA HỌC – MỘT NGHỀ
CHUYÊN MÔN
1. Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội (Social Work) là những hoạt động có ý nghĩa to lớn trong mỗi
quốc gia dân tộc và là một trong những lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của các
cấp các ngành, đặc biệt là của các nhà khoa học trong nước và quốc tế. Công tác xã
hội (CTXH) đã và đang đóng vai trò quan trọng đối với sự bình đẳng và tiến bộ của

cả nhân loại.
Qua hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, với tư cách là một khoa học, một
nghề nghiệp, CTXH đã từng bước hoàn thiện hệ thống lý thuyết về con người, xây
dựng các phương pháp khoa học, thực hành các kỹ năng nghề nghiệp góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội liên quan đến đời sống của từng cá nhân, nhóm và cộng đồng
yếu thế. CTXH đã và đang góp phần thúc đẩy sự thay đổi xã hội theo hướng trao
quyền và giải phóng con người, làm “thức dậy” tiềm năng của chính họ.
Trên thế giới CTXH đã được khẳng định là một ngành khoa học độc lập, có
đối tượng nghiên cứu riêng, có hệ thống lý luận và phương pháp nghiên cứu riêng.
Sự khẳng định đã được thực tiễn kiểm nghiệm khi CTXH hướng tới giúp đỡ các đối
tượng khó khăn trong cuộc sống, góp phần làm xã hội ổn định, phát triển và tiến bộ.
CTXH là một tất yếu khách quan, vừa thể hiện nhu cầu thiết yếu của nó trong
xã hội hiện đại, đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện kinh tế, xã hội,

5


chính trị, văn hoá xã hội. Vì vậy, trong quá trình vận động với tư cách là một khoa
học và một hoạt động thực tiễn, ở những thời điểm khác nhau, ở những quốc gia
khác nhau, đã xuất hiện những quan niệm khác nhau về CTXH.
Trước hết, CTXH được xem như một ngành khoa học, một nghệ thuật can thiệp
đối với những vấn đề xã hội để tạo nên sự chuyển biến của xã hội. Tiêu biểu như:
Từ điển Bách khoa ngành CTXH (1995): “CTXH là một ngành khoa học ứng
dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến
xã hội và đe lại nề an sinh cho người dân trong xã hội”. [4]
Tại Đại hội Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế ở Canada năm 2004
cũng khẳng định công tác xã hội là “một hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự
thay đổi, phát triển của xã hội bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề xã
hội (vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ xã hội), vào quá trình tăng cường năng lực
và giải phóng tiềm năng của cá nhân, gia đình, cộng đồng, công tác xã hội giúp cho

con người phát triển hài hòa và đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người dân”.
Như vậy trong những khái niệm trên đều cho thấy khía cạnh tác động của
CTXH là nhằm tạo ra sự thay đổi xã hội và đảm bảo nền an sinh cho mọi người dân.
Đây là cách hiểu về CTXH theo nghĩa rất rộng và tổng quát.
Một số quan điểm khác khi tiếp cận CTXH lại nhấn mạnh đến vai trò của
CTXH là sự tăng cường chức năng xã hội cho cá nhân, gia đình, cộng đồng, đặc biệt
là cho những nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn cần trợ giúp. Đơn cử như các
định nghĩa sau:
Theo khái niệm của Hiệp hội quốc gia nhân viên xã hội Mỹ (NASW- 1970):
"Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng
tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những
điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó”. [1]
Hay theo Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7 năm
2000 tại Montreral, Canada (IFSW) thì : "Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi
xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải
phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu.
Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội

6


tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và
Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề". [1]
Theo Foundation of Social Work Practice: Công tác xã hội là một môn khoa
học ứng dụng để giúp đỡ mọi người vượt qua những khó khăn của họ và đạt được
một vị trí ở mức độ phù hợp trong xã hội. Công tác xã hội được coi như là một môn
khoa học vì nó dựa trên những luận chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã
được chứng minh. Nó cung cấp một lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn và xây dựng
những kỹ năng chuyên môn hoá.
Theo Nguyễn Thị Oanh (Đại học Mở bán công TPHCM) [9]: CTXH là hoạt

động thực tiễn, mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo các nguyên tắc và
phương pháp nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong việc giải quyết
các vấn đề đời sống của họ; qua đó CTXH theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc
con người và tiến bộ xã hội. CTXH là hoạt động thực tiễn bởi họ luôn làm việc trực
tiếp với đối tượng, với nhóm người cụ thể và mang tính tổng hợp cao, bởi người làm
CTXH phải làm việc với nhiều vấn đề khác nhau như: Tệ nạn xã hội, vấn đề người
nghèo, vấn đề gia đình. CTXH không giải quyết mọi vấn đề của con người và xã hội
mà chỉ nhằm vào những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của con người.
Đó là: an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội, đồng thời hỗ trợ con người giải quyết vấn
đề đời sống cụ thể của họ nhằm đem lại sự ổn định, hạnh phúc cho mọi người và
phát triển cho cộng đồng, xã hội.
Mới đây, Hội nghị toàn cầu về Công tác xã hội với chủ đề “Công tác xã hội
và phát triển xã hội: những tác động” được tổ chức tại Stockholm, Thụy Điển
năm 2012 đã trao đổi các kết quả nghiên cứu, các đề xuất cho việc thúc đẩy vai trò
của công tác xã hội với phát triển xã hội ở 03 chủ đề lớn: Nhân quyền và bình đẳng
xã hội; biến đổi môi trường và phát triển xã hội bền vững; sự chuyển đổi toàn cầu
và hành động xã hội. Trong đó có việc đề xuất về cách hiểu mới về quan niệm công
tác xã hội toàn cầu so với cách hiểu hiện nay về nội dung, giá trị, hệ thống lý luận và
thực hành về công tác xã hội với một số điểm lưu ý sau:
Công tác xã hội là một hoạt động chuyên môn nằm giữa các lĩnh vực về các
mối quan hệ giữa các chủ thể xã hội và các mối quan hệ của nhà nước trong các
bối cảnh lịch sử - xã hội khác nhau về lĩnh vực hoạt động chuyên môn. Quan

7


niệm này hướng đến phát triển lý luận xã hội và hệ thống các hành động xã hội
dựa trên đời sống vật chất và tái sản xuất xã hội từ các quan điểm biến đổi xã hội.
Quan điểm này hướng đến cam kết thực hiện các vấn đề về dân chủ và cuộc chiến
chống lại sự bất bình đẳng xã hội; thông qua việc nâng cao quyền tự chủ, sự tham

gia và sự an toàn của mọi công dân để qua đó có khả năng đạt được các vấn đề
nhân quyền và công bằng xã hội.
Quan niệm này thừa nhận các nguyên tắc về thống nhất trong sự đa dạng. Nó cũng
thừa nhận sự tồn tại của hoạt động công tác xã hội trong đời sống thực tại có mối quan hệ
với sự biểu hiện của bất bình đẳng tồn tại trong xã hội hiện đại và về các phương thức đấu
tranh loại bỏ chúng. Các biểu hiện đó được nhìn nhận ở các nội dung (a) dân chủ và nhân
quyền, (b) quy định xã hội và chính sách xã hội, (c) đoàn kết quốc tế, an sinh xã hội và
bảo trợ xã hội, (d) đấu tranh xã hội và phong trào xã hội. Những phương thức này đòi hỏi
các hành động chuyên môn cụ thể tuỳ thuộc vào từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của từng quốc gia, khu vực.
Xét về khía cạnh giá trị, các hành động chuyên môn công tác xã hội dựa trên
các giá trị đạo đức và các nguyên tắc như đảm bảo sự tự do, công bằng, bình đẳng,
đa dạng, và quyền công dân với mục đích vượt qua sự căng thẳng, đói nghèo, thất
nghiệp, phân biệt đối xử và bất bình đẳng xã hội.
Quan niệm này được đặt ra cũng dựa trên các lý luận chung về công tác xã hội
và các tri thức đặc biệt để phân tích và tổ chức can thiệp trong hiện thực vì mục tiêu
tạo sự chuyển biến xã hội. Phương pháp luận của công tác xã hội dựa trên việc thu
thập các tri thức lý luận và tri thức chung xuất phát từ các nghiên cứu khoa học và
quá trình xã hội hoá những trải nghiệm. Lý luận công tác xã hội giúp mọi người đọc
và hiểu về các tiến trình lịch sử, trong đó việc hiểu về các chủ thể xã hội (cá nhân,
nhóm, gia đình và xã hội) là một bộ phận của tiến trình xã hội.
Quan niệm này cũng đề ra những nội dung thúc đẩy quá trình thực hành công tác
xã hội với các vấn đề xã hội hiện nay. Các hoạt động chuyên môn đòi hỏi các nhân viên
xã hội làm chủ được các lý thuyết và phương pháp luận về vấn đề nghiên cứu và có được
các kỹ năng, kỹ thuật và cách tiến hành thực hành trực tiếp. Tất cả những công việc này
phải dựa trên các vấn đề đạo đức và các hoạt động được đào tạo cụ thể nhằm phát triển
khả năng và năng lực liên quan đến công tác xã hội. Mục tiêu của các hoạt động chuyên

8



môn là nâng cao năng lực của các công dân, các thiết chế dân chủ, các vấn đề nhân quyền
chung, tôn trọng các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền có liên quan đến sự đa dạng văn
hoá, dân tộc, hình thức tư duy thế hệ, quan hệ giới và bản sắc riêng, và những định hướng
giới. Tất cả nhằm hướng đến có được hệ thống hành động xã hội nhằm bảo trợ các điều
kiện về môi trường xã hội và cuộc chiến chống lại các vấn đề về bất bình đẳng, nghèo đói,
thất nghiệp và các hình thức vi phạm và bất công, cũng như việc phân phối lại thu nhập và
phúc lợi. Với mục đích này, nhân viên xã hội phải có cách nhìn tích cực với các hoạt động
chuyên môn được đào tạo nhằm đóng góp cho quá trình phát triển, bảo vệ và tăng cường
khả năng thực hiện các vấn đề về nhân quyền và các cách thức tiếp cận đến vấn đề này.
(Trần Văn Kham (tổng hợp) - Nguồn: />Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về CTXH song các định nghĩa đưa
ra ở cả thế giới và Việt Nam đều có một số điểm chung sau:
- CTXH là một khoa học, một hoạt động chuyên môn bao gồm hệ thống kiến
thức, kỹ năng, nghiệp vụ và những quy định về đạo đức hành nghề.
- Đối tượng tác động của CTXH là cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng, đặc
biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội.
- Hướng trọng tâm của CTXH là tác động tới con người và môi trường của họ,
tác động tới mối quan hệ tương tác giữa nhóm đối tượng và môi trường xã hội.
- Mục đích của CTXH là hướng tới khôi phục, tăng cường và phát triển các
chức năng xã hội của con người, hướng tới sự phát triển bền vững của con người và
xã hội.
Từ những phân tích trên ta có thể đi đến khái niệm về công tác xã hội như sau:
Công tác xã hội (CTXH) là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn vận
dụng các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp để hỗ trợ cho cá nhân, nhóm, gia
đình, cộng đồng có những thay đổi, phát triển, khôi phục và tăng cường việc thực
hiện các chức năng xã hội thông qua các hoạt động. Các hoạt động này tập trung
vào các quan hệ xã hội của họ để tạo nên sự tương tác giữa con người với môi
trường xung quanh và kết quả của sự tương tác này là tăng cường chức năng xã
hội cho cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng, tạo nên sự phát triển bền vững cho
con người.


9


Với mục đích trên, ngành công tác xã hội đã được đưa vào chương trình đào
tạo với mục tiêu đào tạo ra những nhân viên công tác xã hội có tay nghề, trình độ
chuyên môn cao đáp ứng nhu cầu giải quyết các vấn đề của xã hội.
2. CTXH là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn
2.1.CTXH là một ngành khoa học
CTXH đáp ứng được 4 đòi hỏi của một ngành khoa học bất kỳ:
[1] Đáp ứng được nhu cầu nhận thức của con người: Nhận thức của con người
bắt nguồn từ thực tiễn. CTXH bắt nguồn từ công tác từ thiện, từ tinh thần nhân văn,
bác ái của con người. Tuy nhiên xã hội luôn phát triển, kéo theo nó là hàng loạt các
vấn đề xã hội nảy sinh, tác động trực tiếp đến cuộc sống của cá nhân, nhóm, cộng
đồng trong xã hội. Chính vì vậy, công tác từ thiện, nhân đạo không thể giải quyết
được tất cả các vấn đề một cách triệt để, tạo tâm lý ỷ lại và thụ động của đối tượng
được thụ hưởng. Yêu cầu đặt ra là phải có một ngành khoa học ra đời với kiến thức
khoa học, phương pháp khoa học để hỗ trợ, giúp đõ các cá nhân, nhóm, cộng đồng
có vấn đề xã hội, bị mất hoặc bị giảm thiểu các chức năng xã hội giải quyết triệt để
các vấn đề mà họ gặp phải.
[2] Đối tượng nghiên cứu của CTXH: là những hoạt động xã hội đặc thù tác
động vào các mối quan hệ xã hội của cá nhân, nhóm, cộng đồng nhằm tạo nên sự
tương tác giữa họ với môi trường xung quanh, khôi phục, tăng cường và phát triển
các chức năng xã hội của họ.
[3] Hệ thống khái niệm, học thuyết, phạm trù, quy luật riêng (Khái niệm là
công cụ trợ giúp, là lý thuyết trợ giúp).
[4] Phương pháp nghiên cứu riêng:
+ Phương pháp luận riêng
+ Phương pháp nghiên cứu riêng
+ Phương pháp tác nghiệp riêng

CTXH có đầy đủ cơ sở khoa học, hệ thống lý thuyết, kiến thức về con người để trị
liệu cho con người, CTXH không giải phóng con người bằng tâm linh hay tôn giáo.
Tuy nhiên, chúng ta cần thừa nhận đặc tính phức tạp của khoa học xã hội: Chỗ
đứng chung của các ngành khoa học xã hội là mảnh đất xã hội nhưng mỗi ngành lại có

10


một đặc thù riêng. Do có chỗ đứng chung nên các ngành khoa học xã hội (Xã hội học,
CTXH, tâm lý học,…) có thể vay mượn các kiến thức, kỹ năng, lý thuyết của nhau để làm
phong phú, hoàn thiện cho hệ thống lý luận phục vụ cho từng ngành. CTXH cũng được
nhấn mạnh là có cơ sở khoa học tổng hợp và mang tính liên ngành.
2.2. CTXH với tư cách là một nghề trong xã hội
- CTXH là một nghề - một hoạt động chuyên môn, một khoa học thực hiện
nhiệm vụ, chức năng xã hội giao phó và được xã hội thừa nhận
- Có mã nghề, chức danh, thang bậc lương; có kỹ năng, tay nghề, mối quan hệ
nghề nghiệp, có tính chuyên nghiệp quốc tế cao.
- Các chính sách, chương trình, dịch vụ CTXH được triển khai bởi một bộ máy tổ
chức theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương cùng với sự tham gia của các ngành
giáo dục, y tế, toà án,…theo một hệ thống tổ chức dọc và liên ngành.
- CTXH được thực hiện trên một nền tảng hệ thống giá trị, nguyên tắc, yêu
cầu đạo đức nghề nghiệp và được pháp luật quy định rõ ràng.
- CTXH là một khoa học bao gồm hệ thống kiển thức lý thuyết và hệ thống
kỹ năng thực hành.
- CTXH được đào tạo ở nhiều cấp bậc, trình độ.
II. MỤC ĐÍCH VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Mục đích của Công tác xã hội
Hoạt động ngành CTXH hướng tới giúp đỡ cá nhân, nhóm, gia đình, cộng
đồng phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường việc thực hiện chức năng xã hội,
tạo ra những thay đổi về vị trí, vai trò của cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đồng.

Một mặt CTXH giúp cá nhân tăng cường năng lực để hoà nhập xã hội, mặt khác
CTXH thúc đẩy các điều kiện xã hội để cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đồng tiếp
cận được với các chính sách, các nguồn lực xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản.
Ngành CTXH được thừa nhận tại nhiều nước trên thế giới và được khẳng định là lĩnh vực
ngành nghề có nhiệm vụ làm giảm bớt khoảng cách khác biệt về kinh tế và xã hội giữa
các thành viên trong xã hội. CTXH cam kết với sự phát triển an sinh con người, xóa bỏ sự
nghèo đói và áp bức, đem đến công bằng và sự phồn vinh cho con người.
Hoạt động nghề nghiệp CTXH hướng tới hai nội dung cơ bản sau:

11


Thứ nhất là, nâng cao năng lực cho các nhóm đối tượng (cá nhân, nhóm, gia
đình và cộng đồng) có hoàn cảnh khó khăn.
Thứ hai là, cải thiện môi trường xã hội để hỗ trợ cá nhân, gia đình, nhóm
và cộng đồng thực hiện các chức năng xã hội, thực hiện vai trò của họ một cách
hiệu quả.
Trên cơ sở đó, mục đích của ngành CTXH được nêu cụ thể như sau:
- Trợ giúp con người, cộng đồng giải quyết, đối phó với các khó khăn trong
cuộc sống.
- Tìm ra những điểm mạnh và phát huy tiềm năng của cá nhân, nhóm, gia đình
và cộng đồng trong giải quyết vấn đề.
- Nối kết con người với các nguồn lực và hệ thống các dịch vụ xã hội
- Thúc đẩy các tổ chức xã hội cung cấp dịch vụ và nguồn lực cho con người
hoạt động có hiệu quả và mang tính nhân văn.
- Phát triển và cải thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội.
Nói tóm lại, mục đích chính của CTXH là nhằm khôi phục, tăng cường và phát
triển các chức năng xã hội của con người. CTXH hướng tới sự phát triển bền vững
của con người và xã hội. Quá trình thực hiện mục đích, CTXH không làm cô lập mà
phải biết phối hợp, khai thác và liên kết với các tổ chức, dịch vụ để phục vụ cho cá

nhân, nhóm, cộng đồng.
2. Chức năng của Công tác xã hội
2.1. Chức năng khoa học của CTXH
- Chức năng nhận thức: Chức năng này thể hiện ở hệ thống kiến thức của
CTXH: lý thuyết, khái niệm, phương pháp,...
- Chức năng thực tiễn: CTXH phản ánh sự vận động, phát triển, biến đổi của
xã hội loài người.
- Chức năng dự báo: Trên cơ sở các thông tin thu thập được từ các thân chủ,
CTXH sẽ xác định được các vấn đề xã hội liên quan đến thân chủ. Từ đó, CTXH dự
báo được những biến đổi trong môi trường, xã hội tác động tới thân chủ, dự báo sự
ảnh hưởng của các thể chế xã hội tác động lên đối tượng.

12


Mặt khác thông qua quá trình làm việc với các thân chủ, nhân viên xã hội còn
dự báo được cả những yếu tố tiêu cực, tích cực, những tiềm năng của thân chủ để
giúp thân chủ nhanh chóng phục hồi và phát triển về sau này.
2.2. Chức năng nghề CTXH
a. Chức năng phục hồi
CTXH hướng tới thân chủ, phục hồi, khôi phục lại những chức năng xã hội đã
bị mất hoặc bị giảm thiểu. Bao gồm những hoạt động trợ giúp đối tượng trở lại mức
ban đầu và giúp họ hòa nhập cuộc sống xã hội. CTXH quan tâm phục hồi chức năng
hoạt động của con người trên cả 3 mặt:
- Phục hồi về thể chất
- Phục hồi về tâm lý
- Phục hồi về xã hội
CTXH cần tiến hành phục hồi song song cả 3 mặt trên.
Hoạt động phục hồi nhằm giúp đối tượng trở lại cuộc sống bình thường, hòa
nhập cộng đồng. Trong quá trình làm việc với thân chủ, CTXH cần chú ý tới việc

phục hồi các chức năng bị suy giảm của thân chủ, giúp họ lấy lại cân bằng trong
cuộc sống. Chức năng phục hồi phải luôn song hành với các chức năng khác để đảm
bảo vấn đề của thân chủ được giải quyết một cách triệt để.
b. Chức năng trị liệu
"Trị liệu" là một thuật ngữ vay mượn của y học và tâm lý học. Có nhiều tài
liệu còn gọi đây là chức năng “can thiệp”.
Trong CTXH, trị liệu là việc loại trừ hoặc cải thiện các vấn đề xã hội đang tồn tại,
gây cản trở cho việc thực hiện chức năng xã hội của con người. Chức năng trị liệu nhằm
đi vào giải quyết vấn đề của thân chủ, giúp họ hoà nhập với cộng đồng.
c. Chức năng phòng ngừa
Đây là chức năng CTXH hướng tới cung cấp các dịch vụ cho người dễ bị tổn
thương trong xã hội để đẩy mạnh việc thực hiện chức năng xã hội cho con người
trước khi vấn đề xã hội nảy sinh.
CTXH đề ra các biện pháp phòng ngừa các "bệnh xã hội" cho thân chủ. Đồng
thời giúp họ hiểu biết và có cơ hội tiếp cận với hệ thống các dịch vụ xã hội, biết khai

13


thác, phát huy "tài nguyên" của bản thân để tự mình giải quyết vấn đề của chính
mình. Để đảm bảo cho sự phòng ngừa đạt hiệu quả cao nhất, CTXH phải chú ý đến
yếu tố gia đình, cộng đồng và môi trường.
d. Chức năng phát triển
CTXH xây dựng các dự án hỗ trợ cho cá nhân, nhóm, cộng đồng phát triển.
Nhưng CTXH không làm thay cho cộng đồng, cho thân chủ mà CTXH chỉ là sự "xúc
tác" giúp họ thăng bằng và phát triển bình thường.
Chức năng phòng ngừa và phát triển không tách rời nhau mà gắn bó chặt chẽ
với nhau. Vì nếu phát triển ổn định, bền vững thì sẽ tạo ra nhân tố chủ quan cho sự
phòng ngừa.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI

1. Đối tượng của CTXH
1.1. Đối tượng nghiên cứu của CTXH
Đối tượng nghiên cứu của CTXH là những hoạt động xã hội đặc thù tác động
vào các mối quan hệ xã hội của cá nhân, nhóm, cộng đồng nhằm tạo nên sự tương tác
giữa họ với môi trường xung quanh, khôi phục, tăng cường và phát triển các chức
năng xã hội của họ.
CTXH nghiên cứu các vấn đề xã hội nảy sinh, những vấn đề xã hội này đang
ngăn cản việc thực hiện chức năng xã hội của cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đồng
nhằm tạo nên sự phát triển bền vững.
1.2. Đối tượng tác nghiệp của CTXH
Đối tượng tác nghiệp của CTXH thường được gọi là “thân chủ” (client). Theo
Hepworth và cộng sự, danh mục đối tượng xã hội mà công tác xã hội hướng đến có
thể bao gồm: (Trần Văn Kham (tổng hợp) - Nguồn: />- Các cá nhân vô gia cư;
- Các gia đình có các vấn đề về bỏ rơi con trẻ hay có những vấn đề về lạm
dụng tình dục, thể chất hay cuộc sống vợ chồng;
- Các cặp vợ chồng thường xuyên có những xung đột trong hôn nhân;

14


- Các gia đình - bao gồm cả gia đình đơn thân có những khó khăn về cuộc
sống của con trẻ;
- Các cá nhân có HIV/AIDS và cuộc sống của các thành viên trong gia đình;
- Các cá nhân và các gia đình có những hình thức vi phạm pháp luật;
- Vị thành niên mang thai;
- Những cá nhân đồng giới, đa giới tính hoặc chuyển giới và những người
thân của họ;
- Những cá nhân khuyết tật về thể chất hay tinh thần và các thành viên
trong gia đình;
- Những cá nhân nghiện ma túy, nghiện rượu và gia đình họ;

- Trẻ em vừa bị mất cha mẹ;
- Các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; trẻ em có khó khăn về học tập
- Người di cư;
- Người già và cô đơn không nơi nương tựa;
- Những cá nhân vừa nghỉ hưu, nghỉ việc hay vừa tham gia vào lực lượng lao động;
- Các cá nhân có những khủng hoảng liên quan đến các biến cố trong
cuộc sống;
- Các nạn nhân của bạo lực gia đình;
- Các nạn nhân của thiên tai, dịch bệnh...
* Liên hệ tại Việt Nam: thảo luận
Đối tượng tác động của công tác xã hội thực sự rất đa dạng. Theo cách nhìn
nhận từ góc độ bổ trợ hay nâng cao việc thực hiện chức năng xã hội của các đối
tượng xã hội, các đối tượng được tác động của ngành này có thể được phân nhóm cụ
thể như sau:
Những thân chủ tự nguyện:
Là những người đang sử dụng các dịch vụ xã hội một cách tự nguyện, nếu
những mối quan tâm của họ được giải quyết một cách rõ ràng, công khai. Ví dụ, các
đội tượng cần tư vấn chăm sóc các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần, các đối

15


tượng không còn người thân tiếp cận đến dịch vụ nuôi dưỡng; trẻ em cần trợ giúp khi
hòa nhập vào môi trường học tập mới…
Những thân chủ được ủy thác bởi pháp luật:
Là những người đang sử dụng các dịch vụ xã hội dưới sự điều hành của
hệ thống tòa án hay pháp luật. Đó là những người hoặc là bị ép buộc sử dụng các
dịch vụ đó (như bảo hộ, giáo dưỡng trẻ em vi phạm pháp luật; các chương trình
thử thách-cải tạo).
Những thân chủ không tự nguyện:

Là nhóm người áp dụng các dịch vụ xã hội thông qua những áp đặt bởi
các thành viên của gia đình, bởi giáo viên ở trường học hay các quy định xã hội
khác nhưng không bị ép buộc hay cưỡng chế bởi hệ thống pháp luật. Chẳng hạn,
có nhiều thân chủ rối loại thần kinh được các thành viên gia đình yêu cầu tiếp
cận đến các hoạt động can thiệp trong công tác xã hội.
Hiểu được nhóm đối tượng thân chủ thông qua việc tìm ra những mối quan tâm
của họ, tìm hiểu các hoàn cảnh của thân chủ cũng như những vấn đề khác phát sinh từ
việc tìm hiểu các khía cạnh này là công việc đầu tiên rất cần thiết và cơ bản cho các
công việc tiếp theo của hoạt động thực hành công tác xã hội. Quá trình này cần làm rõ
những điểm mạnh, những khả năng hiện có của chính thân chủ.
Ví dụ, một học sinh gần đây hay nghỉ học có quá trình học khá tốt ở trường,
có khả năng giao tiếp tốt và sẵn sàng chỉ ra những điểm khó khăn trong cuộc sống
tại gia đình đó chính là những điểm mạnh mà cán sự cần khám phá trước khi tiến
hành các bước can thiệp cụ thể. Việc tìm ra được điểm mạnh của thân chủ chính là
cơ sở bền vững cho các hoạt động thực hành can thiệp trực tiếp đến thân chủ, sẽ
khuyến khích sự tham gia - bày tỏ cách nhìn nhận của bản thân và sự tự quyết của
thân chủ.
Như vậy, đối tượng của CTXH không chỉ giới hạn ở những nhóm người yếu thế
trong xã hội mà nó còn bao phủ ở mọi nhóm, mọi tầng lớp dân cư trong cộng đồng.
2. Phạm vi hoạt động của CTXH
CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp thân chủ
nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chính năng xã hội, thúc đẩy môi
trường xã hội liên quan đến chính sách, nguồn lực, dịch vụ, …để giải quyết và phòng

16


ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội và công bằng xã hội. Với
mục đích trên, CTXH đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong quá trình
giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh. Tùy theo tình hình và điều kiện ở các quốc gia,

CTXH tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong hệ thống an sinh xã hội, có thể
được phân ra như sau:
* Phân theo nhóm đối tượng tác động, CTXH làm việc với các đối tượng sau:
- Chăm sóc, trợ giúp các cá nhân, gia đình có công với cách mạng.
- An sinh trẻ em và gia đình: hướng tới cung cấp nhiều loại dịch vụ và các
cách tiếp cận khác nhau từ cơ sở chăm sóc trẻ đến các dịch vụ trợ giúp, trị liệu gia
đình. CTXH đặc biệt chú trọng tới nhóm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và nhóm
trẻ có nguy cơ.
- Những người yếu thế trong xã hội: người khuyết tật, người nghèo, người vô
gia cư, người già cô đơn không nơi nương tựa,…
- An sinh người già: CTXH hướng đến cung cấp các dịch vụ và tham gia vận
động, xây dựng chính sách cho người già.
- Trợ giúp các đối tượng xã hội: người nghiện ma túy, mại dâm, phạm pháp,…Đây
là lĩnh vực CTXH quan tâm và đưa ra các dịch vụ chăm sóc, phục hồi.
Bệnh nhân có vấn đề về thể chất và tâm thần cngx được nhận các dịch vụ hỗ
trợ, trị liệu về tâm lý và xã hội.
- Các cộng đồng dân cư nghèo, có vấn đề xã hội,… cũng là một lĩnh vực quan
tâm của CTXH trong hoạt động tổ chức và phát triển cộng đồng.
* Phân theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội, bao gồm:
- Lĩnh vực an sinh xã hội: Đây là lĩnh vực bao gồm các vấn đề về lao động,
việc làm, an toàn xã hội, xóa đói giảm nghèo,…, là lĩnh vực mà CTXH chịu trách
nhiệm chính trong can thiệp và giải quyết vấn đề để đảmbảo nền an sinh xã hội.
- Lĩnh vực pháp lý: CTXH tham gia vào lĩnh vực pháp lý nhằm đảm bảo
quyền lợi, bảo vệ quyền của công dân trong các trường hợp liên quan đến pháp lý.
Trong lĩnh vực này, NVCTXH có thể làm việc trong các tòa án, nhà tù, cơ quan pháp
luật để trợ giúp đối tượng về tinh thần cũng như vật chất, giới thiệu và tư vấn pháp
lý, giúp tòa án có được quyết định tốt nhất về trường hợp của thân chủ.

17



- Lĩnh vực giáo dục: CTXH hoc đường là một hoạt động chuyên biệt trong
thực hành CTXH. Mục đích tổng quát của công tác xã hội tại trường học là nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống. Công tác xã hội tại trường học ứng dụng các nguyên
tắc và phương pháp của chuyên ngành công tác xã hội vào mục đích chính trong
trường học, chú trọng đến sự thay đổi hành vi của học sinh. Nhân viên xã hội tại
trường học cần lưu ý rằng sự mất quân bình của học sinh là kết quả của sự tương tác
giữa các đặc trưng của cá nhân học sinh với các điều kiện và hoạt động diễn ra trong
môi trường gia đình và trường học.
- Lĩnh vực y tế: Đây là một lĩnh vực có mặt khá sớm trong lịch sử của CTXH.
Hoạt động này nhằm giúp cho bệnh nhân được chăm sóc, phục hồi cả về mặt thể chất
và tinh thần, những trợ giúp về vật chất và hòa nhập cộng đồng.
* Phân theo các cơ quan, tổ chức có:
- Cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước như: Bộ LĐTB-XH, Bộ Y tế, các
Sở, phòng tại địa phương,… (ở một số quốc gia còn có Bộ Xã hội hay Bộ An sinh xã
hội,…). Đây là cơ quan chính triển khai các chính sách, chương trình, dịch vụ xã hội
cho các nhóm đối tượng của ngành, đồng thời đây cũng là cơ quan chính xây dựng
các chính sách xã hội.
- Các tổ chức chính trị - xã hội: Các tổ chức này triển khai các hoạt động trợ
giúp xã hội và đưa ra tiếng nói của công dân, đảm bảo cơ hội cho người yếu thế tham
gia vào việc xây dựng chính sách như: chính sách nhà ở, y tế, việc làm,…qua đó giúp
họ nâng cao năng lực và hòa nhập xã hội, có thể kể tới Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Chữ Thập đỏ,…
- Các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ Quốc tế.
- Các cơ quan, viện, tổ chứclàm công tác đào tạo và nghiên cứu.
- Các tổ chức từ thiên, nhân đạo tư nhân, các trung tâm, dịch vụ của tư nhân.
IV. MỘT SỐ KHÁI NIỆM/THUẬT NGỮ TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Nhóm người yếu thế
Nhóm người yếu thế được xem là những người ít có cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ, nguồn lực trong xã hội. Do những rào cản nhất định từ bản thân thân chủ

hay từ môi trường nên các dịch vụ xã hội, chính sách an sinh xã hội, các nguồn lực

18


trong xã hội không đến được với họ, họ không có điều kiện để phát triển tiềm năng,
khó hoà nhập với những nhóm người khác trong xã hội. Chính vì vậy, trong một số
tài liệu họ còn được nhắc tới với cái tên là nhóm người ngoài rìa xã hội.
Những nhóm người thường được xem là nhóm người yếu thế trong xã hội như:
+ Người nghèo
+ Người già
+ Trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
+ Người dân tộc thiểu số
+ Phụ nữ, phụ nữ bị buôn bán, bị bạo hành, phụ nữ đơn thân,…
+ Những người là nạn nhân của bạo hành
+ Những người là nạn nhân của tệ nạn xã hội như: mại dâm, nghiện ma tuý,…
+ Những người khuyết tật
+ Những người bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS,…
2. Chức năng xã hội
Chức năng xã hội là sự thực hiện vai trò xã hội của cá nhân mà họ đảm nhận ở
vị trí nhất định trong nhóm xã hội. Chức năng xã hội quy định nhiệm vụ, trách
nhiệm, những hành vi hay hoạt động cho cá nhân trong vị trí xã hội tương ứng. Nói
cách khác, sự thực hiện vai trò trong nhóm xã hội của cá nhân được xem là sự thực
hiện chức năng xã hội của cá nhân đó.
Một người có thể thực hiện nhiều chức năng xã hội bởi họ có nhiều vai trò
trong các nhóm xã hội khác nhau. Trong quá trình trao đổi tương tác với môi trường
xung quanh hoặc do những nguyên nhân từ bản thân thân chủ có thể dẫn tới việc họ
bị suy giảm, bị phát triển lệch lạc hoặc bị mất chức năng xã hội, hoặc không thực
hiện được chức năng xã hội vốn có của mình,…Sự có mặt của nhân viên CTXH với
các phương pháp can thiệp, các dịch vụ xã hội sẽ giúp cho họ vượt qua được tình

huống khó khăn đó, tăng cường và khôi phục lại việc thực hiện các chức năng xã hội
của họ.
3. Vấn đề xã hội
Trong CTXH, vấn đề xã hội được xem như là những khó khăn, bất cập của cá
nhân, gia đình hay cộng đồng cần được giải quyết. Nếu vấn đề xã hội không được

19


giải quyết nó sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của cá nhân, gia đình và nền an sinh của
cộng đồng. Vấn đề tuy của cá nhân nhưng có thể làm ảnh hưởng tới những người
xung quanh như gia đình, làng xóm, cộng đồng. Ngược lại vấn đề của cộng đồng
cũng có tác động rất lớn đến cá nhân hay gia đình sống trong cộng đồng đó.
Những vấn đề xã hội có thể xảy ra đối với cá nhân, gia đình và cộng đồng như
nạn thất nghiệp, ma tuý, mại dâm, tội phạm, sự nghèo đói, HIV/AIDS, trẻ em lao
động sớm, người khuyết tật không được chăm sóc, bạo lực gia đình, buôn bán người,
…Đây là những vấn đề xã hội mà CTXH luôn quan tâm và thường can thiệp trực
tiếp để đảm bảo cuộc sống an bình cho cá nhân, gia đình và cộng đồng.
4. Cá nhân
Cá nhân được xem như là một người tách biệt với người khác bởi những đặc
trưng riêng của họ về nhu cầu, mục tiêu mong muốn,…Cá nhân ám chỉ một cá thể
tồn tại độc lập với quyền riêng của họ, với niềm tin riêng và sự độc lập của cá thể đó
trong một tập hợp nhóm người.
Cá nhân là một trong những đối tượng của CTXH. Khi nhu cầu của cá nhân
không được đáp ứng, họ bị rơi vào những tình huống khó khăn, chức năng xã hội của
họ bị suy giảm, bị mất hoặc bị phát triển lệch lạc, cá nhân gặp phải những vấn đề về
chức năng tâm lý – xã hội,…và khi họ không có khả năng tự giải quyết vấn đề khi đó
họ cần đến sự trợ giúp của nhân viên CTXH.
5. Gia đình
Dưới góc độ pháp luật, gia đình được xem là một thiết chế xã hội dựa trên cơ

sở kết hợp những thành viên khác giới thông qua quan hệ hôn nhân để thực hiện các
chức năng của gia đình. Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách
nhiệm, quyền lực và giữa họ có sự ràng buộc có tính pháp lý được Nhà nước thừa
nhận và bảo vệ.
Ở góc độ xã hội, gia đình được xem như một nhóm người liên kết với nhau
bởi mối quan hệ thân thuộc máu mủ, họ hàng. Trong xã hội tồn tại gia đình hạt nhân
và gia đình mở rộng. Gia đình hạt nhân là gia đình bao gồm: vợ, chồng, các con. Gia
đình mở rộng là gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống.
Gia đình được xem như một thiết chế xã hội, một môi trường xã hội rất quan
trọng trong cuộc sống của con người. Quá trình xã hội hoá đầu tiên của con người

20


đều bắt đầu từ gia đình. Con người sinh ra, lớn lên trong gia đình và bị tác động phần
nhiều bởi yếu tố văn hoá, truyền thống của gia đình. Ảnh hưởng của gia đình tới mỗi
thành viên trong gia đình là rất lớn. Một gia đình hạnh phúc khi mọi người quan tâm
giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó với nhau. Đây là nền tảng vững chắc cho mỗi thành viên
trong gia đình phát triển, phát huy tiềm năng của bản thân và hoàn thiện nhân cách.
Ngược lại, một gia đình có chức năng bị suy giảm thì các thành viên trong gia đình
có xu hướng, có hành vi tiêu cực, giảm ý thức trách nhiệm với bản thân và với người
khác, với xã hội. Do vậy, hoạt động trợ giúp một cá nhân luôn gắn với sự trợ giúp gia
đình của họ, nhằm cải thiện sự tương tác giữa các thành viên trong gia đình, giúp họ
thực hiện tốt chức năng xã hội của mình. Như vậy, gia đình cũng là một đối tượng
của ngành CTXH.
6. Cộng đồng
Cộng đồng là một nhóm xã hội hay một tổ chức cùng chung môi trường, mối
quan tâm. Trong cộng đồng người, những nhu cầu, mong muốn, niềm tin, nguồn lực
hay những rủi ro và nhiều yếu tố khác có thể ảnh hưởng tới việc thực hiện chức năng
xã hội của cá nhân, gia đình hay nền an sinh của cộng đồng.

Cộng đồng có thể là những người sống trong cùng một địa lý như làng, xã,
quận, huyện, một quốc gia,…Cộng đồng có thể là tập hợp người có chung văn hoá,
ngôn ngữ như: cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cộng đồng người Chăm,…
Hay xét trên hai khía cạnh sau:
- Cộng đồng theo lãnh thổ: là tập hợp một nhóm người nhất định cùng sinh
sống trên một lãnh thổ nhất định.
- Cộng đồng theo chức năng: là tập hợp một nhóm người có chung mục đích,
chung mối quan tâm và hoạt động theo những quy định, quy chế nhất định.
Những vấn đề nảy sinh trong cộng đồng đều ảnh hưởng tới cuộc sống của mỗi cá
nhân hay gia đình trong cộng đồng đó. Ví dụ: cộng đồng nghèo đói, kém phát triển là
cộng đồng có cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu thốn các nguồn lực và các dịch vụ xã hội.
Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới sự đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân và gia đình trong
cộng đồng đó. Ngược lại, những vấn đề của cá nhân có thể ảnh hưởng tới an sinh của
cộng đồng. Ví dụ: Những gia đình có người nghiện ma tuý sẽ làm ảnh hưởng tới sự an
toàn của người khác, gia đình khác, cũng như sự ổn định của cộng đồng.

21


7. Nhu cầu
Nhu cầu là một khái niệm khá phổ biến liên quan đến đời sống, sự tồn tại và
phát triển của bất kỳ một thực thể vật chất nào. Đối với con người, để đảm bảo cho
sự sống, sự phát triển cả về thể chất và tinh thần đòi hỏi phải hội tụ đủ các yếu tố cần
thiết. Điều đó cũng có nghĩa là các nhu cầu cơ bản của con người cần được đáp ứng.
Theo quan niệm của Mác: “ Nhu cầu là đòi hỏi khách quan của mỗi con người
trong những điều kiện nhất định, bảo đảm cho sự sống và phát triển của mình”.
Theo Từ điển tiếng Việt (2002, NXB Đà Nẵng): “Nhu cầu là đòi hỏi của đời
sống tự nhiên và xã hội”.
Theo Loenter (1971) “Nhu cầu là trạng thái thiếu hụt cái gì đó, trạng thái
hướng hoạt động của cá nhân đến sự bù đắp, thoả mãn cái thiếu hụt đó”.

Nếu nhu cầu được thoả mãn sẽ đem lại những yếu tố tích cực cho sự phát triển của
con người, ngược lại nếu nhu cầu không được đáp ứng sẽ gây ra những căng thẳng, hụt
hẫng, mất “thăng bằng”. Nhu cầu được sinh ra, biến đổi cùng với sự phát triển của con
người, xã hội càng phát triển nhu cầu của con người ngày càng cao.
Nghiên cứu về nhu cầu của con người, A. Maslow đã chia nhu cầu thành 5
loại theo thứ tự bậc thang như sau:
Nhu cầu hoàn thiện
Nhu cầu được tôn trọng
Nhu cầu xã hội
Nhu cầu an toàn xã hội
Nhu cầu vật chất

-

Nhu cầu vật chất: ăn, uống, ở mặc, không khí, nhà ở,…

-

Nhu cầu an toàn xã hội: sống trong một môi trường hoà bình, an toàn,

không có bạo lực, xung đột; sức khoẻ, môi trường sống, việc làm,…
-

Nhu cầu xã hội: được hội nhập, được giao tiếp, được yêu thương, được

tham gia vào một nhóm nào đó,…

22



-

Nhu cầu được tôn trọng: được mọi người chấp nhận và tôn trọng giá trị

riêng của mỗi người,…
-

Nhu cầu hoàn thiện: được tự khẳng định mình, được xã hội tạo điều kiện

để hoàn thiện và phát triển tiềm năng cá nhân.
Trong quá trình thoả mãn nhu cầu, con người thường gặp phải những xung đột
giữa các loại nhu cầu khác nhau, giữa nhu cầu cá nhân và nhu cầu của nhóm. Vì vậy
người nhân viên CTXH cần xác định được nhu cầu nào cần được thoả mãn trước đối
với cá nhân, đối với nhóm.
8. Nhân viên CTXH
Đề cập đến thuật ngữ này hiện này có rất nhiều cách gọi: nhân viên xã hội,
cán sự xã hội, cán bộ xã hội, người trợ giúp,…Trong bài giảng này, tác giả thường sử
dụng là nhân viên CTXH hoặc gọi tắt là NVXH.
Nhân viên CTXH được Hiệp hội các nhà CTXH chuyên nghiệp quốc tế IASW định nghĩa: “Nhân viên công tác xã hội là người được đào tạo, trang bị các
kiến thức và kỹ năng trong CTXH, họ có nhiệm vụ: trợ giúp các đối tượng nâng cao
khả năng giải quyết và đối phó với vấn đềtrong cuộc sống; tạo cơ hội để các đối
tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết; thúc đẩy sự tương tác giữa các cá nhân,
giữa cá nhân với gia đình, nhóm, cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn”.
* Nhiệm vụ cơ bản của NVCTXH:
- Phát hiện những vấn nạn xã hội hoặc những khó khăn, cản trở việc thực hiện
chức năng của cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng.
- Trợ giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng giải quyết khó khăn, nâng cao khả
năng ứng phó và và tự giải quyết vấn nạn của mình.
- NVXH nối kết thân chủ với các dịch vụ và nguồn lực trong xã hội hay nói

cách khác là tạo ra cầu nối giữa thân chủ và các tài nguyên trong xã hội.
- Thúc đẩy hoạt động của các dịch vụ trợ giúp
- Tham gia xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách xã hội,…
- Phân phối tài nguyên vật chất của xã hội
- Giữ vai trò an toàn xã hội khi cần thiết.

23


* Vai trò cơ bản của nhân viên CTXH:
- Vai trò là người giáo dục
NVXH chuyển các thông tin một cách tốt nhất đến đối tượng hoặc thực hiện
các vai trò giáo dục khác nhau trong quá trình giúp đối tượng giải quyết vấn đề, như
giáo dục làm chuyển đổi hành vi, nhân cách người nghiện ma tuý, hay giáo dục
phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng... Các hoạt động giáo dục, truyền
thông của SW diễn ra ở mọi cấp độ can thiệp và trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên dù ở
cấp độ nào thì các hoạt động giáo dục cũng phải nhằm 3 mục tiêu, đó là sự thay đổi
về:
Nhận thức: Giúp thân chủ thu nhận thêm kiến thức mới
Thái độ: Tăng cường cho thân chủ cảm xúc, cách nhìn, đánh giá vấn đề của
chính họ.
Kỹ năng: Giúp họ tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề.
- Vai trò là người trung gian, nối kết - người môi giới:
Nối kết đối tượng với các nguồn lực bên ngoài. Để thực hiện vai trò này, nhân
viên xã hội phải biết nguồn lực của xã hội, đánh giá nhu cầu của đối tượng đối với
các nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Nhân viên xã hội phải hết sức năng
động, sáng tạo trong việc tìm nguồn tài nguyên và tạo nên mối liên kết giữa đối
tượng với nguồn tài nguyên đó. Để làm tốt vai trò môi giới, NVXH phải hiểu đầy
đủ những nhu cầu, mong đợi của thân chủ, hiểu được những trung tâm, dịch
vụ, những nguồn lực có thể khai thác được đến với thân chủ. Như vậy, NVXH

chính là người kết nối thân chủ với các nguồn lực, các dịch vụ (y tế, giáo
dục…) để giải quyết vấn đề của thân chủ.
- Vai trò là người tạo thuận lợi:
Giúp cho đối tượng giải quyết vấn đề, tạo điều kiện cho đối tượng tham gia
vào quá trình tự giải quyết vấn đề của chính họ bằng những kiến thức, kỹ năng và
kinh nghiệm của nhân viên xã hội.
- Vai trò là người biện hộ/vận động chính sách:
Trong CTXH cá nhân, nhân viên xã hội đại diện cho nhu cầu của đối tượng,
biện hộ cho đối tượng trong những trường hợp liên quan đến việc bảo vệ quyền và

24


lợi ích của đối tượng mà các quyền và lợi ích này đã được pháp luật ghi nhận hoặc
được xã hội thừa nhận.
- Vai trò là nhà tham vấn/ tư vấn:
Những thân chủ khi đến với nhân viên xã hội, họ đều có vấn đề khó khăn,
trong số họ có những người đã từng phải trải qua những khủng hoảng về tâm lý, tổn
thương tinh thần, vì vậy nhân viên xã hội còn là người đóng vai trò như một nhà tư
vấn (đưa ra những hướng dẫn, lời khuyên cho thân chủ…) trên cơ sở am hiểu các
vấn đề của thân chủ. Cùng với đó, nhân viên xã hội còn đóng vai trò là nhà tham vấn,
nhà điều phối để giúp các họ chia sẻ những tâm sự, giúp họ tự khám phá được bản
thân, hoàn cảnh, tiềm năng và từ đó tăng cường khả năng đối phó, phòng ngừa
những vấn đề có thể xảy ra.
- Vai trò là người điều phối: NVXH thể hiện năng lực, khả năng điều hành,
điều phối, phân công công việc trong suốt tiến trình can thiệp sao cho các hoạt động
diễn ra một cách nhịp nhàng, có tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ. NVXH tạo lập và
duy trì bầu không khí xây dựng, kích thích và huy động thân chủ tham gia nhiệt tình
và có hiệu quả vào tiến trình giúp đỡ.
- Vai trò của người chăm sóc trợ giúp:

NVXH còn được xem là người cung cấp dịch vụ trợ giúp cho những cá nhân,
gia đình không có khả năng tự đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của mình và tự giải
quyết vấn đề.
- Vai trò của tác viên phát triển cộng đồng,…
Như vậy, có thể nói nhân viên CTXH có rất nhiều vai trò khác nhau khi thực
hiện vị trí, chức năng của mình trong ngành CTXH. Họ có thể đảm nhận một hay
nhiều vai trò tùy vào công việc và vị trí mà họ đảm nhiệm. Bên cạnh đó, NVXH còn
được khẳng định là một tác nhân thay đổi (change agent). Dù làm việc với cá nhân,
gia đình, nhóm, hay cộng đồng, mục tiêu của nhân viên CTXH luôn luôn là sự thay
đổi từ trạng thái xấu đến trạng thái tốt hơn cho khách hàng/thân chủ. Để đạt được
mục tiêu này, nhân viên CTXH phải có kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp.
V. ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Mối quan hệ giữa con người toàn diện và môi trường toàn diện

25


×