Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tam giao dong nguyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.2 KB, 23 trang )

Mục lục:

I. Mở đầu ... ......................................................................................

II. Tam giáo đồng nguyên ở xã hội Việt Nam từ thế kỷ
X- XV (thời kỳ Lý- Trần) ......................................................
1. Việt Nam hội nhập văn hoá trên cơ tầng văn ............
bản địa
2. Tam giáo đồng nguyên thời kỳ Lý- Trần....................
2.1. Phật giáo với xã hội Việt Nam ...................
2.2. Đạo giáo với xã hội Việt Nam ..................
2.3. Nho giáo với xã hội Việt Nam .................
3. Một số nhận xét về tam giáo đồng nguyên thời kỳ
Lý- Trần

III. Kết Luận ...... ............................................................................

1


Hiện tợng tam giáo đồng nguyên ở việt nam
từ thế kỷ x- xv
I. Mở đầu.
Trong bối cảnh Đông á nói chung (Đông á ở đây tôi muốn
chỉ cả vùng Đông Bắc á, Đông Nam á và Nam á), dù ở mức độ
này hay mức độ khác, các nớc đều chịu ảnh hởng của các nền văn
minh lớn Trung Hoa và ấn Độ. Trớc hết phải kể tới đó là sự ảnh hởng của văn hoá, đặc biệt là tôn giáo (chủ yếu là Nho, Phật Đạo, ấn
Độ giáo.). ở đây, tôi muốn lấy chính đất nớc Việt Nam của mình
làm hệ quy chiếu, phản ánh sự ảnh hởng đó trong khu vực. Việt
Nam có những nét chung vói khu vực đồng thời cũng có những nét
riêng trong việc tiếp thu văn hoá ngoại lai nói chung và tôn giáo nói


riêng.
Do những hoàn cảnh đại lý- lịch sử đặc biệt mà Việt Nam có
những đặc trng của nền văn hoá nông nghiệp. Đặc trng ấy là trọng
tình ngời, mang tính tổng hợp và tính linh hoạt. Sự kết hợp hai yếu
tố này tạo nên tính dung hợp: hiện tợng Tam giáo đồng nguyên.
Việt Nam không phải là nơi sản sinh ra một loại tôn giáo
nào, nhng lại hấp thụ đợc rất nhiều tôn giáo khác nhau tạo nên tính
tổng hợp, dung hợp của văn hoá Việt Nam. Trớc hết ta gặp sự dung
hợp giữa yếu tố văn hoá ngoại sinh với yếu tố văn hoá bản địa. Và
dung hợp các yếu tố văn hoá ngoại sinh (đã đợc bản địa hoá) với
nhau. Chính vì vậy mà hình thành nên quan niệm tam giáo đồng
nguyên. Sự dung hoà Tam giáo là một thực thể hình thành một
cách tự nhiên trong tình cảm và việc làm của ngời dân và đến thời
kỳ Lý- Trần thì đợc chính quyền công nhận rộng rãi. Dung hoà
Tam giáo không chỉ trong đời sống xã hội của ngời dân mà tồn
tại trên cả bộ phận bên trên tức bộ phận quý tộc phong kiến. Thời
kỳ Lý- Trần là sự biểu hiện rõ nhất của Tam giáo đồng nguyên.
Từ thời kỳ này chúng ta có thể nhìn sang các nớc sung quanh trong
khu vực để có sự so sánh thấy đợc những nét chung và nét riêng
trong việc ảnh hởng của các tôn giáo đối với mỗi nớc.

2


II. Tam giáo đồng nguyên ở xã hội Việt Nam từ thế kỷ XXV (thời kỳ Lý- Trần).
1. Việt Nam hội nhập văn hoá trên cơ tầng văn hoá bản địa.
Việt Nam nằm trong cơ tầng của nền văn hoá Đông Nam á,
cho nên cũng mang những nét chung của nền văn hoá này. Để hiểu
đợc văn hoá Việt Nam trớc hết chúng ta phải tìm hiểu qua vài nét
của văn hoá Đông Nam á. Đông Nam á bao gồm miền chân núi

Himalya và Thiên Sơn. Có thể hai dãy núi này nh hai mái nhà của
cả khu vực, chính vì thế mà hầu hết các con sông lớn của khui vực
đều bắt nguồn từ đây và lu vực các con sông đó trở thành những
vùng đồng bằng màu mỡ, đầy phù sa. Tuy nhiên, nét đặc trng tiêu
biểu của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi
rừng, đồng thời sự chênh lệch tơng đối nhỏ giữa bình nguyên và
mặt biển. Chính nét đặc trng của quá trình kiến tạo địa lý này cùng
với đặc trng khí hậu nóng ẩm, ma nhiều và có gió mùa đã góp phần
làm cho khu vực Đông Nam á trở thành vùng trồng lúa nớc chủ
yếu của thế giới theo mô hình văn hoá thảo mộc. ở đây có tính chất
tơng đối đồng nhất về nhan văn cộng đồng, tính đồng nhất này đợc
biểu hiện ở cơ cấu tổ chức làmg xóm xã thôn với những quy định
chung, tập tục chung đợc bảo vệ ở ý thức bảo tồn những tín ngỡng
truyền thống cổ xa mà khởi nguyên của chúng là những tín ngỡng
vật linh nguyên thuỷ những quan niệm hợp nhất đại vũ trụ và tiểu
vũ trụ, những mối giao hoà giữa vật với tâm
Cũng nh tất cả các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam á
không phải là khu vực biệt lập. Vì vậy, nó chắc chắn phải chịu ảnh
hởng của quy luật giao lu. Nằm trong quỹ đạo ấn Độ và Trung Hoa
chắc chắn Đông Nam á sẽ phải chịu những ảnh hởng rất lớn của

3


hai nền văn minh này. Tuy nhiên, khi tiếp nhận các yếu tố của văn
hoá ngoại lai, Đông Nam á luôn luôn lựa chọn và thích nghi những
bảo tồn truyền thống của mình. Đây chính là một đặc thù tạo nên
nét phong phú vô cùng về văn hoá, phong tập tập quán, tín ngỡng
của vùng này.
Nếu nói rộng ra một chút thì chút thì chúng ta nằm trong khu

vực văn hoá Đông Bắc á và văn hoá Đông Nam á. Thờng thì các
nhà khoa học thờng dùng thuật ngữ văn hoá Nam á để chỉ một
khu vực văn hoá truyền thống bao gồm các nớc Đông Nam á và
miền nam Trung Quốc phía nam sông Trờng Giang. Những đặc trng
chung cho nền văn hoá này đợc kể là: nền văn minh lúa nớc do trâu
cày, hệ thống làng xã cố kết chặt, đậm tính cộng đồng, tín ngỡng
vật linh và thần linh, tục thờ mẫu, các lẽ hội nông nghiệp theo mùa,
một số phong tục các nớc Đông Nam á nh ăn trầu, nhuộm răng,
xăm mình, đánh đu chọi gà... T duy tình cảm trong văn hóa Nam á
thờng đợc coi là mang tính nhu, mềm dẻo, uyển chuyển nhiều tính
nữ. Nền văn hoá Đông bắc á (ở đây mang tính chất tơng đối) bao
gồm miền bắc Trung Quốc (lu vực sông Hoàng Hà đợc coi là tiêu
điểm) và một só các nớc xung quanh phía đông nh Triều Tiên, Nhật
bản. Những nét chung nhất của văn hoá truyền thống Đông bắc á
là sử dụng chữ Hán, Khổng giáo, chế độ đẳng cấp tôn ti. Về mặt t
duy tình cảm văn hoá Đông bắc á mang tính cờng, mạnh mẽ, cứng
cỏi, nhiều nam tính(1).
Nói riêng Việt Nam, nằm trong khu vực Đông Nam á và khu
vực văn hoá Đông bắc á thì có đầy đủ những đặc điểm nh trên.
Tuy nhiên, quốc gia này vẫn còn những đặc điểm riêng của nó so
với khu vực. Nếu Đông Nam á là cầu nối đông- tây, thì Việt Nam
là đầu cầu để mở cửa vào Đông Nam á từ hớng ấn Độ và Trung
Quốc. Ngay trong bán đảo Đông Dơng thì tính chất bán đảo cũng
rõ nét nhất. ở đây khí hậu nóng ẩm, ma nhiều và có hai mùa rõ rệt.
Có thể nói rằng, khí hậu Việt Nam mang đặc trng tiêu biểu của
vùng khí hậu gió mùa, ở đây đã từng tồn tại một thảm thực vật tiền
sử lớn Đông Nam á, tạo điều kiện cho một nền nông nghiệp
nguyên thuỷ từ rất sớm, dẫn đến nền nông nghiệp lúa nớc. Đó là sự
(1)


Nguyễn Thừa Hỷ- Lịch Sử văn hoá Việt Nam giản yếu, Nxb ĐHQG Hà Nội, tr11

4


hội tụ của hai nền văn minh mang tính hằng số văn hoá: Văn minh
thảo mộc và văn minh sông nớc. Những dấu ấn của hai nền văn
minh này đã in đậm trên các mặt của đời sống vật chất, xã hội cũng
nh tinh thần của ngời Việt, tạo nên một đặc trng tâm lý mang tính
dịu, mềm và linh hoạt trong ứng xử.
Nét đặc thù của Việt Nam còn nằm ở cơng vực lãnh thổ và
cảnh quan địa lý không giống bất kì một nớc nào. Chúng ta biết
rằng, về diện tích, chúng ta không phải là một quốc gia lớn nhng lại
có trờng độ khá dặc biệt, kéo dài 15 vĩ độ. Đồng thời, trên dải đất
này thì rừng núi chiếm 2/3 diện tích, phần còn lại là sông ngòi phân
bố rộng khắp, còn đồng bằng chỉ chiếm tỉ lệ khiêm tốn (cha đến
1/3). Ngoài ra, bao quanh hớng đông và nam là bờ biển khoảng
2000 km, còn phía tây, bắc hầu nh lại bị ngăn chặn bởi núi rừng
trùng điệp, trong đó quan trọng nhất là Hoàng Liên Sơn và Trờng
Sơn.
Chính những đặc điểm về địa- văn hoá nh vậy để chúng ta
hiểu rõ hơn dẽ dàng tiếp cận đợc quá trình dung nạp các thành tố
văn hoá ngoại lai, dễ dàng tiếp cận hơn với hiện tợng Tam giáo
đồng nguyên trong lịch sử Việt Nam (đặc biệt là thời kỳ LýTrần) mà tôi sẽ trình bày sau đây. Và chúng ta sẽ hiểu hơn đồng
nguyên Tam giáo trên nền tảng văn hoá bản địa, trên một chủ thể
văn hoá Đông Nam á, cái chủ thể đó sẽ quy định tính dung hợp tới
đâu giữa Nho, Phật, Đạo.
Chúng ta cũng biết, do vị trí địa lí- văn hoá nớc ta nằm giữa
hai trung tâm văn hoá lớn nhất của thế giới là ấn Độ ở phía tây và
Trung Hoa ở phía bắc. Từ thời kỳ lịch sử xa xa, dân tộc Việt Nam

đã ý thức dợc điều đó, qua các thời kỳ lịch sử, dân tộc Việt Nam đã
có sự giao thoa và chịu sự ảnh hởng của các nền văn hoá trên. Còn
đối với Hy Lạp, vùng Lỡng Hà, và Ai Cập, trung tâm văn hoá thứ
ba của thế giới thì ở quá xa về phía tây, nên ảnh hởng đến nền văn
hoá nớc ta không rõ nét. Với vị trí văn hoá đặc biệt đó, dù dân tộc
Việt Nam muốn hay không cũng tạo ra đợc mọt sự hội nhập văn
hoá, không phải là sự hội nhập văn hoá bình thờng mà là một sự

5


hội nhập văn hoá kéo dài trên 20 thế kỷ, một sự hội nhập của những
tinh hoa đến từ hai trung tâm văn hoá tầm cỡ của thế giới là ấn Độ
và Trung Hoa(1). Sự hội nhập văn hoá đó lấy cơ thể văn hoá bản địa
làm chủ thể. Bản thân của văn hoá dân tộc Việt Nam là văn hoá chủ
nhà nó đã tiếp nhận dung hoà các yếu tố văn hoá ngoại lai, sự tiếp
thu này có sự chọn lọc, tiếp thu yếu tố này, loại bỏ yếu tố kia, biến
những yếu tố ngoại lai nhập thành xơng máu, da thịt của mình, giúp
cơ thể văn hoá chủ nhà luôn tồn tại, phát triển và thăng hoa, mô
hình hội nhập này thờng đợc gọi là mô hình hữu cơ(2).
2. Tam giáo đồng nguyên thời kỳ Lý- Trần (từ thế kỷ X- XV).
Nh trên đã trình bày, với nền văn hoá bản địa- văn hoá chủ
thể, ngay từ sớm Việt Nam đã dung hoà, tiếp nhận nhiều yếu tố văn
hoá của các nền văn minh lớn (chủ yếu là Trung Quốc và ấn Độ).
ở đây, tiếp nhận chủ yếu là Nho, Phật, Đạo cùng với văn hoá chủ
thể tạo nên Tam giáo đồng nguyên, góp phần tạo dựng nên một
nền văn hoá dân tộc đặc sắc.
2.1. Phật giáo với xã hội Việt Nam
Đạo phật đợc hình thành ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI
Tr.CN, ngời sáng lập là thái tử Sidhasta (Tất- đạt- đa), hộ là Gotama

(cồ đàm). Ông sống gần đồng thời với Khổng Tử nhng lại cách xa
nhau rất xa. Đạo phật sinh ra vào lúc vào lúc ở ấn độ đạo Bàlamôn
đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Nỗi
bất bình của thái tử về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng
cảm với những nỗi khổ của muôn dân, đó là những nguyên nhân
dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới.
Đạo Phật chủ trơng pháp tính bình đẳng, tất cả chúng sinh
đều có Phật tính và đều có thể trở thành Phật, từ chỗ tự giác tiến
lên giác ngộ. Phật khuyên mọi ngời nên biết tiết chế dục vọng, có
tinh thần vô ngã vị tha, làm điều lành, tránh sự ác, Phật là biểu tợng
của sự sáng suốt và từ bi.
Minh Chi- Vài suy nghĩ về sự hội nhập của Phập giáo vào nền văn hoá Việt Nam -Nghiên
cứu tôn giáo, sô 2 -2004.
(1) (2)

6


Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự
giải thoát. Cốt lõi của học thuyết này là tứ diệu đế ( bốn chân lí kì
diệu) hay tứ thánh đế ( bốn chân lí thánh) đó là : khổ đế, là chân lí
về bản chất của nỗi khổ ; nhân đế hay tập đế là chân lí về nguyên
nhân của nỗi khổ; diệu đế về cảnh giới diệt khổ và cuối cùng là
đạo đế tức là chân lí chỉ ra con đờng diệt khổ.
Thuyết nhân quả nghiệp báo của Phật giáo phù hợp với tín
ngỡng dân gian Việt về việc ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp ban
thởng ngời lành. Thuyết luân hồi phù hợp quan niệm linh hồn tồn
tại sau khi xác tiêu hoại và cũng phù hợp với nhận xét về sự tuần
hoàn ở cỏ cây của c dân nông nghiệp.
Cũng nh bất cứ một tôn giáo nào trên đờng phát triển, Phật

giáo đã chia thành nhiều tông phái khác nhau với hai dòng chính
là tiểu thừa( Nam tông) và Đại thừa ( Bắc tông). Phật giáo vào nớc
ta thì nó biến dạng khá nhiều, bởi đạo Bàlamôn, bởi những thêm
bớt trên đờng truyền bá từ ấn độ sang các nớc láng giềng, sang
Trung Quốc và từ Trung Quốc sang đất Việt. Khi vào đất Việt, Phật
giáo cũng phải biến hoá cho phù hợp với phong tục, tập quán của
nhân dân bản địa.
Quá trình thâm nhập Phật giáo vào nớc ta theo hai đờng cơ
bản. Đờng biển, các nhà s ấn độ đã cùng các thuyền buôm đến
Việt Nam truyền đạo, Luy Lâu- trị sở quận Giao Chỉ đã trở thành
một trung tâm Phật giáo quan trọng. Từ Luy Lâu có thể là một căn
cứ, một bàn đạp để Phật giáo đi sâu vào miền nội địa Trung Quốc,
điều này đợc chứng minh bởi câu trả lời vua Tuỳ Văn đế về tình
hình Phật giáo Giao Châu của nhà s Đàm Thiên nh sau: xứ Giao
Châu có đờng thông sang Thiên Trúc Phật giáo truyền vào Trung
Hoa cha phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn
20 bảo tháp, độ đợc 500 vị tăng và dịch đợc 15 bộ kinh rồi. Thế là
xứ ấy theo đạo Phật trớc ta ..

7


Có thể nói Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm. Theo truyền
thuyết ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái vào thời Hùng Vơng ,
Chử Đồng Tử đã ra biển, lên núi Quỳnh gặp nhà s ngoại quốc Phật
Quang để học đạo, trở về truyền lại cho mọi ngời. Nh vậy, Phật
giáo đã đợc truyền trực tiếp từ ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu
công nguyên nên từ Buddha trong tiếng Phạn Đợc phiên âm sang
tiếng Việt là Bụt. Phật giáo Giao Châu lúc nay mang màu sắc Tiểu
thừa- Nam tông và trong con mắt ngời Việt Nam nông nghiệp Bụt

nh một vị thần vị thần và luôn có mặt ở khắp nơi, sẵn sằng có mặt
để cứu giúp ngời tốt, trừng trị kẻ xấu.
Con đờng thứ hai là con đờng từ Trung Hoa truyền bá vào.
Phật giáo truyền bá theo con đờng này chủ yếu là: Thiền Tông,
Tịnh tông và Mật tông. Thời kì này, đặc biệt là đến thế kỉ thứ IX,
các nhà s gốc Trung Hoa đến Việt Nam trụ trì ngày một nhiều hơn.
Trung tâm Phật giáo Thiền phái thứ hai đợc thành lập ở chùa Kiến
Sơ ( Phù Đổng- Gia Lâm- Hà Nội) do nhà s ngời gốc Quảng Đông
là Vô Ngôn Thông trụ trì, đây là lớp Phật giáo thời Bắc thuộc
mang màu sắc Việt Hoa. Ngời kế nghiệp Ngô Vô Thông là nhà
s Cảm Thành.
Thế kỉ X, đạo Phật dới các triều Đinh , Tiền Lê đã trở thành
quốc giáo tuy vẫn đậm tính dân gian. ở kinh đô Hoa L đã dựng lên
nhiều chùa và nhiều cột kinh Phật. C ác nhà s thời này nh Sùng
Phạm, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lu ( Khuông Việt), Vạn Hạnh đã
là những trí thức ( các nhà s- Nho) đợc sử dụng nh những cố vấn
cung đình và những nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua.
Nh vậy, ngay từ thời Bắc Thuộc, Phật giáo đã thâm nhập
một cách hoà bình bằng nhiều con đờng vào Việt Nam.
Đến thời Lí Trần, Phật giáo phát triển tới mức cực thịnh
( đời Lý đậm hơn đời Trần, đầu Trần đậm hơn cuối Trần) . Lý- Trần
là hai triều đại phong kiến thời kì tự chủ sau 1000 năm Bắc thuộc.
Hai triều đại này đã xây dựng cho mình một mô hình nhà nớc tập
quyền thân dân mang tính khoan dung độ lợng cao, một nhà nớc

8


của Phật giáo. Đặc biệt là Lý Thái Tổ ( Lý Công Uẩn) có liên quan
mật thiết với đạo Phật. Hầu hết các vua đời Lý ( Thái Tổ, Thái

Tông, Nhân Tông, Anh Tông...) và nhiều vua đời Trần ( Thái Tông,
Nhân Tông...) đều sùng Phật, xây dựng nhiều chùa tháp, tô tợng,
đúc chuông... Nh năm 1031 triều đình đã xuống chiếu phát tiền,
thuê thợ làm chùa quán ở các hơng, ấp. Lý Thánh Tông và Trần
Nhân Tông đã sáng lập ra hai phái Thiền tông và Trúc Lâm. Đạo
Phật đợc đa vào các kì thi tam giáo. Nhiều quý tộc tông thất là
những ngời mộ đạo Phật ( ỷ Lan, Tuệ Trung Thợng Sĩ Trần Tung),
Nho sĩ quan liêu Mạc Đĩnh Chi cũng đứng ra trùng tu Chùa Dâu. ở
khắp nơi chùa tháp đợc xây dựng ( Diên Hựu- Một Cột, Phật Tích,
Long Đọi, Báo Thiên), phần lớn đều do nhà nớc tài trợ, đông đảo
quần chúng bình dân làng xã nô nức theo đạo Phật, không bảo mà
cứ theo, không hẹn mà cứ tin. Lê Văn Hu và Lê Quát đa ra hình
ảnh: dân chúng quá nửa nớc là s .
Thời Lý- Trần đã có nhiều vị tăng s nổi tiếng cả nớc nh Vạn
Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,
Giác Hứa, Pháp Loa, Huyền Quang. Có ba tông phái chủ yếu là:
Tịnh Độ Tông, Mật Tông và Thiền Tông: phái Thảo Đờng (do Lý
thánh Tông sáng lập) có nơi trụ trì chính là chùa Khai Quốc (Trấn
Quốc) và phái Trúc Lâm (do ba vị tổ sáng lập: Trần Nhân Tông (tức
Điếu Ng Giác Hoàng) Pháp Loa và Huyền Quang) nơi trụ trì chính
là chùa yên Tử ở Đông Triều.
Nhà nớc Lý- Trần tôn trọng đạo Phật trong bối cảnh của sự
dung hợp tôn giáo- Tam giáo đồng nguyên. Trần Nhân Tông lập
luận: sách nho dạy thi nhân bố đức, kinh đạo dạy yên vạn vật, quý
sự sống, còn phật thì chủ trơng giữ giới cấm sát sinh. Sau này Nho
sỹ Phan Huy Chú nhận xét: đời Lý- Trần, dù chính đạo (Nho) hay
dị đoan (Phật, Lão) đều đợc tôn chuộng không phân biệt. Đạo
Phật thời kỳ này ảnh hởng tới đờng lối cai trị của nhà nớc (chính
sách thân dân khoan dung), là đối trọng t tởng của Nho giáo tạo
nên thế cân bằng văn hoá.


9


Hơn nữa, thời kỳ này thấy một nét rất đặc biệt, vua lập
nghiệp của vơng triều Trần là Trần Thái Tông cũng là vị tổ phái
Trúc Lâm của thiền tôn Việt Nam nêu cao tinh thần thanh tịnh c
trần lạc đạo để mở ra một nếp trách nhiệm khi Hoàng tử đã lớn, vua
nhờng ngôi làm Thái thợng`hoàng kèm cặp ít lâu rồi đi tu, giao hẳn
quyền lại cho vua mới. Thật là một nếp sống trách nhiệm với sứ
mệnh, với việc đào tạo những ngời kế tục, tinh thần không ham
bám quyền lực, một kiểu thuwch hành dân chủ trong xã hội tuy
phong kiến nhng đã khá gần dân(1).
Thời kì này Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh,
cóa thể nói đó là thời kì Phật giáo phát triển nhất trong lịch sử Việt
Nam. Nhà Nho Lê Quát học trò Chu Văn An đã lấy làm khó chịu
khi thấy toàn dân theo Phật: Phật chỉ lấy điều hoạ phúc mà động
lòng ngời, sao mà sâu và bền chắc đến nh vậy? Trên từ Vơng công,
dới đén thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về phật thì hết cả gia tài cũng
không tiếc. Nếu hôm nay đem tền của để làm chùa xây tháp thì hớn
nở vui vẻ, nh trong tay đã cầm đợc cái biên lai đẻ ngày sau đi nhận
số tiền trả báo lại. Cho nên, trong từ kinh thành ngoài từ Kinh
thành, ngoài đến Châu phủ, đờng cùng ngõ hẻm, chẳng khiến đã
theo, chẳng thề mà tin, hễ chỗ nào có nhà thì có chùa phật; bỏ đi
thì làm lại, h đi thì làm lại.
Trong thời gian này chùa tháp có quy mô to lớn hoặc kiến
trúc độc đáo đợc xây dựng nh chùa Phật Tích, Chùa Dạm (Chùa
Đại Lãm), Chùa Diên Hựu (Một cột); Chùa Phổ Minh, Chùa Quỳnh
Lâm, Chùa hơng Lãng, Chùa Linh Xứng, Chùa Bối Khê , Chùa lạc
phái,hệ thống chùa Yên Tử, Tháp Bình Sơn... đáng khâm phục hơn

cả là những thành tựu văn hoá thời Lý- Trần với bốn công trình
nghệ thuật lớn đợc coi là An Nam tứ đại khí, đó là: Tợng phật Chùa
Quỳnh Lâm, Tháp Báo Thiên, Chuông Quy điền, Vạc Phổ Minh.
Có thể nói, Phạt giáo (và văn hoá ấn Độ nói chung kể cả
Hin Đu giáo) gần đời hơn, gần tín ngỡng phồn thực của nông dân
Việt Nam, cảm thông với biển khổ của ngời dân thờng rên xiết dới
nhiều ách thống trị, kể cả ách thống trị ngoại bang hơn, mang lại
(1)

Lơng Ninh- Tôn giáo và xã hội (châu á)- Nghiên Cứu Lịch Sử, số 1-2003

10


nhiều an ủi và t duy giải thoát khỏi khổ ải của ngời dân Việt Nam
hơn là Nho giáo với lễ trị, Pháp gia với pháp trị của ngời Trung
Hoa, vì thế mà ngời Việt Nam dễ tiêu hoá hơn(1).
Tính Đồng nguyên của Phật giáo thể hiện ở tính tổng hợp,
đây cũng là đặc trng của lối t duy nông nghiệp và là đặc trng nổi
bật nhất cảu Phật giáo Việt Nam. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã
tiếp xúc ngay với nững tín ngỡng truyền thống của dân tộc, và do
vậy, đã đợc tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa Tứ
Pháp thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự
nhiên mây- ma- sấm- chớp và thờ đá. Lối kiến trúc phổ biến của
chùa Việt Nam là tiền phật hậu thần với việc đa thần thánh , các
thành hoàng, thể địa, các anh hùng dân tộc vào thờ trong nhà chùa.
Đạo phật vào việt nam còn tổng hợp các tông phái với nhau
nh nho , với đạo. phật giáo việt nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với
đời vốn là một tôn giáo xuất thế nhng vào việt nam phật giáo trở
lên nhập thế . Các cao tăng đợc nhà nớc mời tham gia chính hoặc

cố vấn trong những việc hệ trọng đại. Sự gắn bó đạo đời không chỉ
thể hiện ở việc các nhà sự tham gia chính sự , mà ngợc lại còn có
khá nhiều vua quan quý tộc đi tu. Trong sáu thế hệ đệ tử của của
phái thảo đờng thì đã có tới 9 ngời là vua quan đơng nhiêm . Không
phải ngẫu nhiên ở sân đình chùa phổ minh, quê hơng nhà trần, lại
còn chiếc vạc đồng lớn ( một trong an- nam tứ đại khí ) tợng trng cho quyền lực.
Đặc trng thứ hai khi mà phật giáo ru nhập vào Việt Nam là
khuynh hớng thiên về nữ tính đặc trng bản chất của văn hoá nông
nghiệp, phù hợp với yếu tố phần thực ở đây. Các vị phật ấn độ xuất
thân vốn là đàn ông, song Việt Nam biến thành phật ông- vị thần hộ
mệnh của c dân khắp vùng sông nớc đông nam á ( nên còn là
quan âm nam hải ). ở một số vùng, ngay cả phật tổ thích ca cũng
đợc coi là phụ nữ (ngời tày nùng gọi là mẹ phát xích ca ) ngời
Việt Nam còn tạo ra những phật bà riêng của mình : Đứa con gái
nàng man, tơng truyền sinh vào ngày 8-4 , đợc xem là phật tổ Việt
Trần Quốc Vợng- ghi chú về những nét tơng đồng và dị biệt về những giá trị văn hoá Đông
á- Văn hoá học đại cơng và cơ sở văn hoá Việt Nam , Nxb KHXH- Hà Nội 1996.
(1)

11


Nam, bản thân bà man là phật mẫu. Rồi còn những phật bà khác
nữa nh Quan Âm Thị Kính, phật bà Chùa Hơng, lại còn rất nhiều
các bà bồ tát nh bà Trắng Chùa Dâu, các thánh mẫu ...
Việt Nam có nhiều chùa chiền mang tên các bà : chùa Bà
Dâu, chùa Bà Đậu , chùa Bà Tớng , chùa Bà Dân, chùa Bà Đá , chùa
Bà Đanh ... Tuyệt đại bộ phận phật tại gia là các bà : trẻ vui nhà già
vui chùa là nói cảnh các bà.
Ngoài ra, Phật giáo vào Việt Nam là một bộ phận của văn

hoá nông nghiệp Việt Nam, phật giáo Việt Nam không chỉ có tính
tổng hợp mà còn có tính linh hoạt. Vốn có đầu óc thiết thực ngời
Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa :
Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì là tu chợ, thứ ba la tu chùa; dù xây
chín bậc phù đề không bằng làm phúc cứu cho một ngời. Coi trọng
truyền thống thờ cha kính mẹ, ông bà hơn thờ phật :tu đâu cho bằng
tu nhà , thờ cha kính mẹ mới là chân tu (cadao); đồng nhất cha mẹ
với phật: Phật trong nhà không thờ đi thờ thích ca ngoài đờng (tục
ngữ ).
Vào Việt Nam, đức Phật đợc đồng nhất với những vị thần
trong tín ngỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi ngời thoát
khỏi tai hoạ :
Nghiêng vai ngửa vái phật trời
Đờng cả hoạn nạn độ ngời trần luôn
Làm nên mây ma sấm chớp để mùa màng tơi tốt , ban lộc cho ngời
bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật và hái
lộc lúc giao thừa ); cứu độ cho ngời chết và giúp họ siêu thoát. Mặt
khác, ngoài chùa ở Việt Nam đợc thiết kế theo phong cách ngôi nhà
cổ truyền với không gian ba gian hai thớc năm gian hai trái ... chùa
một cột nh một lễ vật dâng lên phật bà với hình bông xen thanh
thoát ở trên và trụ đá tròn trong hồ vuông ở dới biểu hiện ớc vọng
phồn thực .
Cùng với mái đình, ngòi chùa trở thành công trình công cộng
quá trình thứ hai ở mỗi làng. Và nh thế, Phật giáo đã dung hoà với

12


các tín ngỡng dân gian việt nam, trong thời Lý- Trần Phật giáo còn
ảnh hởng tới cả bộ phận trên trong xã hội (tham chính ).

2.2. Đạo giáo với văn hoá việt nam .
Đạo giáo hay còn gọi là Đạo Lão có nguồn gốc từ một học
thuyết triết học Trung Hoa cổ đại, ngời sáng lập là Lão Tử ngời nớc
Sở ( thế kỷ VI TCN), tác giả cuốn Đạo đức kinh. T tởng cơ bản của
học thuyết này nêu rõ sự tồn tại thờng bằng một quy luật của tụ
nhiên (đạo) mang tính biện chứng, đầy mâu thuẫn và những sự tự
điều chỉnh. Con ngời và xã hội con ngời nói chung phải sống thích
ứng và hoà đồng với các tự nhiên ấy, không can thiệp và chống lại
cái tự nhiên (vô vi).
Triết học Lão Tử, một mặt phát triển thành dòng phái t tởng
lớn với sự phát triển và bổ xung của Trang Tử (t tởng thanh nhân,
chủ nghĩa duy tâm chủ quan mang tính tơng đối luận). Mặt khác
biến thái thành một tôn giáo thờng đợc gọi là Đạo giáo hay Lão
giáo với sự phát triển của vu cát , trơng đạo lăng, cát đồng. Có
hai phái Đạo giáo chính : Phái đầu tiên của các đạo sỹ trí thức (chủ
trơng phép tu tiên luyện đan (nội đan, ngoại đan) và phái phù thuỷ
phổ biến trong dân gian, pha tạp những yếu tố mê tín (bắt quyết, trừ
ma quỷ )). Trong trần phả của Đạo giáo lần lợt là: Ngọc Hoàng,
Thái Thợng Lão Quân (đợc đồng nhất với Lão Tử) huyền thiên
trấn vũ, văn xơng đế quân và phong đô thần( coi địa ngục).
Cũng giống nh phật giáo, đạo Lão là một tôn giáo của quần
chúng nhân dân, mang nhiều yếu tố của văn hoá Nam á, nó là một
đối trọng t tởng với Nho giáo mang tính quy phạm và Lão Tử đã có
công là học thuyết hoá những t tởng triết lí của truyền thống văn
minh nông nghiệp phơng Nam. Đạo chẳng phải là cái gì khác
ngoài sự phạm trù hoá triết lí tôn trọng tự nhiên, còn Đức chính
sự phạm trù hoá luật âm dơng biến đổi. Khổng tử và Lão Tử tiếp
nhận sức sống của văn minh nông nghiệp, nhng trong khi Khổng
Tử tìm cách kết hợp nó với văn minh gốc du mục thì Lão tử dựa
hoàn toàn vào nó. Khổng Tử thì nhập thế , Hữu vi , còn Lão

Tử thì xuất thế, vô vi, không phải vô lí khi ngời ta coi Lão Tử
13


là ông tổ triết học của dòng triết học Bách Việt. Cũng chính vì học
thuyết triết học của Lão Tử xây dựng trên cơ sở lí thuyết của văn
hoá nông nghiệp là cái mà văn hoá du mụ cha hề biết đến.
Đạo Lão vào Việt Nam cũng từ rất sớm, gặp gỡ và dung hợp
với các tín ngỡng dân giân nh các tín ngỡng ma thuật, thần linh,
thần tiên ( Truyền thuyết Chử đồng Tử Tiên Dung bay lên trời).
Một só quan cức cai trị Trung Hoa thời kì Bắc thuộc đợc coi là am
hiểu Đạo Giáo, giỏi pháp thuật ( Sĩ Nhiếp, Trơng Tân, Cao Biền...),
một số đạo sĩ Trung Hoa đã sang luyện đan ( Yên Kì Sinh ở núi
Yên Tử, Cát Hồng ở núi Câu Lậu...).
Trong khi Nho Giáo cha tìm đợc chỗ đứng ở Việt Nam thì
Đạo Giáo đã tìm thấy ngay những tín ngỡng tơng đồng đã có sẵn từ
lâu. Từ xa xa ngời Việt Nam từ miền núi đến miền xuôi đã rất sùng
bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần
chú có thể chữa bệnh , trừ tà ma, có thể làm tăng sức mạnh mà gơm chém không đứt...Tơng truyền Hùng Vơng là ngời giỏi phép
thuật nên có uy tín thu phục 15 bộ lạc lập nên nớc Văn Lang. Ngay
cả các nhà s cũng phải học phép trị bệnh trừ tà ma thì mới đa Phật
giáo thâm nhập nhanh chóng và hoà quyện đợc vào tín ngỡng ma
thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới.
Thời Đinh- Lê, cùng với Phật Giáo, đã thấy xuất hiện một số
đạo sĩ Lão Giáo nh Tăng Lục Đạo Sĩ Trơng Ma Ni, pháp s Văn Du
Tờng ( ngời đã làm phép diệt mộc tinh Xong Cuồng).
Sang thới Lí Trần, Đạo giáo chung sống hoà bình cùng và
phát triển cùng với Phật giáo. Có nhiều học sĩ kiêm thiền tăng nh
Trần Tuệ Long, Trịnh Trí Không, ngời Bình An, Trần Lộc lập ra đạo
Nội Tràng hỗn dung các tín ngỡng dân gian với Đạo Giáo, đạo sĩ

Thông Huyền thi tài với nhà s Giác Hải, cả hai ngời đều đợc Lí Nhâ
Tông khen ngợi ( nhất Phật, nhất thần tiên). Hứa Tông Đạo là một
đạo sĩ nổi tiếng đất Thăng Long. Một số các Đạo cung, Đạo quán
đã đợc xây dựng trong thời kì này nh Thái Thanh Cung, Cảnh Linh
Cung, Ngã Nhạc Quán. Đầu thời Trần, Trần thủ độ đã sai các nhà
phong thuỷ đi xem và chấn yểm các núi sông trong nớc. Thời Trần

14


Dụ Tông vua cho mời đạo sĩ Huyền Vân về kinh để hỏi về phép tu
luyện.
Thời kỳ Lý- Trần, cùng với Phật và Nho thì Đạo giáo cũng
đợc suy tôn Tam giáo đồng tôn, đợc nhà nớc chính thức công
nhận. Nhng Đạo giáo thời kỳ này phát triển chủ yếu ở bộ phận bên
dới tức là tầng lớp bình dân, nó hoà quyện cùng với các tín ngỡng
dân gian. Sự len chân vào bộ phận bên trên còn hạn chế bởi sức ảnh
hởng rất mạnh của Phật và Nho. Nhng cũng chỉ thời Lý- Trần Đạo
giáo đợc nhà nớc công nhận cùng tồn tại với các tôn giáo khác.
Đến thời kỳ sau, từ thời Lê sơ trở đi cũng giống nh Phật giáo, Đạo
giáo trên danh nghĩa bị nhà nớc kiểm soát, hạn chế. Các đạo sĩ phải
thi khảo hạch, trợt phải hoàn tục, cấm xây dựng đạo quán mới, cấm
các đạo sĩ giao du với ngời trong cung.
Đạo giáo vì tồn tại biệt lập, vô can, vì đáp ứng nhu cầu tâm
linh của con ngời khi chỉ còn lại một mình (mà trạng thái đó bất cứ
ai cũng rất thờng xuyên), vì những đóng góp không thể chối cãi đợc
của nó trên bình diện triết học và tri thức, và vì cả năng xuất chúng
nói chung của nó mà chẳng những không bị truy sát, tiêu diệt mà
còn tồn tại và phát triển ở những bình diện khác nhau trong xã hội,
nó bổ sung và hoàn thiện rất nhiều cho cả Nho giáo và Phật giáo.

2.3. Nho giáo với xã hội Việt Nam
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc, ngời sáng lập là Khổng Tử
ngời nớc Lỗ thế kỷ thứ VI TCN. Nho giáo phát triển và hoàn chỉnh
qua nhiều giai đoạn: Nho học nguyên thuỷ (một trong những trờng
phái triết học cổ đại Trung Quốc), Hán Nho (với Đổng Trọng Th,
trở thành quốc giáo), Tống Nho (với Trình Hạo và Chu Hi, Nho
giáo đợc nâng cao ở phần triết học siêu hình, mang đậm tính giáo
điều bảo thủ).
Đạo Nho chủ trơng một tính thống nhất- mâu thuẫn của vũ
trụ qua thuyết thiên- địa- vạn vật nhất thể (tam tài đồ hội) và hệ
thống triết học thái cực- âm dơng- bát quái- ngũ hành.

15


Về xã hội, Nho giáo chủ trơng một xã hội có trật tự kỷ cơng,
tôn ti đẳng cấp, qua những quan hệ chuẩn mực về tam cơng (vuatôi, cha- con, chồng- vợ) và ngũ thờng (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín)
trong đó nhân và lễ giữ vai trò cơ bản. Về cá nhân, nho giáo chủ trơng thuyết chính danh định phận sự tu thân của ngời quân tử và thái
đọ tích cực nhập thế, trong xã hội từ vua chí dan phải tu thân (tự
thiên tử chí dĩ chí thứ dân nhất thị giai dĩ tu thân vi bản), lấy tu
thân làm gốc, nhng tu thân không chỉ để cho mình mà phải tề gia trị
quốc bình thiên hạ, ngời có tài đức phải ra trị quốc an dân nhân
đạo chính vi đại(đạo ngời thì chính Trị là việc lớn), Khổng tử
khả dĩ sĩ tắc sĩ(lên làm quan thì làm quan), Tử Lộ nói sĩ bất vô
nghĩa, quan tử chi sĩ dã, hành kì nghĩa dã (không ra làm quan là vô
nghĩa, ra làm quan là thực hành việc nghĩa)(1).
Nh vậy Nho giáo khuyên ngời ta giữ đức phải nhập thế lao
vào lo toan gánh vác việc đời làm một đấng quân tử. Đó chính là
một bệ đỡ tinh thần cho việc xây dựng một chế độ phong kiến nhà
nớc quan liêu theo thể chế quân chủ tập quyền.

Nho giáo đợc du nhập vào Việt Nam từ thời kỳ Bắc thuộc
qua kênh chuyển tải của các quan chức cai trị và một số Nho sĩ di
c ngời Hoa. Khoảng đầu công nguyên, Tích Quang, Nhâm Duyên
là những ngời tích cực duy nhập lễ giáo Nho giáo vào Việt Nam,
lúc đó mang tên Giao Chỉ.
Thế kỉ III, Sĩ nhiếp có vai trò chủ yếu trong việc đa Nho học
vào Việt Nam, mở nhiều trờng dạy học chữ hán, đợc suy tôn là
Nam Giao học tổ. Thời bắc thuộc đã xuất hiện một số Nho sĩ ngời
Việt đỗ đạt khoa bảng hoặc làm quan chức trong chính quyền
Trung Quốc nh Trơng Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Khơng Công Phục.
Tuy nhiên đây là một sự cỡng bắc du nhập văn hoá vào một xã hội
đã từng có một cơ tầng văn hoá bản địa (văn minh Văn Lang- Âu
Lạc phi Nho giáo), do vậy, ảnh hởng của nó còn khá loãng nhạt, cha thấm sâu vào các tầng lớp xã hội, đặc biệt là khối bình dân làng
xãaT
(1)

Lơng Ninh- Tôn giáo và xã hội (Châu á), Nghiên Cứu Lịch sử, số 1- 2003

16


Thời kì Lý-Trần, nền độc lập dân tộc đã đợc khôi phục và
củng cố, các nhà vua Đại Việt chủ trơng xây dựng thiết chế nhà nớc
quân chủ tập quyền, mà theo tinh thần tự hào vô tốn Hoa- Hạ, sẽ là
mô hình Trung Hoa Đờng Tống. Trong đó Nho giáo đóng vai trò là
một hệ t tởng chính thống nhà nớc. Vì vậy, dù lúc này Phật giáo đã
rất đợc tôn sùng, thịnh đạt, cũng nh thực tế xã hội Đại Việt vẫn còn
rất đơn giản, đậm nét cổ truyền, Triều Lý vẫn chấp nhận việc
khuyến khích Nho giáo, cũng tồn tại hoà bình với Phật, Lão theo
tinh thần Tam giáo đồng nguyên với một vị trí lúc đầu khá khiêm

tốn. Năm 1070 Văn miếu đợc xây dựng thờ Chu công, Khổng Tử và
các vị tiên hiền để làm nơi dạy học cho Hoàng Thái Tử. Năm 1075,
tổ chức khoa thi thái học sinh đầu tiên, ngời đỗ đầu là Lê Quang
Thịnh. Năm sau (1076) mở trờng Quốc Tử Giám. Năm 1086, triều
đình lập Lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích đợc tuyên bổ làm Hàn
Lâm học sĩ.
Qua thời tiến Nho giáo, nhiều trờng Nho giáo đợc mở, khoa
cử đều kì. Các vua Trần đều cố gắng dung hoà Phật-Nho trong đờng
lối trị nớc. Trần Thái Tông từng nói: Phơng tiện dẫn dụ đám ngời
mê muội, con đờng tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là Phật giáo của Đức
phật. Đặt mực thớc cho hậu thế, làm khuôn mẫu cho tơng lai ấy là
trách nhiệm của tiên thánh ( Chí Khổng Mạnh). Cho nên, bậc
đại thánh và đại s thời trớc không khác gí nhau. Nh thế đủ biết
Đạo giáo của Đức Phật phải nhờ đến tiên thánh mà truyền lại cho
đời. Tầng lớp Nho sĩ đời Trần ngày càng phát triển, trong đó có
những gơng mặt nổi bật nh Lê Văn Hu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn
Trung Ngạn, Trơng Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An. Họ đã
đứng dẫn đầu tham chính, nắm giữ các chức vụ trớc đây chỉ giành
cho các tầng lớp quý tộc tông thất.
Tuy nhiên thời Lý - Trần, Nho giáo chỉ là nền văn hoá giáo
dục, cha phải là một hệ t tởng thống trị xã hội. Mặt khác nó bị hạn
chế trong những giai tầng thợng lu trí thức mà cha thấm sâu vào
những tầng lớp bình dân làng xã. Lê Quát nhận xét rằng, ở các địa
phơng chỉ có chùa chiền mà vẫn cha hề có học cung văn miếu, sứ
giả Trung Quốc tên Trần Phu cho là lúc này ngời dân quê Đại Việt

17


vẫn duy trì những phong tục cổ truyền, mà vẫn cha biết đến Lễ,

Nhạc Trung Hoa.
Nho giáo Lý- Trần ngày càng khẳng định đợc vai trò của
mình , đặc biệt tầng lớp trên luôn luôn có xu hớng xây dựng một
nhà nớc Trung ơng tật quyền mạnh. Nhng không phải vì thế mà
Nho giáo không thâm nhập đợc vào bộ phận bên dới bởi Nho giáo
phù hợp với nền văn minh nông nghiệp đặc biệt Nho giáo quan tâm
đến việc thờ cúng tổ tiên ông bà nh ngời Việt Nam.
3. Một số nhận sét về Tam giáo đồng nguyên thời Lí- Trần :
Trên nền tảng nền văn hoá bản địa Đông Nám á nông
nghiệp các tôn giáo phiếm thần Phật, Nho, Đạo vào nớc ta đã đợc
nhào nặn dung hợp, biến đổi linh hoạt để phù hợp với văn hoá chủ
thể Việt Nam, tạo thành hiện tợng tam giáo đồng nguyên. Tam giáo
đồng quy đã sảy ra ngay từ khi các tông giáo này đợc du nhập vào
nớc ta và nó phát triển mạnh cho tới ngày nay, nó đã ảnh hởng lớn
đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của ngời Việt Nam.
Thực ra hiện tợng tam giáo đồng nguyên thì thời nào cũng có, nhng
thời kì Lí- Trần là thời kì biểu hiện rõ nhất kể từ bộ phận tầng lớp
bình dân cho tới bộ phận quý tộc và cả chính quyền Nhà nớc.
Chúng ta có thể thấy hiện tợng Tam giáo đồng nguyên ( đặc
biệt thời kì Lí-Trần)diễn ra ở nớc ta nh sau:
Trớc hết ta gặp sự dung hợp giữa từng hiện tợng văn hoá
ngoại sinh với văn hoá bản địa: sự dung hợp giữa: Phật giáo với tín
ngỡng sùng bái tự nhiên sinh ra từ phép thờ mây- ma- sấm- chớp;
lối cấu trúc chùa chiền theo kiểu tiền Phật hậu thần, chất nữ tính
của Phật giáo Việt Nam...Nho giáo vào Việt Nam củng bị truyền
thống coi trọng làng và nớc, tinh thần dân chủ... làm biến đổi. Còn
đạo giáo vốn gần gũi với tín ngỡng cổ truyền nên khi váo Việt
Nam, nó lại bị hoà lẫn đến mức nhiều khi không nhận ra sự tồn tại
của nó. Truyền thống hoà hợp với tự nhiên, thờ các vị thần tự nhiên,
tôn sùng phụ nữ....


18


ở mức độ cao hơn là sự dung hợp giữa các hiện tợng văn hoá
ngoại sinh (đã đợc bản địa hoá) với nhau. Sự dung hợp giữa Phật
giáo với Đạo giáo là mối quan hệ lâu đời và bền chặt nhất. Ngay từ
thời kì chống Bắc thuộc, hai tôn giáo này đã hoà quyện với nhau
trong cuộc sống của ngời bình dân. Có những nơi nh đền Ngọc Sơn
ở Hà Nội, lúc là chùa ( phật giáo), lúc lại là Đền (Đạo giáo). Khá
nhiều chùa ( Phật giáo) lại thờ các vị thần của Đạo giáo nh Nam
Tào, Ngọc Hoàng, Bắc Đẩu, Quan Công... Thời Đinh- Lê- Lí Trần
nhiều nhà s đồng thời là đạo sĩ. Triều đình thì trọng dụng cả đạo sĩ
lẫn nhà s. Thiền phái Trúc Lâm dung hợp t tởng Phật với triết lí
sống tìm về thiên nhiên của Lão Tử.
Phật giáo và Nho giáo cũng có quan hệ lâu đời. Do ảnh hởng
Phật giáo từ Trung Hoa đã dần thay thế cho việc truyền đạo trực
tiếp từ ấn Độ, cho nên các nhà s muốn đọc kinh phật phải biết đọc
chữ Hán do vậy dễ hiểu lá có không ít nhà s khá tinh thông nho
học. Thời Đinh- Lê- Lí Trần có nhiều trờng hợp tài đối đáp cùng
vốn tri thức uyên thâm của các nhà s Việt Nam khiến các sứ thần
Trung Hoa nể trọng. Thiền Phái Thảo Đờng dung hợp triết lí Phật
giáo với t tởng Nho gia, không phải ngẫu nhiên mà phái này có
nhiều vua quan đơng nhiệm quy y hơn cả.
Sự chi phối mạnh mẽ có tinh dung hợp truyền thống đã khiến
cho tôn giáo vào trớc mở rộng cửa đón nhận tôn giáo vào sau, tạo
nên một sự hoà hợp rộng rãi. Ngay từ đầu cong nguyên, Phật giáo
đã đợc tín ngỡng truyền thống vui vẻ tiếp nhận đạo giáo. Rồi tất cả
cùng tiếp nhận Nho giáo, tạo thành quan niệm Tam giáo đồng
nguyên (ba giáo phái nguyên từ một gốc) và Tam giáo đồng quy

(ba tôn giáo cùng quy về một mục đích). Sự dung hợp tam giáo là
một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình cảm và việc
làm của ngời dân, và đến thời Lý- Trần thì đợc chính quyền công
nhận rộng rãi. Triều đình tổ chức nhng kỳ thi tam giáo để tìm ra
những ngời thông thạo cả ba giáo lý ra giúp nớc (vào các năm 1195
và 1247).

19


Ngời Việt Nam nhận ra rằng tam giáo mới trông thì khác
nhau nhng nhìn kỹ thì thấy nhiều khi chỉ là những cách diẽn đạt
khác nhau về cùng một khái niệm. Đức Trần Thái Tông (12481277,ở ngôi 1225- 1258) từng chỉ ra rằng, để khuyến khích con
ngời làm điều thiện, sách Nho thì dạy thi nhân bố đức; kinh Đạo
dạy yên vật, quý sự sống. Còn Phật thì chủ trơng giữ giới, sát sinh.
Có khi là những phạm trù khác nhau, những biện pháp khác nhau
đến cùng một mục đích, những cái dụ khác nhau của cùng một thể.
Cái khác nhau ấy không mâu thuẫn đối trọi nhau mà bổ sung hỗ trợ
cho nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ; Đạo giáo lo
thể xác con ngời sao cho mạnh khoẻ; Phật giáo lo cho tâm tính con
ngời sao cho thoát khổ.
Bởi vậy ngời dân cầu đến cả ba tôn giáo, họ sử dụng kết hợp
chúng theo giới tính, theo các giai đoạn theo cuộc đời. Phụ nữ âm
tính hơn thiên về phật, đàn ông dơng tính hơn thiên về Nho. Cùng
một ngời Việt Nam, khi trai trẻ thì ra sức học nho để giúp nớc, khi
khổ ải trầm luân thì cầu khấ phật trời phù hộ, khi ốm đau già yếu
thì mời đạo sĩ trị bệnh trừ tà hoặc tập luyện dỡng khí an thần.
Không chỉ trong một đời, mà ngay trong một ngày cũng có thể gặp
biểu hiện của ba tôn giáo nơi một con ngời.
Hơn thế nữa, ngời bình dân cũng chẳng cần biết đến Nho

giáo, gần gũi đối với họ trớc hết là tín ngỡng bản địa quen thuộc
của c dân nông nghiệp với truyền thống trọng phụ nữ, đạo thánh
mẫu, sau nữa là Phật giáo và Đạo giáo. Thế là hình thành một thứ
Tam giáo bình dân, hoà quyện đạo Phật, Đạo lão và đạo thánh
mẫu. Nh vậy, sự dung hợp diễn ra không chỉ giữa từng tông giáo
ngoại sinh với tín ngỡng bản địa, giữa các tôn giáo ngoại sinh đã đợc bản địa hoá với nhau, và ở mức độ cao hơn, ngời Việt Nam đã
hoà chung thành một khối.
III. Kết Luận
Tam giáo đồng nguyên ở Việt Nam thời kỳ Lý- Trần đã
tạo nên đợc sự ổn định, một sự nhất trí trong xã hội Đại việt đơng

20


thời. Đây là một thời kỳ mà văn hoá Việt Nam đợc bồi bổ và xây
dựng thêm những nhân tố mới khiến cho nền văn hoá dân tộc càng
phong phú và đặc sắc hơn. Cả ba tôn giáo Nho, Đạo, Phật đều là
những tôn giáo phiến thần tôn trọng tín ngỡng truyền thống thờ
cúng tổ tiên, phù hợp với xã hội nông nghiệp với tín ngỡng phồn
thực rất đậm, cho nên nó dễ dàng hoà bình tồn tại với nhau. Tam
giáo đồng nguyên không chỉ tồn tại ở Việt Nam mà nó cũng diễn
ra ở các nớc trong khu vực Đông Bắc á khác nh Trung Quốc, Nhật
Bản, và Triều Tiên. Cả Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều
Tiên đều có chung những truyền thống văn hoá, văn minh lớn, có
những chặng phát triển đồng dạng. Sự tồn tại và phát triển song
song của tam giáo, lần vai trò của các chính thể (nhà nớc) trong
việc tạo ra một thực tế dung hoà lẫn nhau giữa các học thuyết đó ở
các nớc Đông Bắc á , đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc.
Một thực tế mà chúng ta đều thấy là ở khu vực Đông Bắc á
hầu nh không có chiến tranh tôn giáo. Chí ít, thì cũng không có

cuộc chiến lớn nhân danh tôn giáo hay học thuyết, cho đến tận thờ
kỳ có giao lu và xung đột Đông- Tây. Trong khi đó các vùng khác
trên thế giới, chiến tranh tôn giáo đã và đang là những thực tế đẫm
máu. Có thể nói Tam giáo đồng nguyên của Nho, Đạo, Phật ở
Đông Bắc á là tiền đề của những thời kỳ thịnh trị (Đờng- Tống ở
Trung Quốc, Lý-Trần ở Việt Nam, triều đại Chuson ở Triều Tiên và
sự thống nhất trong nhiều thời điểm ở Nhật Bản).

21


Tài liệu tham khảo:
1. Lơng Ninh- Tôn giáo và xã hội (Châu á)- Nghiên cứu Lịch Sử.
số 1- 2003
2. Minh Chi- Vài suy nghĩ về sự hội nhập của phật giáo vào nền
văn hoá Việt Nam Nghiên cứu tôn giáo, số 4- 2004.
3. Nguyễn Hữu Vui- Lịch sử triết học, Nxb CTQG
4. Doãn chính- Đại cơng lịch sử triết học phơng đông cổ đại- Nxb
TN- 2003.

22


5. Nguyễn Hùng Hậu (chủ biên) - Đại cơng lịch sử t tởng triết học
Việt Nam. Nxb ĐHQGHN.
6.Theodor Luwvig- Những con đờng tâm linh phơng đông Nxb
VHTT
7. C.scott Littleton- Trí tuệ phơng đông, Nxb VHTT.
8. Nguyễn Quang Ngọc- Tiến trình Lịch Sử Việt Nam- Nxb GD2002
9. Phan Huy Lê- Lịch Sử Chế độ phong kiến Việt Nam.T2, Nxb

GD- 1962.
10. Trần Ngọc Thêm- Tìm Về bản sắc văn hoá Việt Nam Nxb
TP. Hồ Chí Minh, 2001.

23



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×