Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Giáo án Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.36 KB, 77 trang )

CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu của môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt nam là hệ thống quan
điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải
pháp của cách mạng Việt Nam.
Đối tượng của môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trong tiến trình cách
mạng Việt Nam - từ cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
2. Nhiệm vụ của môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam
- Nghiên cứu làm rõ hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời tất yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam - chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.
- Làm rõ quá trình hình thành, bổ sung và phát triển đường lối cách mạng của
Đảng trên một số lĩnh vực cơ bản của thời kỳ đổi mới.
- Làm rõ kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng trong tiến trình cách
mạng Việt Nam và ý nghĩa của việc học tập môn học.
II. Phương pháp nghiên cứu bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1. Phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở của phương pháp luận
- Dựa trên thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận.
b) Phương pháp nghiên cứu

1



- Phương pháp nghiên cứu được hiểu là con đường, cách thức để nhận thức
đúng đắn những nội dung cơ bản của Đường lối và hiệu quả tác động của nó trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic được áp dụng chủ yếu trong
nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai phương pháp này luôn gắn bó,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau để làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong quá trình hình
thành, phát triển và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đồng thời vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học lịch
sử nói chung: đồng đại và lịch đại, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, cụ
thể hóa và trừu tượng hóa…
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc học tập môn học
- Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về
đường lối của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối đổi mới.
- Bồi dưỡng, giáo dục truyền thống cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần dân tộc chân chính, lòng tự hào đối với Đảng, dân tộc Việt Nam.
Chương 1
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
A. Mục đích, yêu cầu:
- Nắm được hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX tác động tới phong trào yêu nước Việt Nam.
- Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng.
- Nội dung cơ bản Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng.
- Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng.
B. Những nội dung cơ bản

2



I. Hoàn cảnh quốc tế và trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tác
động đến phong trào yêu nước Việt Nam
1. Tình hình thế giới: Có 3 sự kiện nổi bật tác động đến nước ta.
- Đầu thế kỉ XX chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ra đời. Bên cạnh mâu thuẫn vốn
có của chủ nghĩa tư bản, nảy sinh những mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
thực dân với các dân tộc bị áp bức.
- Phong trào đấu tranh đòi độc lập ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt là ở Châu Á.
- Thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga (1917) và sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản (1919) đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, mở đầu thời đại mới
cho lịch sử nhân loại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
2. Tình hình trong nước
- Ngày 1- 9 -1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Đến năm
1897 thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc xâm chiếm, bình định Việt Nam và
bắt đầu xác lập chế độ cai trị và khai thác thuộc địa ở Việt Nam.
+ Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị trực trị trên đất nước ta;
chia nước ta làm ba kì với ba chế độ chính trị khác nhau nhằm phá vỡ khối đoàn
kết cộng đồng quốc gia dân tộc; tước đoạt tất cả các quyền tự do dân chủ của nhân
dân…
+ Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929). Chủ yếu tập trung: thiết lập chế độ thuế
khóa nặng nề, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; phát triển hệ thống giao thông;
đầu tư vào một số ngành kinh tế chủ yếu là công nghiệp nhẹ và khai thác mỏ. Dưới
tác động của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự
chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam, nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế
Việt Nam bị lệ thuộc và tư sản Pháp kìm hãm trong vòng lạc hậu.


3


+ Về văn hoá-xã hội: Thực dân thực hiện chính sách ngu dân để dễ cai trị,
du nhập văn hoá đồi truỵ …
- Tác động của chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với xã hội Việt
Nam
+ Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi: từ xã hội phong kiến sang xã hội
thuộc địa nửa phong kiến
+ Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam thay đổi: Từ nông dân >< phong
kiến địa chủ chuyển sang toàn thể dân tộc Việt Nam >< đế quốc Pháp và phong
kiến đầu hàng và nông dân >< phong kiến địa chủ.
+ Cơ cấu giai cấp trong xã hội thay đổi:
Các giai cấp cũ bị phân hoá: Phong kiến địa chủ và nông dân
Các giai cấp mới xuất hiện:
. Giai cấp công nhân (ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, mang đầy đủ
những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế và những đặc điểm riêng có của
công nhân Việt Nam)
. Tầng lớp tiểu tư sản (có địa vị kinh tế bấp bênh, bị đế quốc và phong kiến đàn áp,
có tinh thần yêu nước, là lực lượng quan trọng của cách mạng Việt Nam)
. Tư sản (có hai bộ phận: Tư sản mại bản (có quyền lợi kinh tế và chính trị
gắn với tư bản Pháp) và tư sản dân tộc (bị tư bản Pháp chèn ép cả về kinh tế và
chính trị, có tinh thần dân tộc chống đế quốc).
II. Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.Các phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến và tư sản
- Về phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến phải kể đến phong
trào Cần Vương với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: khởi nghĩa Ba Đình (18811887), khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892), khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896)…
Cùng thời gian này nổ ra cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân Yên Thế ở miền
núi phía bắc (1897 - 1913)
- Về phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, cần lưu ý:


4


+ Xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của
Phan Chu Trinh.
Phan Bội Châu chủ trương bạo động để giành độc lập dân tộc nhưng dựa
vào sự giúp đỡ bên ngoài (chủ yếu là Nhật để đánh Pháp), thiết lập một Nhà nước
theo mô hình quân chủ lập hiến như của Nhật (1905), và sau đó theo cộng hoà tư
sản như ở Trung Quốc (1912).
Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo động tiến hành cải cách văn hóa, mở
mang dân trí, làm cho dân giàu, nước mạnh, nhưng lại dựa vào nhà nước “bảo hộ
Pháp”.
Cả hai xu hướng này đều thất bại nguyên nhân sâu xa là không xác định
đúng kẻ thù, không xác định rõ lực lượng và phương pháp tiến hành cách mạng.
+ Phong trào Quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên
(1919-1923) - Đảng lập Hiến.
+ Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư
sản lớp dưới (1925 - 1926) – Việt Nam nghĩa hòa đoàn (sau đổi thành Tân Việt
Cách mạng Đảng)
+ Phong trào Cách mạng quốc gia tư sản của Việt Nam quốc dân đảng do
Nguyễn Thái Học đứng đầu (1927 - 1930); Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2.1930)
* Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX:
- Thiếu một đường lối chính trị đúng đắn (giải quyết đúng đắn mâu thuẫn cơ
bản của dân tộc Việt Nam lúc đó)
- Thiếu một tổ chức cách mạng lãnh đạo chặt chẽ ( một đảng chính trị)
- Thiếu lực lượng cách mạng ( không tập hợp được rộng rãi các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc đó)
2. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập
Đảng

Có 2 mốc chính:
- Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước (1911 - 1920)
Lưu ý một số mốc quan trọng sau:
5


+ Ngày 5-6 - 1911 Người rời Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước. Người sang
các nước phương Tây (Pháp, Mỹ, Anh…) với mục đích tìm hiểu thực chất đằng
sau tư tưởng "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" là gì, để hiểu rõ hơn bản chất của kẻ thù.
+ Năm 1919 Người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6-1919 thay mặt
những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp, Người gửi đến Hội nghị Véc Xây
Bản yêu sách 8 điểm đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ
và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Đánh dấu một giai đoạn mới cho phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
+ Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo ngày
16,17-7-1920. Nội dung của Luận cương đã giải đáp cho Người con đường
giành độc lập cho dân tộc.
+ Từ ngày 25-30/ 12/ 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18
của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua. Ngày 30/12 Người bỏ phiếu tán
thành gia nhập Quốc tế thứ ba và trở thành người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp,
người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái
Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng
mở ra cho Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới “
giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế,
đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin”.
- Quá trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng
(1921-1930)

Lưu ý những hoạt động sau:
Từ 1921- hè 1923:
+ Năm 1921, tại Pháp Nguyễn Ái Quốc cùng với một số chiến sĩ cách mạng
ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa tập hợp các dân

6


tộc thuộc địa chống Pháp và sáng lập tờ báo Người cùng khổ (1922), nhằm tuyên
truyền đường lối và các hoạt động của Hội.
Người đã viết nhiều bài đăng trên báo (Báo Người cùng khổ, Nhân Đạo, Đời
sống công nhân, Tập san thư tín quốc tế, Tạp chí Cộng sản...), góp phần quan trọng
vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, tuyên truyền tư
tưởng Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và
nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đây là thời gian
Người thu thập tư liệu cho cuốn sách “ Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất
bản năm 1925.
Từ 1923-1927
+ Tháng 6-1923 Người rời Pháp sang Liên Xô trực tiếp nghiên cứu kinh
nghiệm cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Từ 12-10 đến 15-10-1923 Người tham dự Đại hội quốc tế nông dân và
được bầu vào Đoàn Chủ tịch Ban chấp hành Quốc tế nông dân, Đại hội Quốc tế
công hội đỏ, Đại hội quốc tế thanh niên...
+ Từ 17-6 đến 18-7-1924 Người tham dự Đại hội V Quốc tế cộng sản.
Người đã trình bày bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Bằng nhiều số liệu và tư liệu cụ thể, bản báo cáo đã làm sáng rõ và phát triển một
số luận điểm của Lênin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về nhiệm vụ của các
Đảng Cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và giải
phóng dân tộc ở các thuộc địa.
Tóm lại, trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị

về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng với những quan điểm cơ bản:
1. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân.
2. Xác định vị trí, vai trò cách mạng giải phóng dân tộc trong cách mạng thế
giới.
3. Xác định lực lượng cách mạng cần phải tập hợp ở nước nông nghiệp lạc
hậu
4. Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng và chủ nghĩa Mác - Lênin.
7


- Về tổ chức:
Cần thấy rõ đây là nhu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam.
+ Tháng 11-1924 Người về Quảng Châu, Trung Quốc - nơi có rất đông
người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập
chính đảng mác xít.
+ Tháng 2-1925 Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm
xã, lập ra Cộng sản đoàn. Tháng 6.1925 thành lập ra Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tờ báo Thanh Niên. Đây là một bước
chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
+ Từ năm 1925 – 1927, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại
Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Các bài giảng
của Người đã được tập hợp và xuất bản lấy tên “Đường cách mệnh” (1927).
Từ 1927-1930
+ Tháng 4-1927 sau vụ biến của Tưởng Giới Thạch ở Quảng Châu, Quốc
dân Đảng Trung Quốc thực hiện chính sách khủng bố những người cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu sang Liên Xô.
+ Năm 1928, Người về Thái Lan tiếp tục công việc chuẩn bị thành lập Đảng.
+ Cuối năm 1929, Người trở lại Trung Quốc chuẩn bị Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản.

3. Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
- Những chuyển biến trong phong trào yêu nước:
+ Cuối năm 1928 Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên thực hiện chủ trương
“Vô sản hoá” - đưa hội viên vào làm việc tại các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ
truyền bá lý luận, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Vì vậy phong trào
đấu tranh của công nhân đã nổ ra mạnh mẽ, sôi nổi đều khắp.
+ Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân ngày càng có sức thu
hút, lôi cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp nhân dân khác, đặc biệt là nông dân
đi vào cuộc đấu tranh chống đế quốc phong kiến.
8


Phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân và các tầng lớp thị
dân càng phát triển càng đòi hỏi phải có tổ chức lãnh đạo. Nhu cầu thành lập một
chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng dân tộc và lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc được đặt ra và ngày càng trở nên bức xúc đối với cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
- Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản:
+ 3-1929 một số phần tử tiên tiến của Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc
kỳ đã họp tại số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17-6-1929, tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản
Đảng ở nhà 312 Khâm Thiên, ra tờ báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
+ Ở Nam Kì quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng ( 11-1929), xuất
bản tờ báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận.
+Tại Trung Kì, Tân Việt cách mạng đảng chịu tác động của Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên- đã thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, vào ngày
1-1-1930, tại Đức Thọ, Hà Tĩnh.
+ Trước tình hình đó, ngày 17-10-1929 Quốc tế cộng sản đã gửi thư cho
những người cộng sản Đông Dương yêu cầu chấm dứt sự công kích lẫn nhau, tích
cực xúc tiến việc hợp nhất thành một chính đảng duy nhất.

+ Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách
là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung
Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản lại thành một chính đảng
duy nhất của Việt Nam.
III. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1. Hội nghị thành lập Đảng
- Hội nghị được tiến hành từ ngày 6-1-1930 đến ngày 7-2-1930 tại Hương
Cảng, Trung Quốc.
- Thành phần tham gia Hội nghị: đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng,
đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc.
- Nội dung Hội nghị:
9


+ Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế
cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào cả nước nhân dịp thành
lập Đảng. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
+ Tên Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Đại diện Đông Dương Cộng sản Đảng không đến kịp (24-2-1930 xin gia
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam).
+ Hội nghị hợp nhất có ý nghĩa như là đại hội thành lập Đảng.
2. Nội dung cơ bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cương lĩnh chính trị của Đảng đề cập tới những nội dung chủ yếu sau:
- Xác định phương hướng cách mạng Việt Nam: “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
- Xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
+ Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến; làm cho
nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công - nông - binh.
+ Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc giao cho

chính phủ công - nông - binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc
chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo…
+ Về văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam - nữ bình quyền
- Xác định lực lượng cách mạng Việt Nam: Thu phục đại bộ phận dân cày
nghèo; Làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày khỏi ở dưới quyền lực và ảnh
hưởng của bọn tư bản quốc gia; Phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông…để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp; Đối với phú, trung tiểu địa chủ và tư
bản chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất làm cho họ trung lập. Bộ
phận nào ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
- Về lãnh đạo cách mạng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Xác định mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.

10


Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh
được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và
cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại.
3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam, là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh
đạo cách mạng những năm đầu thế kỷ XX, chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng
thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng có ý nghĩa to
lớn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, là ngọn cờ
dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc xây dựng CNXH hiện nay.
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định dứt khoát con đường đi

lên của dân tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vô sản. Đó là sự lựa
chọn của chính nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc Việt Nam trong quá trình
tìm con đường giải phóng dân tộc.
Chương II
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930 - 1945)
A- Mục đích, yêu cầu:
- Nắm vững sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng qua các cao trào cách mạng
đấu tranh giành chính quyền.
- Nắm vững quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
qua các Hội nghị cơ bản của Trung ương Đảng từ 1930 đến 1945.
- Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
B- Nội dung cơ bản:
- Phong trào cách mạng 1930-1945;
- Phong trào dân chủ 1936-1939;
11


- Phong trào giải phóng dân tộc, khởi nghĩa giành chính quyền (19391945).
I .Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939
1. Trong những năm 1930 – 1935
a. Luận cương chính trị tháng 10 - 1930
- Về thời gian: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp từ
ngày 14 đến ngày 30-10-1930,
- Địa điểm diễn ra Hội nghị: Hương Cảng (Trung Quốc)
- Chủ trì Hội nghị: đồng chí Trần Phú.
- Nội dung của Hội nghị:
+ Hội nghị đã thông qua Nghị quyết “Về tình hình hiện tại ở Đông Dương
và nhiệm vụ cần kíp của Đảng”
+ Thông qua Điều lệ Đảng.

+ Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Đông Dương.
+ Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm 6 uỷ viên và
cử đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.
+ Hội nghị đã thông qua Luận cương chính trị của Đảng do đồng chí Trần
Phú soạn thảo. Luận cương xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam.
Luận cương chính trị đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa
nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân
quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Luận cương chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư
bản đế quốc.
Luận cương vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Đông
Dương là: Lúc đầu cách mạng Đông Dương là một cuộc “cách mạng tư sản dân
quyền” có tính chất thổ địa và phản đế, “tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ
12


dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi
sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tiến thẳng lên con đường xã hội
chủ nghĩa”.
Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là:
Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến
lược đó có quan hệ khăng khít với nhau. Luận cương xác định: “ Vấn đề thổ địa
là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.
Về lực lượng cách mạng: Luận cương chỉ rõ:
Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền,
vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng.

Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng.
Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách
mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương, khi cách
mạng phát triển cao thì họ theo đế quốc…
Về phương pháp cách mạng: Võ trang bạo động để giành chính quyền là
một nghệ thuật, phải tuân theo khuôn phép nhà binh.
Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách mạng
Đông Dương là một bộ phận của cách mạng Thế giới.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng: sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều
kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng.
Khi nghiên cứu Luận cương chính trị tháng 10-1930, cần thấy rõ Luận
cương có một số hạn chế sau đây:
Một là, khi phân tích các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam, Luận cương đã
không vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp và tay sai của chúng, do đó
không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp.

13


Hai là, chưa đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản,
phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, chưa thấy được khả năng phân hoá và
lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Từ nhận thức hạn chế như vậy, Ban Chấp hành Trung ương đã phê phán
gay gắt những quan điểm đúng đắn trong Chính cướng vắn tắt, Sách lược vắn tắt
do Hội nghị hợp nhất thông qua.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:
- Hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân
tộc ở Đông Dương; Nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng thuộc địa;

- Chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng sản
trong thời gian đó.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cũng cần thấy rằng, về cơ bản nội dung của
Luận cương tháng 10-1930 thống nhất với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng được thông qua tại Hội nghị hợp nhất, thể hiện ở những vấn đề về: xác
định phương hướng chiến lược của cách mạng, về phương pháp cách mạng, về
vai trò lãnh đạo của Đảng…
b) Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng
Trước sự đàn áp dã man của thực dân Pháp, các cơ quan lãnh đạo của
Đảng ở Trung ương và địa phương lần lượt bị địch phá vỡ, toàn bộ Ban Chấp
hành Trung ương bị bắt. Tuy bị địch khủng bố, Đảng ta và quần chúng bị tổn
thất nặng nề, song thành quả của phong trào cách mạng 1930 – 1931 mà quân
thù không thể xóa được đó là: Khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng trong thực
tế. Củng cố lại lòng tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng.
=> Quá trình khôi phục tổ chức cơ sở Đảng:
- Ở trong nước: Thông qua đội ngũ đảng viên của Đảng, Đảng vẫn kiên
trì giữ vững đường lối cách mạng. Trong nhà tù đế quốc, cuộc chiến đấu vẫn
tiếp diễn. Các chi bộ đảng trong nhà tù được thành lập và tổ chức huấn luyện,
bồi dưỡng, trang bị cho đảng viên lý luận Mác – Lênin. đường lối cách mạng,
14


kinh nghiệm vận động cách mạng… Do đó, nhà tù của đế quốc đã trở thành một
trường học cách mạng, một trận tuyến đấu tranh với kẻ thù của những người
cộng sản Việt Nam.
Tuy bị địch khủng bố dã man, nhưng nhiều tổ chức cơ sở đảng lần lượt
được khôi phục và hoạt động trở lại.
- Ở nước ngoài:
+ Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và
một số đồng chí hoạt động trong và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung

ương của Đảng và công bố “Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông
Dương”.
+ Đầu năm 1934, được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở
ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương dược thành lập do đồng chí Lê Hồng
Phong đứng đầu, có nhiệm vụ hoạt động như một Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời.
Kết quả là, nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng ta, được sự chỉ đạo của
Quốc tế Cộng sản, đến cuối năm 1934, đầu năm 1935 hệ thống tổ chức của
Đảng đã được khôi phục.
- Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (1935).
+ Về thời gian: Tháng 3-1935, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản
Đông Dương đã triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng
+ Địa điểm: Tại Ma Cao (Trung Quốc).
+ Nội dung chính: Đại hội đã nhận định tình hình trong nước và quốc tế,
trên cơ sở đó đề ra ba nhiệm vụ trước mắt:
1- Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng.
2- Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng. Củng cố và phát triển
các tổ chức quần chúng, lập Mặt trận thống nhất phản đế.
3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên
Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc.

15


- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng và cử đồng chí
Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư của Đảng.
2. Trong những năm 1936-1939.
Trong giai đoạn 1936-1939 cần nắm những nội dung cơ bản sau:
a) Về hoàn cảnh lịch sử:
- Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đối với các

nước tư bản chủ nghĩa, cũng như đối với các nước thuộc địa.
- Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới.
- Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản (7-1935), đã có sự thay đổi về
sách lược cách mạng phù hợp với hoàn cảnh mới.
+ Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà
là chủ nghĩa phát xít.
+ Đại hội vạch ra nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành
chính quyền mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ
dân chủ và hoà bình.
+ Lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do,
dân chủ hoà bình và cải thiện đời sống.
- Đời sống khổ cực của mọi tầng lớp nhân dân Đông Dương, họ mong
muốn có những cải cách dân chủ và dân sinh.
b) Chủ trương mới của Đảng
Chủ trương mới của Đảng trong thời kỳ này được thể hiện ở những nội
dung của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 tháng 7- 1936.
- Địa điểm: Diễn ra tại Thượng Hải (Trung Quốc)
- Chủ trì: Đồng chí Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập
- Nội dung cơ bản:
+ Chỉ rõ kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương là bọn
phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
16


+ Xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế
quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và
hoà bình.
+ Lập mặt trận nhân dân phản đế nhằm liên hiệp các giai cấp trong các

dân tộc ở Đông Dương đấu tranh đòi quyền lợi hằng ngày, chống lại chế độ
thuộc địa vô nhân đạo của thực dân Pháp.
+ Đặc biệt lưu ý: Đảng chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật không
hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp
pháp và nửa hợp pháp.
Sau đó, Trung ương Đảng liên tiếp tổ chức các Hội nghị Trung ương
tháng 3- 1937, tháng 9-1937 và Hội nghị tháng 3-1938 nhằm tiếp tục thực hiện
các nhiệm vụ đã đề ra.
Trong những năm 1936 – 1939, chủ trương mới của Đảng đã giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt
của cách mạng; giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp…
Các nghị quyết của Đảng trong thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành
của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần dân tộc độc lập,
tự chủ, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước.
II. Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945
1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
Đảng.
a. Tình hình thế giới và trong nước.
- Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh, Pháp
tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp
thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách
mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra
ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6 – 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng. Tháng 6
– 1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi.
17


Tình hình trong nước:
- Ở Đông Dương, thực dân Pháp phát xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay

đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào
Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Tháng 9-1940, phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng
và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân ta, làm cho nhân dân ta phải
chịu cảnh “một cổ hai tròng”.
b. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược mới của Đảng:
Ngay sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng kịp thời rút
vào hoạt động bí mật và chuyển trọng tâm công tác về nông thôn.
Sự thay đổi chiến lược của Đảng được thể hiện qua nội dung của các Hội
nghị Trung ương lần thứ sáu, lần thứ bẩy và lần thứ tám:
+ Hội nghị xác định, trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. Vì vậy, tất cả
mọi vấn đề cách mạng, kể cả vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà
giải quyết.
+ Hội nghị chủ trương tập hợp mọi lực lượng chống đế quốc và tay sai
vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Mặt trận Việt Minh.
+ Quyết định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi
đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
c) Ý nghĩa
Hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược cách mạng được vạch ra từ Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương (11-1939); là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta
tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho
dân tộc và tự do cho nhân dân.
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a. Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa
từng phần
* Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước:
18



- Chiến tranh Thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Pháp xít Nhật
lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật – Pháp gia tăng, đêm 9 – 3 –
1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương.
- Đảng nhanh chóng dự đoán và nắm bắt được tình hình. Ngay trong ngày
9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Đình Bảng (Từ
Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Nội dung cơ bản của Chỉ thị:
+Chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm
Đông Dương tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện
khởi nghĩa chưa chín muồi. Tuy vậy, hiện có những cơ hội tốt làm cho những
điều kiện đó nhanh chóng chin muồi.
+ Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân
Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu
“đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.
+ Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh
mẽ làm tiền đề cho cuộc tông khởi nghĩa. Chỉ thị cũng đưa ra các hình thức,
phương pháp đấu tranh và dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện tổng
khởi nghĩa.
+ Nêu rõ phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải
phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa.
+ Chỉ thị dự kiến điều kiện thuận lợi để thực hiện Tổng khởi nghĩa:
* Quân đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra
mặt trận ngăn cản quân đồng minh để phía sau sơ hở.
* Cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật
được thành lập.
* Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân viễn chinh Nhật mất tinh
thần. Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
19



- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra
rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.
- Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang) và chỉ thị
thành lập “khu giải phóng”. Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được
thành lập. Kèm theo đó Uỷ ban lâm thời khu giải phóng được thành lập.
b. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
Đảng xác định, việc giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy
đua nước rút với quân Đồng minh, sao cho phải giành chính quyền trước khi
Đồng minh vào Đông Dương.
Chính vì vậy, ngày 12-8-1945, Uỷ ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh
khởi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản
Đông Dương họp ở Tân Trào quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả
nước. Ngày 16-3-1945, Đại hội quốc dân cũng diễn ra tại Tân Trào. Đại hội tán
thành quyết định tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh,
lập uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Hưởng ứng chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, nhân dân cả nước, triệu
người như một nhất tề nổi dậy, với tinh thần cách mạng tiến công liên tục và
dũng cảm đã giành thắng lợi nhanh chóng trên các địa phương của cả nước. Chỉ
trong vòng 15 ngày (từ 14-8 đến 28-8-1945) cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công.
c. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và kinh nghiệm lịch sử
a) Nguyên nhân:
- Đảng đã xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu, từng bước
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, có chỗ đứng ngày càng vững chắc trong
căn cứ địa và giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa.
- Đảng dự đoán đúng tình hình và chớp được thời cơ khi phát xít Nhật đầu
hàng Liên Xô và Đồng minh.
- Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn và dày dạn kinh nghiệm đấu
tranh và liên hệ chặt chẽ với quần chúng.


20


- Cách mạng tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi: Phát
xít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân chủ trên thế giới đánh bại, chính
quyền tay sai mất chỗ dựa.
b) Ý nghĩa lịch sử
- Đập tan ách thống trị của thực dân và phát xít, mở ra kỷ nguyên mới
trong lịch sử dân tộc – kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
- Đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Đóng góp vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
c) Kinh nghiệm:
- Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
- Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công – nông.
- Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
- Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp.
- Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
- Xây dựng một Đảng Mác – Lênin đủ sức lãnh đạo cách mạng.
CHƯƠNG III
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ
QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1975)
I. Đường lối xây dựng, bảo vệ chính quyền kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945 - 1954)
1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946)

a. Hoàn cảnh đất nước sau Cách mạng tháng Tám-1945:
* Thuận lợi:
21


+ Thuận lợi cơ bản nhất là nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người
làm chủ đất nước. Toàn dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch,
quyết tâm đoàn kết xung quanh Đảng để xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
+ Mặc dù mới ra đời song hệ thống chính quyền được xây dựng từ Trung
ương tới cơ sở, do Đảng lãnh đạo và được nhân dân ủng hộ. Lực lượng vũ trang
nhân dân (bao gồm quân đội, dân quân, tự vệ, công an) đã phát triển.
+ Đảng từ bí mật trở thành Đảng cầm quyền, Đảng có uy tín cao, có lãnh tụ
sáng suốt, có đường lối và phương pháp đúng, được nhân dân tin tưởng.
+ Có môi trường quốc tế thuận lợi, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín,
địa vị của Liên Xô được nâng cao trên trường quốc tế; Phong trào giải phóng dân
tộc; Phong trào dân chủ và hoà bình đang vươn lên mạnh mẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho cách mạng Việt Nam phát triển.
* Khó khăn:
- Về chính trị-quân sự: Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây
và chống phá quyết liệt
+ Ở miền Bắc gần 20 vạn quân của Chính phủ Tưởng Giới Thạch và tay sai
ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật và
thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách
mạng, lập chính quyền tay sai của chúng. Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ âm
mưu chống phá cách mạng Việt Nam.
+ Ở miền Nam quân đội Anh với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật đã
đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại xâm lược Đông Dương. Ngày 239-1945, được quân Anh giúp sức, Pháp đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu
cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
+ Trên đất nước ta còn 6 vạn tàn quân Nhật đang chờ giải giáp, trong đó,
một số đã thực hiện lệnh của quân Anh dọn đường cho thực dân Pháp mở rộng

xâm lược Việt Nam.

22


+ Về lực lượng phản động, các thế lực phản động Việt Nam quốc dân Đảng
(Việt quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt cách), Đại Việt cách mạng
Đảng... ráo riết hoạt động ra sức chống phá cách mạng.
Chưa bao giờ trên đất nước ta có nhiều "giặc ngoài, thù trong" như thế.
- Những khó khăn, thách thức nghiêm trọng về kinh tế -xã hội, đặc biệt là
nạn đói, nạn dốt.
+ Nền kinh tế của đất nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị Pháp, Nhật vơ
vét,bóc lột. Nạn đói từ cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm gần 2 triệu người chết và
vấn đang đe doạ sinh mạng hàng triệu người. Mùa mưa bão năm 1945 làm ngập lụt
6 tỉnh Bắc Bộ, đê sông Hồng vỡ càng làm cho đời sống nhân dân thêm khó khăn.
+ Nền tài chính quốc gia bị khánh kiệt. Hàng hoá thiết yếu của cuộc sống
khan hiếm, giá cả tăng vọt. Kho bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng, trong đó hơn một nửa là
tiền rách không thể lưu hành được. Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư
bản Pháp. Bọn Tưởng lại đưa tiền quốc tệ và quan kim vào Việt Nam làm rối loạn
thị trường.
+ Xã hội Việt Nam với hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn, hủ tục lạc hậu
của chế độ cũ thực sự là gành nặng cho chính quyền cách mạng non trẻ.
+ Trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà chưa được nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Đất nước bị bao vây bốn phía, Bác nói: vận mệnh dân tộc như "ngàn cân
treo sợi tóc".
b. Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng:
Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã phân
tích chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới, những
thuậnlợi và khó khăn của cách mạng nước ta, từ đó đề ra giải pháp cho cách mạng

Việt Nam.
- Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra
ngày 25-11-1945, xác định:

23


+ Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách
mạng Việt Nam lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", nhưng không
phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
+ Chỉ rõ "kẻ thù chính của nước ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng; phải "lập mặt trận dân tộc thống nhất
chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi
tầng lớp nhân dân, thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc lập
- tự do - hạnh phúc cho dân tộc.
+ Chỉ thị xác định nhiệm vụ của ta lúc này là “củng cố chính quyền, chống
thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”
- Trên cơ sở Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, Trung ương đề ra các biện pháp cụ thể:
+ Về chính trị, chuẩn bị bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức,
lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
+ Về quân sự, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và
lãnh đạo kháng chiến lâu dài.
+ Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc: thêm bạn bớt thù, thực hiện "Hoa Việt thân thiện" đối với quân Tưởng và chủ trương "độc lập về chính trị, nhân
nhượng về kinh tế" đối với quân Pháp.
Có thể nói Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời những vấn
đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng khôn khéo trong tình
thế vô cùng hiểm nghèo của nước nhà.
c) Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
Về chính trị - xã hội: Đã xây dựng nền móng cho chế độ xã hội mới- chế độ
dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết.

Về kinh tế, văn hoá: Đẩy lùi được nạn đói ; xây dựng nền văn hoá mới bước
đầu đạt được nhiều kết quả.
Bảo vệ chính quyền cách mạng: Kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng
lên kháng chiến chống Pháp, phát động phong trào chi viện cho miền Nam. Ở miền
Bắc, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, Đảng ta đã thực hiện chủ trương
24


nhân nhượng với Tưởng, tập trung chống thực dân Pháp. Ký với thực dân Pháp
Hiệp ước sơ bộ (6.3) và tạm ước 14.9 để có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến mới.
Ý nghĩa: Những thành quả trên đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước ;
giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được nền móng đầu tiên và cơ bản cho
một chế độ mới; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng
chiến toàn quốc sau đó.
Nguyên nhân thắng lợi: Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau cách
mạng tháng Tám, kịp thời đề ra đường lối kháng chiến kiến quốc đúng đắn; xây
dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; lợi dụng được
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Bài học kinh nghiệm:
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và
bảo vệ chính quyền.
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ
thù chính, nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù. Tận dụng khả năng hoà hoãn để
xây dựng lực lượng, bảo vệ chính quyền.
2 . Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân (1946 - 1954)
a. Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 11 – 1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng một số thành
phố lớn của nước ta và gây ra nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà

Nội.
Bất chấp những nỗ lực đầy thiện chí của Đảng và Chính phủ ta, thực dân
Pháp ngày càng lấn tới và tỏ rõ quyết tâm chiếm nước ta một lần nữa, trước tình
hình đó, ngày 19.12.1946 Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở
rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội
nghị nêu rõ, vì hoà bình chúng ta phải nhân nhượng nhưng càng nhân nhượng thực
dân Pháp càng lấn tới, chúng ta không còn con đường nào khác là chiến đấu để bảo
25


×