Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Tổ chức trò chơi dạy trẻ mẫu giáo đếm trong phạm vi 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.55 KB, 55 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 3
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................... 5
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 5
1.1.1. Đặc điểm hoạt động đếm của trẻ mẫu giáo ............................................. 5
1.1.1.1. Khả năng đếm của trẻ........................................................................... 5
1.1.1.2. Hạn chế trong hoạt động đếm của trẻ .................................................. 9
1.1.2. Định hướng dạy hoạt động đếm cho trẻ mẫu giáo ................................ 10
1.1.2.1. Mục đích dạy đếm cho trẻ .................................................................. 10
1.1.2.2. Nội dung của hoạt động dạy đếm cho trẻ .......................................... 10
1.1.2.3. Phương pháp dạy đếm cho trẻ mẫu giáo ............................................ 11
1.1.2.4 Hình thức tổ chức dạy học .................................................................. 14
1.1.3. Trò chơi học tập dạy trẻ mẫu giáo ........................................................ 17
1.1.3.1. Quan niệm về trò chơi học tập ........................................................... 17
1.1.3.2. Mục đích của trò chơi học tập ............................................................ 18
1.1.3.3. Đặc điểm của trò chơi học tập............................................................ 19
1.1.3.4. Phương pháp và hình thức tổ chức trò chơi học tập .......................... 21
1.1.4. Trò chơi dạy đếm cho trẻ mẫu giáo ...................................................... 22


1.1.4.1. Quan niệm .......................................................................................... 22
1.1.4.2. Mục đích............................................................................................. 23
1.1.4.3. Đặc điểm ............................................................................................ 23


1.1.4.4. Phương pháp và hình thức tổ chức trò chơi dạy đếm ........................ 25
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 26
1.2.1. Mục đích điều tra .................................................................................. 26
1.2.2. Nội dung điều tra ................................................................................... 26
1.2.3. Thời gian và đối tượng điều tra ............................................................. 27
1.2.4. Phương pháp điều tra ............................................................................ 27
1.2.5. Kết quả điều tra ..................................................................................... 27
CHƢƠNG 2. TỔ CHỨC MỘT SỐ TRÒ CHƠI DẠY TRẺ MẪU GIÁO
ĐẾM TRONG PHẠM VI 10 ........................................................................ 32
2.1. Nguyên tắc tổ chức trò chơi ..................................................................... 32
2.1.1. Đảm bảo tính mục đích ......................................................................... 32
2.1.2. Đảm bảo tính vừa sức............................................................................ 32
2.1.3. Đảm bảo cấu trúc trò chơi ..................................................................... 32
2.1.4. Đảm bảo tính thi đua ............................................................................. 33
2.2. Quy trình tổ chức trò chơi ........................................................................ 33
2.3. Hệ thống trò chơi dạy trẻ mẫu giáo đếm trong phạm vi 10 ..................... 34
2.3.1. Trò chơi cho trẻ 3 - 4 tuổi ..................................................................... 34
2.3.2. Trò chơi cho trẻ 4 - 5 tuổi ..................................................................... 38
2.3.3. Trò chơi cho trẻ 5 - 6 tuổi ..................................................................... 42
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 49
PHỤ LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nội dung


TCHT

Trò chơi học tập

GDMN

Giáo dục mầm non

GV

Giáo viên


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là chìa khóa vàng cho mọi quốc gia, dân tộc tiến vào tương lai.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, là một trong những mục tiêu chiến lược trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, ngành học mầm non là
ngành học đầu tiên đặt nền tảng cho việc giáo dục trẻ. Mục tiêu của ngành giáo
dục mầm non là giúp trẻ hình thành toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể lực, thẩm
mỹ và lao động, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người.
Giai đoạn lứa tuổi mầm non, ở trẻ có sự hình thành mạnh mẽ về thể chất,
trí tuệ, tinh thần và sự ham hiểu biết, thích tìm tòi mọi thứ xung quanh. Dưới
sự hướng dẫn của giáo viên trẻ sẽ lĩnh hội được kiến thức một cách chính xác,
đầy đủ hơn. Chính vì vậy mà hình thức tổ chức các hoạt động cho trẻ càng
phong phú, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của trẻ, giúp trẻ dễ tiếp thu và nhẹ
nhàng lĩnh hội kiến thức. Do đó, việc giáo dục theo hình thức truyền thống:
cô đọc - trẻ nghe không còn đem lại hiệu quả cao trong giờ học.
Đối với trẻ mầm non, hoạt động làm quen với toán là hoạt động học rất

quan trọng và cần thiết đối với trẻ. Việc hướng dẫn cho trẻ làm quen với toán
là cơ hội tốt để sớm hình thành ở trẻ những khả năng tìm tòi, quan sát, so
sánh,… tăng cường khả năng ngôn ngữ và tư duy logic. Qua hoạt động làm
quen với toán trẻ trở nên tích cực hơn, nhanh nhẹn hơn, trẻ biết đếm, biết
phân biệt nhiều hơn - ít hơn, trẻ biết tách gộp chia nhóm. Như vậy, trẻ đã dần
hình thành những nét sơ đẳng biểu tượng ban đầu của toán học. Việc hình
thành biểu tượng toán không chỉ giúp trẻ phát triển khả năng nhận biết về:
kích thước, hình dạng, vị trí sắp đặt của các vật thể trong không gian,… mà
còn giúp trẻ nhận biết về số và số lượng cho trẻ và hoạt động cơ bản giúp trẻ
nhân biết đó là hoạt động đếm.

1


Đếm là một hoạt động cơ bản giúp trẻ nhận biết về mối quan hệ số lượng
trong không gian, do vậy đây là một hoạt động cần thiết. Trẻ 3 tuổi bắt đầu
xuất hiện nhu cầu đếm xác định số lượng các nhóm đối tượng, trẻ đếm tất cả
những gì mà trẻ thích thú để biết số lượng của chúng nhưng vẫn còn rất hạn
chế. Vì vậy, cần có các hoạt động giúp trẻ làm quen với biểu tượng toán để trẻ
tập xác định số lượng và phát triển khả năng đếm ở trẻ.
Ở trường mầm non, các cô giáo dạy trẻ làm quen với toán bằng nhiều
phương pháp và phương tiện khác nhau. Trong đó, trò chơi được coi là một
phương pháp riêng biệt không thể thiếu trong quá trình hình thành biểu tượng
toán học ban đầu cho trẻ. Việc sử dụng hợp lí phương pháp trò chơi phù hợp
với nhu cầu vui chơi của trẻ sẽ có tác dụng nâng cao hứng thú đối với giờ học
và khả năng chú ý có chủ định, phát triển tính tích cực của trẻ trong học tập.
Đặc điểm của phương pháp trò chơi là đưa các trò chơi hoặc những yếu
tố trò chơi, thủ thuật chơi làm hình thức để dạy trẻ làm quen với toán, phù
hợp với tâm lý hiếu động, thích tham gia các hoạt động vui chơi của trẻ bởi
tính chất vui chơi - học tập độc đáo của nó “Học mà chơi, chơi mà học”.

Điều này tác động trưc tiếp vào việc tổ chức các trò chơi học tập hình thành
biểu tượng sơ đẳng cho trẻ. Do đó, việc sử dụng trò chơi vào các hoạt động
dạy đếm như: đếm đối tượng theo chủ đề,… sẽ giúp trẻ nhận biết về số lượng
xung quanh mình một cách dễ dàng và tự nhiên hơn.
Tuy nhiên, thực tế ở các trường mầm non việc dạy đếm cho trẻ qua các
trò chơi còn rất hạn chế do giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ
chức trò chơi. Các tiết học toán đặc biệt là tiết dạy trẻ đếm được tổ chức theo
khuôn mẫu, thường lặp đi lặp lại nhiều lần các tiết học có nội dung giống
nhau, chỉ khác về số lượng là 5, 6, 7, 8, 9, 10. Trong các tiết học về nhận biết
số lượng và dạy trẻ đếm nếu chỉ tập chung vào kiến thức dạy trẻ theo đúng
các bước lặp đi lặp lại trẻ sẽ rất nhanh chán, thụ động ghi nhớ, không biết vận

2


dụng vào cuộc sống, trẻ mệt mỏi, căng thẳng, không có hứng thú, không thích
hoạt động.
Bản thân là một sinh viên ngành giáo dục mầm non - một giáo viên
tương lai của đất nước tôi nhận thấy việc hình thành biểu tượng về số lượng
và dạy đếm cho trẻ là một hoạt động rất quan trọng. Giáo viên mầm non cần
phải có các phương pháp, biện pháp tổ chức hoạt động làm quen với toán để
dạy trẻ đếm một cách hiệu quả. Vì những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài:
“Tổ chức một số trò chơi dạy trẻ mẫu giáo đếm trong phạm vi 10”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tổ chức trò chơi dạy trẻ mẫu giáo đếm
trong phạm vi 10. Trên cơ sở đó góp phần nâng cao hiệu quả hình thành biểu
tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mẫu giáo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí và đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo.
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động hình thành biểu

tượng toán về số và phép đếm cho trẻ mẫu giáo.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động dạy đếm cho trẻ mẫu giáo trong phạm vi
10 tại trường mầm non Hoa Sen - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
- Xây dựng quy trình tổ chức một số trò chơi dạy trẻ mẫu giáo đếm trong
phạm vi 10.
- Thiết kế giáo án vận dụng tổ chức trò chơi học tập dạy trẻ mẫu giáo
đếm trong phạm vi 10.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Các hoạt động dạy đếm trong trường mầm non và cách tổ chức một số
trò chơi dạy trẻ mẫu giáo đếm trong phạm vi 10.
5. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy đếm cho trẻ mẫu giáo trong phạm vi 10 tại trường mầm
non Hoa Sen - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.

3


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê toán học
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận bao gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Tổ chức một số trò chơi dạy trẻ mẫu giáo đếm trong phạm vi 10

4



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Đặc điểm hoạt động đếm của trẻ mẫu giáo
1.1.1.1. Khả năng đếm của trẻ
a. Trẻ 3 - 4 tuổi
Ngay từ khi còn nhỏ trẻ đã có những biểu tượng về tập hợp được cấu tạo
từ các đối tượng cùng dạng hay không cùng dạng. Thông qua các hoạt động
trong thực tế trẻ đã được làm quen với tập hợp: những đồ chơi, nhiều bông hoa,
nhiều quả bóng,… Trong quá trình vui chơi, được tiếp xúc với các sự vật, hiện
tượng xung quanh đã tạo điều kiện cho trẻ cảm thụ các tập hợp bằng các giác
quan khác nhau: mắt nhìn, tai nghe, tay sờ mó,… Biểu tượng về “Tập hợp các
vật” (số nhiều) và “Một” được hình thành. Khi nắm được ngôn ngữ, trẻ hiểu
và diễn đạt được từ “Một” hay “Nhiều”. Ví dụ: Trẻ nói được “Có một ô tô”,
“Có nhiều xe máy”, “Có một con gà”, “Có nhiều con gà con”…
Ở độ tuổi mẫu giáo bé, trẻ đã có khả năng nhận biết về tập hợp như một
thể thống nhất và trọn vẹn. Xong, trẻ chưa hình dung rõ ràng tất cả các phần
tử của tập hợp và cũng chưa biết rõ từng phần tử của tập hợp.
Ví dụ: Cô có 5 chiếc đĩa xếp thành hàng ngang, khi cô yêu cầu lấy cho
cô nhiều quả táo thì trẻ làm được, nhưng khi cô yêu cầu hãy đặt cho cô mỗi
cái đĩa 1 quả táo thì trẻ chỉ đặt cho 1 - 2 chiếc đĩa đầu và cuối, coi như là đã
làm xong mà không để ý đến chiếc đĩa ở giữa. Qua đó, chứng tỏ rằng trẻ đã
thấy giới hạn của tập hợp nhưng chưa nhận rõ từng phần tử của tập hợp.
Nhu cầu so sánh số lượng giữa các nhóm vật ở trẻ bắt đầu nảy sinh. Lúc
này, việc phân biệt số lượng nhiều - ít giữa các nhóm vật dựa nhiều vào cảm
tính, trực quan. Vì vậy, việc nhận biết và so sánh số nhiều ở trẻ còn bị ảnh
hưởng bởi sự tác động của một số yếu tố bên ngoài như: màu sắc, kích thước,
sự phân bố trong không gian.


5


Khi bắt đầu nhận biết giới hạn của số nhiều thì trẻ lại nảy sinh nhu cầu lựa
chọn “số nhiều” theo các dấu hiệu bên ngoài: màu sắc, kích thước, hình dạng.
Ví dụ: Cô giáo đưa cho trẻ một rổ gồm các hình và yêu cầu trẻ phận biệt
thì thường trẻ sẽ phân loại các hình đó theo màu sắc: xanh, đỏ, vàng. Trẻ cứ
xếp mà không quan tâm đó là hình gì.
Kích thước các vật và sự bố trí trong không gian cũng ảnh hưởng đến
việc so sánh số nhiều ở trẻ. Ví dụ: Có 5 chấm tròn và 3 quả cam thì trẻ vẫn
coi 3 quả cam nhiều hơn 5 chấm tròn. Vì vậy, cần khuyến khích trẻ quan tâm
đến số lượng và phép đếm.
Trẻ 3 - 4 tuổi đã biết gắn mỗi động tác, mỗi vật với một từ giống nhau
“Này, này, này,…” hay “Nữa, nữa, nữa,…” khi lập tập hợp. Trẻ có khả năng
đếm xong chưa biết đếm, thể hiện trẻ đã biết gắn mỗi số tự nhiên (bắt đầu từ
số 1) với một vật nhưng lại không nêu được kết quả của phép đếm.
Ví dụ: Khi cô hỏi “Nhà con có bao nhiêu người?” trẻ biết trả lời “Bố là
1, mẹ là 2, chị là 3, cháu là 4”. Cô giáo hỏi “Tất cả là bao nhiêu người?” thì
trẻ không trả lời được. Điều đó chứng tỏ trẻ chưa biết khái quát để nêu lên kết
quả của phép đếm.
b. Trẻ 4 - 5 tuổi
Ở trẻ 4 - 5 tuổi, những biểu tượng tập hợp của trẻ được phát triển và mở
rộng, trẻ có khả năng nhận biết tập hợp ngay cả khi phần tử của chúng là
những vật không giống nhau. Điều đó chứng tỏ đã có sự phát triển ở trẻ khả
năng nhận biết dấu hiệu chung của tập hợp bất kì và bỏ qua những dấu hiệu
khác của chúng.
Trẻ lứa tuổi này đã nắm và sử dụng tốt biện pháp thiết lập tương ứng 1 :
1 giữa các phần tử của các tập hợp khi so sánh độ lớn của chúng. Ở trẻ đã
xuất hiện nhu cầu xác định chính xác số lượng các phần tử có trong tập hợp.

Vì vậy, khi thao tác với các tập hợp cụ thể trẻ bắt đầu sử dụng tới các con số
và phép đếm, nhờ vậy mà trẻ bắt đầu nắm được vai trò của số kết quả.

6


Các thao tác đếm của trẻ được hình thành trên cơ sở trẻ thực hành thiết
lập mối tương ứng 1 : 1 giữa các phần tử của các tập hợp khi đếm. Trẻ phải
thực hiện một loạt các thao tác thực tiễn như: xếp các vật của một nhóm theo
một trật tự nhất định, rồi xếp mỗi vật của nhóm khác tương ứng với một vật
của nhóm vừa xếp trước. Như vậy, bằng thực tiễn biến đổi các đối tượng, trẻ
xác định được mối quan hệ số lượng: bằng nhau, không bằng nhau, nhiều
hơn, ít hơn giữa các nhóm đối tượng.
Dưới tác động của việc dạy học, trẻ 4 - 5 tuổi nhanh chóng nắm được
phép đếm, dễ dàng phân biệt được quá trình đếm và kết quả phép đếm, hiểu ý
nghĩa khái quát của con số - là chỉ số cho số lượng các phần tử của tập hợp.
Trẻ hiểu rằng các tập hợp có số phần tử bằng nhau sẽ được biểu thị cùng một
số, còn các tập hợp có số phần tử bằng nhau sẽ được biểu thị bằng các số khác
nhau. Tuy nhiên, trẻ còn khó khăn khi đếm số lượng lớn các vật, vì vậy chỉ
nên dạy trẻ đếm trong phạm vi 5.
Dạy học có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển các biểu tượng số lượng và
hoạt động đếm của trẻ 4 - 5 tuổi. Nếu không dạy trẻ hoặc dạy không đúng thì
nhiều trẻ sẽ không nắm được kĩ năng thiết lập mối tương ứng 1 : 1 giữa các số
với các phần tử của tập hợp khi đếm, không nắm được trình tự các số, vì vậy
mà kết quả đếm thường không chính xác. Nhiều trẻ không biết khái quát kết
quả phép đếm, cho nên khi đếm xong trẻ không ghi nhớ được kết quả đếm.
Trẻ sẽ ít mắc những lỗi trên nếu trước khi học đếm trẻ nắm được kĩ năng thiết
lập tương ứng 1 : 1 giữa các vật của các nhóm vật để so sánh và thiết lập mối
quan hệ số lượng giữa chúng.
Từ những đặc điểm phát triển những biểu tượng số lượng của trẻ 4 - 5

tuổi chúng ta thấy cần phải tiếp tục phát triển những biểu tượng về tập hợp
cho trẻ bằng cách cho trẻ tiếp xúc với các tập hợp mà phần tử của chúng có
những dấu hiệu khác nhau hay với các tập hợp lớn gồm nhiều tập con. Tập

7


cho trẻ phân loại các tập hợp theo các dấu hiệu khác nhau nhằm hình thành
các thao tác tư duy cho trẻ như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng
hóa… Trên cơ sở những biểu tượng về tập hợp, dạy trẻ kĩ năng so sánh độ lớn
các tập hợp đa dạng trên cơ sở thiết lập tương ứng 1 : 1 bằng các biện pháp so
sánh như: xếp chồng, xếp cạnh và so sánh từ xa bằng ghép nối, qua đó phát
triển cho trẻ kĩ năng tri giác, phân tích chính xác các phần tử của tập hợp làm
cơ sở cho trẻ học đếm sau này. Việc dạy đếm cho trẻ 4 - 5 tuổi cần được tiến
hành với các tập hợp có số phần tử trong phạm vi 5, dạy trẻ dùng từ số để
biểu thị số phần tử có trong tập hợp nhằm phát triển tư duy trừu tượng cho trẻ.
c. Trẻ 5 - 6 tuổi
Trẻ 5 - 6 tuổi có khả năng phân tích chính xác các phần tử của tập hợp,
các tập con trong tập lớn. Trẻ khái quát được một tập lớn gồm nhiều tập con
và ngược lại nhiều tập hợp riêng biệt có thể gộp lại với nhau theo một điểm
chung nào đó để tạo thành một tập lớn. Khi đánh giá độ lớn của tập hợp, trẻ
mẫu giáo lớn ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như: màu sắc, số lượng, vị trí sắp
đặt của các phần tử trong tập hợp.
Hoạt động đếm của trẻ hình thành lên một bậc, trẻ có hứng thú đếm và
phần lớn nắm được trình tự của các con số từ 1 - 10, biết thiết lập tương ứng
1 : 1 trong quá trình đếm, mỗi từ số tương ứng với một phần tử của tập hợp
mà trẻ đếm. Trẻ không chỉ hiểu rằng, khi đếm thì số cuối cùng là số kết quả
ứng với toàn bộ nhóm vật, mà trẻ còn bắt đầu hiểu con số là chỉ số cho số
lượng phần tử của tất cả các tập hợp có cùng độ lớn không phụ thuộc và
những đặc điểm, tính chất cũng như cách sắp đặt của chúng.

Trẻ 5 - 6 tuổi bắt đầu hiểu mối quan hệ thuận nghịch giữa các số liền kề
của dãy số tự nhiên (mỗi số đứng trước nhỏ hơn số đứng sau một đơn vị và
mỗi số đứng sau lớn hơn số đứng trước một đơn vị). Trên cơ sở đó dần dần trẻ
hiểu được quy luật thành lập dãy số tự nhiên n ± 1. Kỹ năng đếm của trẻ ngày

8


càng trở nên thuần thục, trẻ không chỉ đếm đúng số lượng của các nhóm vật
mà còn cả âm thanh, các động tác, qua đó trẻ hiểu sâu sắc hơn vai trò của số
kết quả. Mặt khác trẻ không chỉ đếm từng vật mà còn đếm từng nhóm vật, qua
đó trẻ hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của khái niệm đơn vị - đơn vị của phép đếm
có thể là cả nhóm vật chứ không chỉ là từng vật riêng lẻ.
Hơn nữa dưới tác động của dạy học, trẻ mẫu giáo lớn không chỉ biết đếm
xuôi mà còn biết đếm ngược trong phạm vị 10, trẻ nhận biết các số từ 1 - 10.
Trẻ hiểu rằng mỗi con số không chỉ được diễn đạt bằng lời nói mà còn có thể
viết và muốn biết số lượng của các vật trong nhóm không nhất thiết lúc nào
cũng phải đếm, mà đôi lúc chỉ cần nhìn con số biểu thị số lượng của chúng.
Như vậy, trẻ 5 - 6 tuổi cần tiếp tục hình thành biểu tượng về tập hợp,
bước đầu cho trẻ làm quen với một số phép tính trên tập hợp, điều đó tạo cơ
sở cho trẻ học các phép tính đại số sau này ở trường phổ thông. Tiếp tục dạy
trẻ đếm trong phạm vi 10, giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn khái niệm đơn vị, tạo tiền
đề cho trẻ hiểu bản chất của các phép tính đại số mà trẻ sẽ học ở trường phổ
thông. Dạy trẻ làm quen với các bài toàn đơn giản trên các tập hợp cụ thể
bằng cách phân tích để biết cái gì đã cho, cái gì cần tìm, để tìm cái đó phải
làm như thế nào? Đó chính là cơ sở để trẻ học tốt môn toán sau này ở trường
phổ thông.
1.1.1.2. Hạn chế trong hoạt động đếm của trẻ
Trẻ mẫu giáo có khả năng đếm khá thành thạo, tuy nhiên bên cạnh đó
vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong hoạt động đếm của trẻ.

- Quá trình đếm, kết quả đếm và thao tác đếm của trẻ không rõ ràng. Trẻ
hay nhầm kết quả đếm và thao tác đếm. Ví dụ: Khi trẻ đếm 5 quả táo, mỗi lần
cầm quả táo đặt vào giỏ và nhấc tay ra ta đếm 1 quả. Nhưng trẻ đếm từ lúc
cầm vào quả cam đặt xuống là 1, rút tay lên là 1 nữa. Kết quả là trẻ đếm 1
thành 2.

9


- Tạo 2 nhóm bằng nhau. Trẻ chỉ biết thêm cho nhóm có ít hơn để nhóm
đó bằng nhóm lớn chứ không biết cách bớt nhóm nhiều để bằng nhóm ít.
- Trẻ nhận biết nhóm nhiều hơn, ít hơn vẫn còn dựa vào cảm tính. Chưa biết
được nhóm nhiều hơn, ít hơn qua kết quả của phép đếm. Ví dụ: hỏi trẻ 9 chú thỏ
nhiều hơn 8 củ cà rốt thì nhiều hơn là mấy. Trẻ thường trả lời “nhiều hơn là 9”.
- Trẻ chưa thuộc thứ tự các số khi đọc số.
- Khi đếm chưa biết gắn mỗi đối tượng với một số bắt đầu từ số 1, còn
đếm lặp lại, đếm bỏ sót, 1 số ứng với nhiều vật hoặc 1 vật ứng với nhiều số.
- Trẻ chưa biết tách số cuối cùng ra khỏi quá trình đếm để tạo ra thành
kết quả đếm.
Vì những hạn chế trên vẫn còn tồn tại trong quá trình đếm của trẻ nên ta
cần có những định hướng rõ ràng trong hoạt động dạy đếm cho trẻ mẫu giáo
nhằm giúp trẻ đếm thành thạo và chính xác hơn.
1.1.2. Định hƣớng dạy hoạt động đếm cho trẻ mẫu giáo
1.1.2.1. Mục đích dạy đếm cho trẻ
- Hình thành cho trẻ các biểu tượng toán học ban đầu về tập hợp, số
lượng và số tự nhiên.
- Hình thành và phát triển khả năng quan sát có mục đích, tập một số
thao tác tư duy: phân loại, so sánh, tổng hợp,…
- Phát triển tính ham hiểu biết, tìm tòi, sáng tạo của trẻ làm phong phú và
mở rộng năng lực hoạt động của trẻ.

- Phát triển ngôn ngữ, giúp trẻ hiểu và sử dụng đúng các thuật ngữ toán
học trong các trường hợp cụ thể, diễn đạt một cách mạch lạc các yếu tố và các
mối tương quan toán học.
1.1.2.2. Nội dung của hoạt động dạy đếm cho trẻ
a. Trẻ 3 - 4 tuổi
- Dạy trẻ tìm dấu hiện chung của một nhóm đồ vật và tạo nhóm đồ vật
theo một dấu hiệu nào đó.

10


- Dạy trẻ biện pháp so sánh số lượng các nhóm vật bằng cách xếp tương ứng
1 - 1 giữa 2 nhóm đồ vật.
- Dạy trẻ đếm và nhận biết số lượng trong phạm vi 5.
- Gộp hai nhóm đối tượng lại và đếm chúng.
- Tách một nhóm thành hai nhóm.
b. Trẻ 4 - 5 tuổi
- Dạy trẻ đếm số lượng trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng.
- Dạy trẻ đếm thứ tự đến 5 và nhận biết các số chỉ số lượng và các số thứ
tự từ 1 đến 5.
- Dạy trẻ gộp 2 nhóm đối tượng và đếm.
- Dạy trẻ tách 1 nhóm đối tượng thành 2 nhóm.
c. Trẻ 5 - 6 tuổi
- Cho trẻ luyện tập cách so sánh số lượng của 2 nhóm đối tượng trong
phạm vi 10 và nhiều hơn bằng cách xếp tương ứng 1 : 1.
- Dạy trẻ sắp xếp 3 nhóm đối tượng theo sự tăng hay giảm dần về số
lượng của các nhóm và sử dụng các từ: nhiều nhất, ít hơn, ít nhất.
- Tiếp tục dạy trẻ phép đếm xác định số lượng trong phạm vi 10 và đếm
theo khả năng của trẻ.
- Dạy trẻ gộp 2 nhóm đối tượng lại và đếm chúng.

- Dạy trẻ nhận biết các con số chỉ số lượng và các con số chỉ thứ tự trong
phạm vi 10, nắm được mối quan hệ giữa các số liền kề thuộc dãy số tự nhiên.
- Dạy trẻ thêm bớt trong phạm vi 10.
1.1.2.3. Phương pháp dạy đếm cho trẻ mẫu giáo
Phương pháp dạy hình thành biểu tượng toán học cho trẻ mầm non được
coi là tổ hợp các cách thức tổ chức các hoạt động của trẻ em trong quá trình
hình thành biểu tượng toán học cho trẻ nhằm mục đích giáo dục toán học cho
trẻ mầm non.

11


Một số phương pháp dạy học thường dùng trong quá trình hình thành các
biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ.
a. Phương pháp hoạt động với đồ vật (phương pháp dạy học trực quan)
* Định nghĩa, vai trò:
- Định nghĩa:
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp tổ chức cho trẻ tiến
hành các hoạt động với đồ vật dưới hình thức vui chơi mang tính trực quan, từ
đó hình thành nội dung bài học.
- Ý nghĩa: Đây là phương pháp chủ đạo
+ Giúp trẻ nhận biết các thuộc tính, đặc điểm bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
+ Giúp trẻ hình thành một cách nhanh chóng, rõ ràng những biểu tượng
toán học cụ thể.
* Cách tiến hành:
- Bước 1: Xác định mục đích bài dạy, yêu cầu trẻ cần đạt được
- Bước 2: Xác lập phương thức hoạt động
- Bước 3: Định hướng hoạt động (nêu lên nhiệm vụ cần thực hiện)
- Bước 4: Tổ chức cho trẻ hoạt động trong giờ học
+ Tổ chức cho trẻ hoạt động với đồ vật

+ Hướng dẫn trẻ phân tích, so sánh, rút ra kết luận
+ Tổ chức vận dụng điều mới học vào các hoạt động thực hành
+ Đánh giá kết quả thực hiện ở từng hoạt động
b. Phương pháp thực hành, luyện tập
Là phương pháp tổ chức cho trẻ thực hiện các hành động gồm một chuỗi
các thao tác cùng với việc sử dụng các đồ vật, qua đó hình thành kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo và khả năng vận dụng vào các tình huống khác nhau cho trẻ.
Các trường hợp được sử dụng:
- Luyện tập qua các bài tập ứng dụng đa dạng: các trò chơi, các phương
tiện khác nhau.

12


- Vận dụng giải quyết các tình huống cụ thể trong thực tế.
- Luyện tập qua các trò chơi (cô cần nói rõ tên trò chơi, luật chơi, trò
chơi mới cô phải cho trẻ chơi thử).
c. Phương pháp dùng lời
* Khái niệm:
Là phương pháp sử dụng ngôn ngữ của cô để mô tả, hướng dẫn gợi ý
hoặc hỏi trẻ nhằm hướng dẫn trẻ quan sát, đối chiếu, so sánh, phân tích để
nắm được tri thức của bài học mới.
* Ý nghĩa:
Đây là phương pháp thường xuyên được sử dụng giúp trẻn tiếp thu kiến
thức một cách dễ dàng, đầy đủ hơn. Cô giáo có thể sử dụng các câu hỏi gợi
mở nhằm kích thích sự phát triển tư duy và khả năng diễn đạt của trẻ. Qua đó,
trẻ có thể chính xác hóa, khái quát hóa được sự nhận thức của bản thân.
* Tiến hành:
- Bước 1: Hướng dẫn trẻ quan sát đối tượng
- Bước 2: Tổ chức cho trẻ hoạt động với đồ vật

- Bước 3: Hướng dẫn trẻ quan sát, phân tích để tìm ra kết quả
d. Phương pháp dạy học tích cực
* Khái niệm:
Là các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học trong quá trình hình thành các kiến thức mới.
* Phân loại:
- Phương pháp dạy học phân hóa đối tượng người học
- Phương pháp dạy học gợi mở vấn đề
- Phương pháp học tập trải nghiệm
- Phương pháp dạy học khám phá,…

13


e. phương pháp sử dụng trò chơi
Trong các tiết dạy toán, phương pháp dùng trò chơi được sử dụng nhiều
với chức năng như một biện pháp hay một phương pháp dạy học. Việc sử
dụng rộng rãi và đa dạng các trò chơi học tập đều là phương tiện góp phần
đem lại hiệu quả cho việc hình thành biểu tượng toán học cho trẻ mầm non.
Kết luận: Mỗi một phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng, không có
phương pháp nào là tối ưu. Do vậy, giáo viên cần phải sử dụng kết hợp các
phương pháp khác nhau. Tùy theo tính chất tiết học và giai đoạn học tập của trẻ.
1.1.2.4 Hình thức tổ chức dạy học
Quá trình tổ chức cho trẻ làm quen toán ở trường mầm non diễn ra dưới
hai hình thức sau:
- Hoạt động học toán có chủ đích (Tiết toán học)
- Hoạt động học toán không có chủ đích (Dạy ở mọi lúc, mọi nơi)
a. Hoạt động học toán có chủ đích (Tiết học toán)
* Ý nghĩa
Là hình thức tổ chức không thể thiếu được trong việc hình thành các

biểu tượng toán nhằm:
- Hình thành tri thức mới, rèn luyện củng cố các tri thức, kĩ năng cần
thiết cho trẻ.
- Phát triển khả năng chú ý bền lâu có chủ đích, rèn luyện và phát triển
các thao tác tư duy, phát triển ngôn ngữ và tính tích cực, tự giác trong học tập,
góp phần hoàn thiện và phát triển năng lực cảm giác, thúc đẩy sự ham hiểu
biết của trẻ.
* Đặc điểm
Trẻ lĩnh hội các tri thức, rèn luyện các kĩ năng thông qua quan sát và
hoạt động với đồ vật dưới sự hướng dẫn của giáo viên, trong đó trẻ giữ vai trò
chủ thể của hoạt động, còn cô giáo là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn trẻ
hoạt động theo trình tự:

14


- Cô thiết kế, tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động.
- Từng trẻ trực tiếp tham gia vào hoạt động, nêu lên nhận xét về những
điều lĩnh hội được qua hoạt động, tự kiểm tra, đánh giá kết quả công việc của
mình và của bạn.
- Cô chính xác hóa các nhận xét của trẻ, khái quát hóa kết quả để hình
thành tri thức mới.
* Cấu trúc của tiết học toán (Hoạt động học toán có chủ đích)
Tiết học toán bao gồm một chuỗi các hoạt động mang tính cấu trúc,
trong đó mỗi hoạt động trước sẽ là cơ sở để tiến hành hoạt động sau. Cụ thể:
Gồm 3 phần:
Hoạt động 1: Ôn kiến thức cũ hoặc làm quen với kiến thức mới.
- Cho trẻ ôn kiến thức có liên quan trực tiếp đến nội dung bài học tiết đó,
hướng sự chú ý của trẻ vào nhiệm vụ chuẩn bị giải quyết.
- Nội dung kiến thức giai đoạn này đơn giản, thời gian ngắn.

Hoạt động 2: Hình thành tri thức, biểu tượng mới.
Trong giai đoạn này, trẻ trực tiếp tham gia vào hoạt động với đồ vật và
thông qua các hoạt động đó trẻ lĩnh hội các tri thức mới. Khi đó, các tri thức
cần có ở trẻ được biến thành các việc làm cụ thể. Vì vậy:
Khi định hướng hoạt động cho trẻ thì hướng dẫn phải rõ ràng, ngắn gọn,
dễ hiểu, giúp trẻ nhớ nhiệm vụ cần làm.
Khi tổ chức cho trẻ hoạt động, cô cần kết hợp việc làm mẫu với lời
hướng dẫn. Cô phải thực hiện từng thao tác cùng trẻ, hướng dẫn xong thao tác
này mới chuyển sang thao tác khác. Quá trình hoạt động và kết quả hoạt động
của trẻ luôn nằm dưới sự quan sát, điều khiển và kiểm tra của của cô.
Sau từng hoạt động, cô hướng dẫn trẻ phân tích, đối chiếu, so sánh, khái
quát những vấn đề cần lĩnh hội để hình thành tri thức mới (tạo điều kiện để trẻ
là người đầu tiên nêu lên nhận xét, cô tập cho trẻ cách diễn đạt, cách trả lời
câu hỏi).

15


Cô giáo chính xác hóa, khái quát hóa kết quả, nhấn mạnh những vấn đề
trọng tâm để trẻ cần lĩnh hội thành tri thức mới.
Hoạt động 3: Luyện tập, củng cố
Cô tổ chức cho trẻ vận dụng những điều vừa lĩnh hội được vào các hoạt
động đa dạng thông qua:
- Hệ thống các bài tập luyện tập từ đơn giản đến phức tạp.
- Tổ chức một số trò chơi để củng cố hiểu biết và rèn luyện các kĩ năng
vừa có.
- Cho trẻ liên hệ với thực tế: Đối chiếu những hiểu biết vừa có với thực
tế trong môi trường xung quanh.
- Cho trẻ tạo ra các sản phẩm mới bằng các phương tiện khác: Vẽ, cắt,
dán, nặn, chắp ghép, xếp hình,…

b. Hoạt động học toán không có chủ đích (Dạy ở mọi lúc, mọi nới)
* Ý nghĩa:
- Đa dạng hóa các hình thức cho trẻ mẫu giáo làm quen với toán trong
trường mầm non.
- Đảm bảo nguyên tắc “học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với cuộc
sống” trong quá trình dạy học những kiến thức toán sơ đẳng cho trẻ mầm non.
- Tạo điều kiện để củng cố và làm sâu sắc hơn những kiến thức, kĩ năng
mà trẻ đã học được trên các hoạt động học toán có chủ đích.
- Góp phần hình thành cho trẻ kĩ năng và thói quen vận dụng những điều
đã học vào các tình huống, hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.
- Giúp trẻ thấy được ý nghĩa của những kiến thức toán học và những kĩ
năng nhận biết đã học trong cuộc sống thực tế hàng ngày của trẻ. Qua đó hình
thành cho trẻ hứng thú đối với những kiến thức, kĩ năng toán học.
* Cách tiến hành:
Trong suốt thời gian cả ngày trẻ ở trong trường mầm non, GV có điều
kiện sử dụng các hình thức dạy học khác nhau nhằm hình thành cho trẻ những

16


biểu tượng toán học sơ đẳng. Việc dạy trẻ có thể diễn ra trong thời gian trẻ
chơi, khi trẻ tham quan, dạo chơi, khi trẻ tham gia hoạt động ở các góc và các
hoạt động khác như: thể chất, âm nhạc, tạo hình,… hay trong cuộc sống sinh
hoạt hàng ngày của trẻ.
Trong cuộc sống hàng ngày của trẻ, GV có thể giao cho trẻ thực hiện các
nhiệm vụ khác nhau đòi hỏi trẻ phải ứng dụng các kiến thức về số lượng, phép
đếm,… Ví dụ: lấy số ghế, số bát cơm và số thìa ăn tương ứng với số trẻ ngồi ăn…
Trong thời gian trẻ hoạt động ở các góc, ở góc xây dựng, GV giao các
nhiệm vụ cho trẻ như: xây 5 cái nhà và 3 cái hàng,… Ở góc nghệ thuật, GV
giao nhiệm vụ cho trẻ như: nặn quả to, quả nhỏ,.. GV có thể hướng sự chú ý

của trẻ tới các dấu hiệu toán học có trong hoạt động của trẻ.
Trong thời gian trẻ thực hiện các bài tập thể dục, giáo viên yêu cầu trẻ
giơ tay về phía phải, phía trái, giơ tay lên phía trên, xuống phía dưới, quay
người về phía sau, cúi người về phía trước… với số lần nhất định. Các bài tập
này đòi hỏi trẻ không chỉ có kĩ năng vận động cơ bản mà còn phải ứng dụng
những kiến thức toán vào việc thực hiện nó để đạt kết quả mong muốn.
Trong thời gian trẻ tham gia các hoạt động ngoài trời, GV tổ chức cho
trẻ quan sát và hướng sự chú ý của trẻ tới những dấu hiệu toán học có trong
các sự vật, hiện tượng ở xung quanh trẻ như: Khi trẻ ngắm vườn cây trong
trường, GV hỏi “Các con có thấy trong vườn có mấy cây nào? Trên sân
trường có mấy cái ghế đá?”...
Như vậy trong mọi trường hợp của cuộc sống hàng ngày, giáo viên GV
đều có thể sử dụng chúng để hướng sự chú ý của trẻ tới các dấu hiệu toán học
và mối quan hệ toán học trong đó và cho trẻ nhận biết chính xác chúng.
1.1.3. Trò chơi học tập dạy trẻ mẫu giáo
1.1.3.1. Quan niệm về trò chơi học tập
TCHT là trò chơi có luật và những nội dung cho trước, là trò chơi của sự
nhận thức, hướng đến sự mở rộng, chính xác hóa, hệ thống hóa các biểu

17


tượng đã có nhằm phát triển các năng lực trí tuệ, giáo dục lòng ham hiểu biết
của trẻ - trong đó nội dung học tập kết hợp với hình thức chơi.
Có nhiều quan niệm khác nhau về TCHT. Trong lí luận dạy học, tất cả
những trò chơi có nội dung gắn với nội dung học tập, nó được sử dụng như
một phương pháp, hình thức tổ chức và luyện tập cho học sinh, không tính
đến nội dung và tính chất của trò chơi đều gọi là TCHT. Hay nói cách khác
TCHT là dạng trò chơi có luật chặt chẽ mang tính định hướng đối với sự phát
triển trí tuệ.

TCHT thực hiện chức năng của hoạt động nhận thức, nó tạo điều kiện
cần thiết để ứng dụng, củng cố và luyện tập kiến thức trong các tiết học.
Mỗi dạng trò chơi đều có những đặc điểm và có tác dụng nhất định đối
với sự hình thành và phát triển tâm lí - nhân cách của trẻ em. Về phương diện
phát triển trí tuệ, TCHT có thế mạnh hơn cả. Nhiệm vụ giáo dục chủ yếu của
TCHT là phát triển trí tuệ cho trẻ em.
1.1.3.2. Mục đích của trò chơi học tập
TCHT không chỉ tác động đến việc phát triển trí tuệ mà còn giáo dục
được một số phẩm chất đạo đức của trẻ như: Tính thật thà, tính tổ chức, tính
tự lập trong khi chơi, luật chơi trực tiếp điều khiển hành vi của trẻ, trong các
TCHT cụ thể trẻ còn được giao tiếp với nhau, biết thống nhất hành động chơi
của mình với bạn, cũng chính trong trò chơi học tập trẻ học được cách đánh
giá và tự đánh giá kết quả đạt được bên cạnh đó TCHT còn giúp giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ, năng lực cảm thụ cái đẹp của đồ chơi, hình ghép, tranh ảnh,
màu sắc.
TCHT như một hình thức dạy học: Toàn bộ tiết học được lồng ghép vào
nội dung chơi mà trẻ tham gia với vai trò là chủ thể hoạt động nếu như trong
quá trình dạy học mối quan hệ giữa cô và trẻ là: cô dạy trẻ học thì trong
TCHT thì vai trò của cô như một người hướng dẫn và như một người tham

18


gia, cô cùng chơi với trẻ, dạy trẻ các thao tác chơi và thực hiện đúng luật chơi.
Từ đó, tạo cho trẻ những ấn tượng cảm xúc, bên cạnh đó giúp trẻ và cô trở
nên gần gũi nhau hơn.
Đối với trẻ mẫu giáo trò chơi học tập tác động trực tiếp đến việc cung
cấp, củng cố kiến thức và phát triển các quá trình nhận thức cho trẻ như: cảm
giác, tri giác. Qua đó, trí tuệ của trẻ phát triển hơn, trẻ dễ dàng tiếp thu các
kiến thức hơn.

Trong dạy học TCHT được sử dụng sẽ góp phần to lớn trong việc phát
triển các quá trình tri giác, cảm giác và các biểu tượng của trẻ mẫu giáo. Nhờ
có TCHT mà trẻ đã tiếp thu các tính chất của đồ vật như: hình dạng, kích
thước, màu sắc, định hướng trong không gian,… một cách dễ dàng hơn.
TCHT với nhiệm vụ nhận thức, hành động chơi, luật chơi được sử dụng
trong quá trình dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của trẻ. Nhờ có nội dung
và luật chơi mà trẻ rèn luyện được khả năng mô tả các mối quan hệ toán học
một cách chính xác bằng lời và biết gọi đúng tên.
1.1.3.3. Đặc điểm của trò chơi học tập
TCHT là một dạng hoạt động vì vậy nó mang trong mình những đặc
điểm chung của các loại hoạt động: có phương hướng, có mục đích, có ý thức
và có đặc điểm chung của trò chơi. Đặc điểm của trò chơi nói chung là mang
lại cảm xúc chân thực, mạnh mẽ, đa dạng. Trò chơi bao giờ cũng mang đến
cho trẻ em niềm vui sướng, thoả mãn, bằng lòng. Chơi mà không có niềm vui
sướng thì không còn là chơi nữa. Ngoài ra TCHT còn có những đặc điểm sau:
- TCHT có luật rõ ràng, do người lớn đặt ra nhằm đạt được mục đích giáo dục
và dạy học.
- TCHT bao giờ cũng có kết quả nhất định. Kết quả đó phải được thực
hiện trong việc giải quyết nhiệm vụ của TCHT, đồng thời phải mang lại niềm
vui, sự thoả mãn cho những người tham gia TCHT. Kết quả của TCHT thể

19


hiện sự cố gắng trong suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo trong việc nắm kiến thức và
trong tính hợp tác của nhóm trẻ.
- TCHT có cấu trúc chặt chẽ, bao gồm các yếu tố: Mục đích của TCHT
(Nhiệm vụ nhận thức); Hành động chơi; Luật chơi và tổ chức chơi.
+ Nhiệm vụ nhận thức: Đây chính là nhiệm vụ học tập, nó có tính chất
như một bài toán mà trẻ phải dựa trên những điều kiện đã cho. Nhiệm vụ nhận

thức là thành phần cơ bản của trò chơi học tập, nó khơi gợi hứng thú sinh
động của trẻ. Mỗi một trò chơi học tập có một nội dung nhận thức khác nhau,
chính điều đó làm cho trò chơi này khác với trò chơi kia.
+ Hành động chơi: Chính là các động tác mà trẻ cần phải làm trong lúc
chơi và nó cũng là thành phần quan trọng của TCHT, thiếu nó trò chơi không
thể tiến hành được. Hành động chơi bao gồm nhiều thao tác, chủ yếu là thao
tác trí óc, nhằm thực hiện cho được nhiệm vụ nhận thức mà trò chơi đặt ra
nhưng mặt khác lại phải tuân thủ theo những điều quy định mà luật chơi đề ra.
Hành động chơi càng phong phú bao nhiêu thì càng hấp dẫn trẻ hào hứng
tham gia trò chơi ấy bấy nhiêu, những trò chơi quá ít hành động chơi thì càng
ít thu hút trẻ.
+ Luật chơi: TCHT bao giờ cũng có luật chơi và luật chơi giữ một vai trò
quyết định, đó là những quy định có sẵn mà trẻ nhất định phải tuân thủ trong
khi chơi. Luật chơi quyết định trò chơi nếu phá vỡ chúng thì TCHT cũng bị
phá vỡ theo. Mỗi một trò chơi học tập đều có luật chơi do nội dung chơi quy
định. Có thể nói các luật chơi đã tạo nên cơ chế tự diều khiển hành vi của trẻ
trong khi chơi, trong luật còn bao hàm cả luật cấm mà nếu người chơi phạm
phải thì phải làm lại hoặc thua cuộc.
- Nhiệm vụ nhận thức, luật chơi và hành động chơi có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau. Nhiệm vụ nhận thức có vai trò quyết định, nó xác định đặc
điểm hành động chơi và luật chơi. Nhiệm vụ nhận thức và hành động chơi

20


làm thành nội dung chơi. Luật chơi quyết định hành động chơi và qua đó giải
quyết nhiệm vụ nhận thức, giúp trẻ hình thành biểu tượng về thế giới xung
quanh một cách đầy đủ , chính xác. Nếu thiếu một trong ba bộ phận thì không
thể tiến hành trò chơi được.
- Trong TCHT, vị trí của mọi thành viên tham gia trò chơi đều như nhau

và được xác định bằng luật chơi. Việc thực hiện luật chơi là tiêu chuẩn khách
quan để đánh giá khả năng của trẻ em.
- Trong TCHT, sự thống nhất giữa hành vi thật và hành vi chơi rõ ràng.
Trong quá trình chơi nếu trẻ không tuân thủ theo luật chơi thì sẽ không đạt
được mục đích của trò chơi. Vì thế trong TCHT, việc kiểm tra lẫn nhau dễ
dàng hơn và có hiệu quả hơn vì luật chơi được quy định rõ ràng.
- Trong TCHT luôn tồn tại mối quan hệ giữa cô và trẻ và giữa các trẻ với
nhau, quan hệ này do nhiệm vụ chơi, hành động chơi và luật chơi quy định cụ
thể. Cô giáo có thể là người tổ chức cho trẻ chơi và cũng có thể như một
người bạn tham gia chơi cùng trẻ. Cô giáo tổ chức TCHT cho trẻ, trò chơi phụ
thuộc vào cô giáo và đây cũng chính là đặc thù của nó.
1.1.3.4. Phương pháp và hình thức tổ chức trò chơi học tập
TCHT có ý nghĩa to lớn trong giáo dục trí tuệ và trong dạy học, muốn
đạt được kết quả cao thì phải hiểu rõ được việc hướng dẫn trò chơi, nó đòi hỏi
một nghệ thuật sư phạm cao thích ứng với độ tuổi cửa trẻ mẫu giáo. Để giải
quyết nhiện vụ học tập thông qua trò chơi và trong trò chơi, GV phải hướng
dẫn sao cho trò chơi trở thành một hoạt động thích thú, gần gũi với trẻ, tạo sự
hấp dẫn , hứng thú đối với trẻ. Để thực hiện và đạt kết quả tốt đối với TCHT
cần thực hiện các vấn đề sau:
- Lựa chọn trò chơi: Lựa chọn trò chơi là một công việc quan trọng,
mang tính quyết định trong việc tổ chức trò chơi học tập cho trẻ. Để lựa chọn
trò chơi học tập hợp lí, phù hợp với nhu cầu, khả năng, nguyện vọng của trẻ

21


và đáp ứng được nội dung giáo dục, thì GV phải xác định được mục đích, yêu
cầu của trò chơi, đồng thời xác định được đối tượng chơi thuộc độ tuổi nào để
lựa chọn trò chơi cho thích hợp.
- Chuẩn bị địa điểm và phương tiện chơi: Tùy từng trò chơi mà cô giáo

có thể xác định cho trẻ chơi trong lớp hoặc ngoài trời. Địa điểm vừa đủ cho số
người chơi và đáp ứng được nội dung chơi, không có chướng ngại vật nguy
hiểm, làm mất vệ sinh cho người chơi.
- Đồ dùng phục vụ cho trò chơi phải đảm bảo tính thẩm mĩ, an toàn cho
người chơi, lựa chọn đồ dùng đồ chơi phù hợp và hấp dẫn người chơi.
- Hướng dẫn trẻ chơi: GV phải giới thiệu tên trò chơi, cách chơi, luật
chơi cho trẻ, đối với những trò chơi mới GV phải có nhiều cách hướng dẫn
khác nhau. Nếu đó là trò chơi mới, hành động chơi phức tạp thì GV phải vừa
làm mẫu vừa hướng dẫn, nếu là trò chơi cũ trẻ đã được chơi thì GV gợi ý để
trẻ nhớ lại nội dung và hành động chơi, luật chơi. Cách hướng dẫn của cô phụ
thuộc vào độ tuổi.
- Tổ chức cho trẻ chơi: Sau khi hướng dẫn trẻ cách chơi cô tổ chức cho
trẻ chơi, cô tham gia chơi cùng trẻ như một thành viên của tập thể trẻ. Trong
khi trẻ chơi cô theo dõi quá trình chơi, để đảm bảo an toàn và xử lí kịp thời
các tình huống xảy ra, đồng thời giúp đỡ, khuyến khích động viên trẻ.
- Đánh giá và nhận xét sau khi chơi:
+ Nhận xét việc thực hiện và nắm vững luật chơi.
+ Nhận xét thành tích của trẻ trong trò chơi.
+ Nhận xét những quan hệ của trẻ trong nhóm chơi.
1.1.4. Trò chơi dạy đếm cho trẻ mẫu giáo
1.1.4.1. Quan niệm
Trò chơi dạy đếm (hay còn gọi là trò chơi toán học) là một loại trò chơi
nằm trong nhóm trò chơi có luật. Trò chơi dạy đếm là loại trò chơi có luật giúp

22


×