Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình tổ chức vui chơi cho trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.77 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Hồ Thị Hạnh

GIÁO TRÌNH

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CHO
TRẺ MẪU GIÁO
(Dùng cho học viên hệ đào tạo từ xa)

Nghệ An - 2011
1


LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI.
1. QUAN ĐIỂM HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI.
1.1.Quan niệm sinh vật hoá trò chơi.
- Ở lứa tuổi MN chơi chính là cuộc sống của trẻ. Đặc biệt là lứa tuổi MG, chơi là hoạt động
chủ đạo, trong khi chơi trẻ hoạt động sôi nổi, hết mình và chủ động như chính cuộc sống của
mình; Khi chơi trẻ thỏa sức suy nghĩ, tìm tòi, ước mơ, tưởng tượng hết sức phong phú như nào
là lái xe, nào là chữa bệnh, hay chú công nhân xây dựng…cái gì cũng có thể làm được. Một
cháu gái cũng có thể trở thành “nàng tiên”, “công chúa”, hay “lực sĩ”. Chính sự tưởng tượng
ngây thơ đó đã đem lại cho trẻ niềm vui vô bờ và đó thực sự là giây phút hạnh phúc nhất của
trẻ thơ. Người lớn cần nuôi dưỡng trí tưởng tượng ngây thơ này cho trẻ bằng trò chơi hấp dẫn
hay truyện cổ tích. Nếu thiếu trò chơi và truyện cổ tích thì đời sống TL của trẻ trở nên khô cằn,
khó mà phát triển bình thường được.
Vậy chơi là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về HĐVC của trẻ MN.
G. Spencer cho rằng: chơi chính là sự giải tỏa năng lượng dư thừa ở trẻ em giống như con vật
non. Những năng lượng dư thừa ở con vật không được sử dụng trong hoạt động thực nên đã
được tiêu khiển qua việc bắt chước hành động thực đó bằng trò chơi. ở trẻ em, trò chơi là sự


bắt chước bản thân và người lớn. Trong trò chơi những bản năng nghịch ngợm phá phách của
trẻ được đáp ứng.
Học thuyết sức dư thừa của Spencer có những khía cạnh được thừa nhận nhưng vẫn mâu thuẫn
với thực tiễn, bởi vì tham gia vào trò chơi không chỉ có những cháu khoẻ mạnh mà có cả
những cháu bệnh tật (sức khoẻ yếu). Chơi không chỉ có tiêu hao năng lượng dư thừa mà còn
có tác dụng khôi phục sức khoẻ cho trẻ. Sự dư thừa năng lượng chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện trò chơi chứ không phải nguyên nhân tạo ra trò chơi.
S.Freud cho rằng trò chơi trẻ em là hành vi bản năng tình dục. Những say mê, mong ước,
những biểu hiện bí ẩn của trẻ đều liên quan đến bản năng tình dục nhưng chúng không được
thể hiện trong cuộc sống của trẻ nên biểu hiện trong trò chơi.
Arian sumo Seipt dựa trên quan điểm của Freud cho ra đời thuyết trò chơi trị liệu. Bà cho rằng
chơi là phương tiện để làm bình thường hoá các quan hệ của trẻ với người lớn, với thực tế
xung quanh, xua tan nỗi bực tức, làm lành mọi tổn thương.
G. Piagie - TLH Thụy sĩ coi trò chơi là một trong những hoạt động trí tuệ, là một nhân tố quan
trọng đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ, tạo ra sự thích nghi của trẻ với môi trường.
* Tất cả các quan niệm trên dù có hạn chế, nhưng đều có đóng góp nhất định là khẳng định vai
trò của trò chơi đối với cuộc sống của con người, nhất là trẻ em.
1.2. Quan niệm của các nhà TLH- GDH phương Tây
Một số nhà GDH, TLH Phương Tây như Vallon, N. Khrixtencer cũng chỉ ra rằng, trò chơi của
trẻ là sự phản ánh cuộc sống, là hoạt động của chúng được quy định bởi những điều kiện XH.
Trẻ nhắc lại những ấn tượng đã được trải nghiệm vào trò chơi một cách có chọn lọc. Trò chơi
không phải là bất biến, nó phản ánh hiện thực xã hội luôn vận động và phát triển.
1.3.Các nhà GDH- TLH Mác xít coi trò chơi là một hoạt động đặc trưng của xã hội loài người,
phản ánh cuộc sống lao động, sinh hoạt của con người. Trò chơi của trẻ em không có nguồn
gốc sinh học mà có nguồn gốc xã hội, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác không theo
con đường giáo dục.
Theo G.V.Plêkhanốp, trò chơi là cầu nối các thế hệ với nhau, là phương tiện truyền tải thành
tựu văn hoá từ đời này sang đời khác.
2



Đ.B. Encônhin cùng quan điểm với Plêkhanốp cho rằng nhu cầu và sự ham hiểu biết thế giới
xung quanh chính là nguồn gốc động lực giúp trẻ tích cực hoạt động trong trò chơi. Trẻ có nhu
cầu chơi vì chúng mong muốn hiểu biết thêm về thế giới xung quanh.
Từ những quan niện trên, dưới góc độ lý thuyết hoạt động, ta có thể hiểu :
Chơi là một hoạt động mà động cơ của nó nằm trong quá trình chơi chứ ko phải nằm trong kết
quả của hoạt động, khi chơi, trẻ ko chú tâm vào một lợi ích thiết thực nào cả, trong trò chơi các
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và XH được mô phỏng lại, chơi mang lại cho trẻ
trạng thái tinh thần vui vẻ, phấn chấn, dễ chịu.
2. Đặc điểm hoạt động vui chơi của trẻ tuổi MN
Hoạt động vui chơi của trẻ em, đặc biệt là của trẻ MG có những đặc điểm sau :
+ HĐVC mang tính hồn nhiên, vô tư. Nghĩa là trong khi chơi trẻ ko chủ tâm nhằm tới một lợi
ích thiết thực nào cả. Cái thúc đẩy trẻ chơi chính là sự hấp dẫn của đồ chơi và bản thân quá
trình chơi chứ ko phải kết quả chơi. Trẻ chơi chỉ để vui, có vui thì mới chơi, vui là một thuộc
tính vốn có của chơi.
+ HĐVC là HĐ không mang tính bắt buộc mà mang tính tự do, tự nguyện, tự lập. Vì trò chơi
hấp dẫn trẻ, trẻ tự tạo ra nó, làm chủ được nó. Hơn nữa, do hành động chơi xuất hiện từ
nguyện vọng và hứng thú cá nhân chứ ko do sự áp đặt máy móc từ phía người lớn. Thể hiện,
tính tự chủ, tự lực trong khi chơi, trẻ tự làm hết mọi việc từ chọn trò chơi, bạn chơi đến việc
tìm kiếm đồ chơi, ngoài ra còn thể hiện ở sự điều chỉnh hành vi của mình khi chơi. Chính tính
độc lập và tự điều chỉnh hành vi đó ko chỉ tạo cho trẻ niềm vui sướng và lòng tự tin khi chơi
mà còn giúp trẻ phát huy được khả năng tự lập của mình trong cuộc sống sau này.
+ HĐVC là HĐ mang màu sắc xúc cảm chân thực, mạnh mẽ. Trò chơi đã tác động mạnh mẽ
và toàn diện đến trẻ, vì nó thâm nhập dễ dàng hơn cả vào thế giới tình cảm của trẻ, mà tình
cảm đối với trẻ là động cơ mạnh mẽ nhất. Dù biết trong trò chơi mọi cái đều là giả vờ, nhưng
tình cảm mà các em biểu hiện trong đó là tình cảm chân thực, hồn nhiên và thẳng thắn, ko
mang tính giả tạo.
M.X. Macarenco đánh giá: niềm vui trong trò chơi là niềm vui của sự sáng tạo, niềm
vui chiến thắng, niềm vui đẹp đẽ, niềm vui của những phẩm giá. Hơn nữa, khi chơi trẻ ko chỉ
trải nghiệm những xúc cảm, tình cảm tích cực mà còn cả những xúc cảm, tình cảm tiêu cực:

như nỗi buồn khi thất bại, sự giận hờn chưa thỏa mãn trước kết quả chơi. Tuy nhiên, trong
phần lớn trường hợp, trò chơi thường mang lại cho trẻ niềm vui, sự thoải mái, mãn nguyện.
+ Hoạt động vui chơi mang tính chất tượng trưng. Vì HĐVC của trẻ là mô phỏng lại cuộc sống
của con người, mô phỏng lại những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Trong
khi chơi, trẻ có thể dùng đồ vật thay thế tượng trưng cho vật thật, việc thật. chính sự mô phỏng
đó là điều kiện cần thiết giúp trẻ có được những hành động tự do, thoải mái, có niềm say mê
đến tận cùng với bao ước mơ ngộ nghĩnh và thú vị, làm nảy sinh trí tưởng tượng và chức năng
ký hiệu- tượng trưng, một chức năng TL cần thiết cho HĐHT và cuộc sống sau này.
+ HĐVC của trẻ mang tính sáng tạo. Tính sáng tạo được thể hiện rất đa dạng: trong việc lựa
chọn trò chơi, đồ chơi, nội dung chơi, hoàn cảnh chơi, cách chơi. Trẻ không bắt chước một
cách nguyên si hành động, cuộc sống của người lớn mà trẻ hành động, tỏ thái độ theo hứng
thú, ý muốn và cảm nhận của mình. Tính sáng tạo còn thể hiện rõ trong việc sử dụng vật thay
thế khi chơi.
+ Trò chơi của trẻ thay đổi theo lứa tuổi. Nếu ở lứa tuổi hài nhi, hành động chơi chưa thể hiện
rõ và thường xuất hiện sau những hành động mang tính ngẫu nhiên, tình cờ; Bước sang tuổi ấu
nhi hành động chơi thể hiện rõ hơn khi xuất hiện những hành động mang tính chủ động. Trẻ
hành động nhằm khám phá đối tượng đồ vật và bắt chước hành động của người lớn, sau đó mô
phỏng những hành động ấy trong khi chơi. Cuối tuổi ấu nhi trò chơi thao tác giả bộ xuất hiện.
Đến tuổi MG trò chơi ngày càng phong phú và hoàn thiện.
3. Nguồn gốc và bản chất của hoạt động vui chơi
3


Về nguồn gốc và bản chất của trò chơi có nhiều quan niệm khác nhau
3.1. Về nguồn gốc :
Năm 1925 G.V. Plekhanop cho rằng trò chơi là một nghệ thuật xuất hiện sau lao động và trên
cơ sở của LĐ. Sau đó, các nhà TLH Nga như L.X Vưgotxki, A.N. Leonchiep, Rubinstein
Đ.B. Enconhin phát triển đầy đủ hơn. Họ khẳng định rằng: chơi có nguồn gốc từ lao động và
chuẩn bị cho thế hệ trẻ đến với LĐ, nội dung chơi phản ánh hiện thực cuộc sống.
Theo Đ.B. Enconhin, lịch sử phát triển của trò chơi gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội

loài người và sự thay đổi vị trí của đứa trẻ trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Ông đồng
tình với quan điểm của Plêkhanốp rằng trong lịch sử xã hội thì lao động có trước và trò chơi
chính là hiện tượng xã hội, là phương tiện để trẻ làm quen với lao động của người lớn, song
thời nguyên thuỷ trò chơi không xuất hiện. Trò chơi xuất hiện khi công cụ lao động trở nên
phức tạp và xã hội có sự phân công lao động theo lứa tuổi. Khi đó trẻ em không thể tham gia
lao động cùng với người lớn, cũng không thể tham gia vào các mối quan hệ của người lớn như
thời nguyên thuỷ, lúc này người lớn làm đồ chơi cho trẻ giống như công cụ lao động. với đồ
chơi, trẻ không thể hành động giống như công cụ lao động mà chỉ có thể mô phỏng lại mà thôi.
Trò chơi ĐVTCĐ xuất hiện. Khi trẻ chơi trò chơi này chúng được thoả mãn nguyện vọng của
mình và vươn tới cuộc sống xã hội của người lớn, được hành động và đối xử như người lớn
thực sự.
Thực tế, lịch sử phát triển của mỗi cá nhân cho thấy, HĐVC xuất hiện trước hết do nhu cầu
được chơi của trẻ. Nhu cầu này được hình thành trong XH- nơi trẻ sinh sống. Nhờ được người
lớn hướng dẫn, trẻ được làm quen với phương thức hành động với đồ vật và phương thức giao
tiếp của loài người, vốn kinh nghiệm sống của trẻ ngày càng phong phú, nhờ đó nhu cầu tham
gia vào cuộc sống XH như người lớn được nảy sinh và thôi thúc trẻ. Song khả năng của trẻ còn
hạn chế chưa cho phép trẻ sống và làm việc như người lớn. Để giải quyết mâu thuẫn này, trẻ
tìm đến một phương thức để thỏa mãn nhu cầu này là dưới hình thức giả vờ: giả vờ bế em, giả
vờ tiêm, hay bán hàng, giả vờ lái xe… TCĐVTCĐ xuất hiện.
3.2. Bản chất của trò chơi
Theo quan điểm sinh vật hóa cho rằng trò chơi mang tính bản năng nhằm giải tỏa những năng
lượng dư thừa trong cơ thể hoặc giải tỏa những đam mê tình dục tuổi ấu thơ.
Theo quan điểm của các nhà TLH mác xít và các nhà TLH phương tây hiện đại thì khẳng định
rằng trò chơi của trẻ mang bản chất XH (thể hiện ở nguồn gốc xuất hiện của trò chơi, về chủ
đề, nội dung chơi và hình thức biểu hiện).
Bản chất XH của HĐ chơi còn biểu hiện bởi điều kiện mà mỗi xã hội tạo ra cho trẻ chơi.
Nhưng ko phải XH nào cũng tạo ra được ĐK đó. Một số trẻ em đã tham gia sớm vào công việc
gia đình, công việc nặng nhọc đã làm mất đi tuổi thơ và trò chơi của trẻ. Hơn nữa, nội dung
của trò chơi mang tính XH rõ nét như qua trò chơi của trẻ ta thấy dấu vết của XH- thời đại (trò
chơi ĐVTCĐ).

Như vậy, các trò chơi của trẻ em ở các dân tộc và ở mọi thời đại đều mang trong mình dấu ấn
sâu sắc về sự phát triển của XH. Khẳng định trò chơi mang bản chất XH cũng chính là khẳng
định tác động tích cực của người lớn đến trò chơi của trẻ.
KLSP: Trong khi để trẻ chơi một cách tự nhiên, chủ động, người lớn cũng cần hướng dẫn trẻ
chơi một cách có chủ đích, có phương hướng và có kế hoạch nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động chơi. tức là có thể sử dụng trò chơi như một phương tiện giáo dục quan trọng đối với trẻ.
4. ý nghĩa của hoạt động vui chơi.
4. 1.Chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ MN
Chơi là phương tiện giáo dục phát triển trí tuệ cho trẻ
Giúp trẻ mở rộng, củng cố, chính xác hóa những biểu tượng của trẻ về cuộc sống xung quanh.
Vì nội dung chơi là phản ánh thế giới xung quanh, nên khi tham gia chơi trẻ càng hiểu hơn về
cuộc sống xung quanh, làm chính xác hóa, phong phú hơn những điều trẻ đã lĩnh hội được.
4


VD trẻ có biểu tượng chính xác hơn về chức năng sử dụng một số đồ dùng sinh hoạt quen
thuộc: thìa để xúc cơm, cốc để uống nước; người bác sĩ thì phải làm gì, bế em thì phải thế
nào…Trong quá trình chơi, những tri thức mà trẻ nắm được trước đây bắt đầu tham gia vào
một số liên hệ mới và được điều khiển, vận dụng tri thức ấy trong những hành động chơi, thao
tác chơi: trẻ dùng thìa bón cơm cho búp bê, dùng khăn rửa mặt cho búp bê, đặt em ngủ, nựng
búp bê như mẹ đã chăm sóc em.
Chơi là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới. Thể hiện trong quá trình thực hiện các hành
động chơi, thao tác chơi, trẻ nhận ra được một vài thuộc tính, mối quan hệ nào đó của SV, HT.
VD trẻ hình dung ra được thế nào là to hơn, nhỏ hơn; thế nào là cao hơn, thấp hơn, gần hơn, xa
hơn… chính nhờ phát hiện ra những tri thức mới đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính tích cực
nhận thức của trẻ, thôi thúc trẻ tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo trong khi chơi.
Trò chơi là phương tiện phát triển các quá trình tâm lý, nhận thức cho trẻ như cảm giác, trí
giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng và ngôn ngữ. Vì khi tham gia vào trò chơi, các chuẩn cảm
giác về hình dạng, kích thước, màu sắc của trẻ được củng cố và chính xác hóa, nhờ đó trẻ dễ
dàng thực hiện hành động chơi, nội dung chơi (xếp được ngôi nhà hợp lý, phân loại đồ vật

theo màu sắc). Tính chủ định trong các quá trình TL được hình thành trong HĐ chơi.
+ Tư duy cũng được PT vì khi tham gia vào trò chơi, trẻ suy nghĩ về hành động chơi, thao tác
chơi ( làm bác sĩ thì phải làm gì? làm như thế nào?) sử dụng vật thay thế như thế nào? trẻ học
cách giải quyết nhiệm vụ, tìm kiếm phương tiện thích hợp nhất để thực hiện dự định đã đề ra.
Qua đó tư duy của trẻ được phát triển mạnh mẽ.
+ V/C còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Chơi là phương tiên giáo dục đạo đức cho trẻ
Trò chơi mà đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ ảnh hưởng mạnh đến nhận thức, thái độ và
hành vi đạo đức của trẻ. Hãy CM?
+ Khi tham gia vào trò chơi đứa trẻ trải nghiệm được những thái độ, tình cảm đạo đức
và tập được hành vi ứng xử với người xung quanh bằng cách nhập vai của mình, qua đó trẻ
học làm người.
+ Khi chơi trẻ thử sức hành động như người lớn, qua đó dần dần hình thành hành vi và
thái độ riêng cho bản thân; thực hiện hành động chơi phù hợp với quy tắc, chuẩn mực đạo đức
Xh của vai, VD như bác sĩ thì phải ân cần, niềm nở với bệnh nhân, phải thông cảm, chia sẻ với
bệnh nhân…
+ Trong quá trình chơi sau nhiều lần đóng vai, và đóng nhiều vai khác nhau, dần dần trẻ
nắm được quy tắc giao tiếp, ứng xử giữa người với người. Những tri thức về các biểu tượng
hành vi đạo đức mà trẻ đã lĩnh hội được dần dần được trẻ vận dụng vào trong các mối quan hệ
thực của đời sống như biết thương yêu em bé, biết vâng lời cô giáo…
+ Trong HĐ V/C, đặc biệt là trò chơi ĐVTCD, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, một số
phẩm chât cao quý được hình thành ở trẻ như tính thật thà, dũng cảm, tính chủ động, kiên trì,
đặc biệt là lòng nhân ái. Vì khi tham gia vào các MQH người – người trong trò chơi, những
rung động mang tính người được gợi lên ở trẻ. Hơn nữa, thái độ vui hay buồn còn phụ thuộc
vào hoàn cảnh tưởng tượng trong khi chơi. Do vậy, trong khi chơi đã thể hiện tình người.
Như vậy, chơi là một mắt xích nối liền giữa trẻ với quy tắc, chuẩn mực đạo đức Xh. Nó
giúp cho quá trình hình thành các phẩm chất đạo đức diễn ra tự nhiên, hiệu quả.
chơi là phương tiên giáo dục thể chất cho trẻ
- Vì sao? Vì chơi mang lại niềm vui cho trẻ, làm cho tình thần được sảng khoái- làm cho thể
lực phát triển tốt hơn.

+ Khi tham gia vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được vận động một cách tích cực, thúc
đẩy sự trao đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn máu…góp phần tăng cường sức khỏe
cho trẻ ( nhưng vận động đó phải hợp lý ko quá sức).
5


Lưu ý: khi lựa chọn trò chơi (đặc biệt là trò chơi vận động) cô cần lưu ý đến tư thế của trẻ và
nhiệm vụ chơi phải phù hợp với khả năng của trẻ.
+ Những trò chơi phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện
các vận động cơ bản như chạy, nhảy, leo… và góp phần rèn luyện chất thể lực như: nhanh,
mạnh, khéo, bền…
Chơi là phương tiên giáo dục thẫm mĩ cho trẻ
Cái đẹp mà trẻ cảm nhận được trong khi chơi là gì?
+ Trẻ cảm nhận được cái đẹp ở sự phong phú, đa dạng về màu sắc, hình dạng, kích
thước, âm thanh của đồ vật, đồ chơi.
+ Cảm nhận được vẻ đẹp trong hành vi, trong giao tiếp, ứng xử của các mối quan hệ
giữa người với người và giữa người với thế giới hiện thực.
Lưu ý: khi tổ chức vui chơi cho trẻ? Cô cần tạo ra môi trường tiện lợi, để hấp dẫn trẻ,
Trong đó yếu tố thẫm mỹ cần đặc biệt quan tâm, từ trang trí lớp, đến đồ chơi, đến cách cư xử,
đều cần làm sao cho đẹp để gợi lên ở trẻ những cảm xúc thẫm mỹ lành mạnh.
+ Trò chơi còn giúp trẻ hình thành nhu cầu sống theo cái đẹp, bảo vệ cái đẹp và làm ra
cái đẹp. Điều này thể hiện rõ nhất trong trò chơi XD-LG, TCĐVTCĐ.
Chơi là phương tiên giáo dục lao động cho trẻ.
Qua chơi giáo dục LĐ cho trẻ như thế nào?
Qua chơi trẻ nhận ra được biểu tượng về lao động, về ý nghĩa Xh và tính hợp tác của nó.
+ Hình thành cho trẻ một số KN lao động đơn giản như Kn tự phục vụ, KN trực nhật.
+ Qua chơi GD cho trẻ một số phẩm chất đạo đức cần thiết cho người LĐ như: tính mục đích,
tính sáng tạo, lòng yêu LĐ, thích LĐ.
KLSP: Nhà GD phải tạo ra môi trường thuận lợi để trẻ được chơi một cách chủ động, sáng tạo
và chơi hết mình. Đối với trẻ thơ chơi là cuộc sống của trẻ. tổ chức cho trẻ chơi là mang lại

hạnh phúc cho tuổi thơ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển tự nhiên nhất.
4.2.Chơi là hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở trường MN
Đối với trẻ MN, chơi chính là cuộc sống thực của trẻ. ở trường MN nếu trẻ ko được chơi thì
không khí sẽ rất nặng nề, lúc đó trường chỉ là nơi giữ trẻ, không phải là nơi CS-GD trẻ, hạnh
phúc của trẻ thơ bị tước đoạt, tâm hồn của trẻ thơ dần trở nên khô cứng. Vì sao vậy?
Vì chơi là HĐ đặc trưng của trẻ, nó có mặt trong tất cả các HĐ khác, như HĐ HT, HĐLĐ,
trong giao tiếp và trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Do vậy, việc tổ chức cho trẻ chơi vừa là
nhiệm vụ, vừa là con đường GD có hiệu quả cho trẻ.
Chơi là phương thức thỏa mãn nhu cầu được sống và được làm việc như người lớn. Trong mỗi
giờ chơi, mỗi trò chơi phản ánh một mảng của hiện thực đời sống XH: bệnh viện, trường học,
cửa hàng, bách hóa, công viên…Mỗi trẻ có vị trí nhất định trong nhóm chơi. Khi chơi, trẻ
khônh chỉ biết phối hợp với nhau trong nhóm chơi: người bán và người mua; giữa bác sĩ và
bệnh nhân, mà còn biết phối hợp với nhau giữa các nhóm chơi như người mua hàng có con ốm
nên phải đưa con đi gặp bác sĩ, rồi sau đó ghé qua cửa hàng mua sữa cho con… Sự phối hợp
giữa trẻ với nhau như vậy đã hình thành một “Xh trẻ em” trong khi chơi. Chính trong Xh đó,
trẻ thỏa sức hành động, được sống trong Xh người lớn thu nhỏ, được làm việc, nói năng, được
xưng hô như người lớn… Vì thế trẻ luôn là chủ thể tích cực. ở đây trẻ tìm thấy vị trí của mình
trong nhóm bạn bè, và cũng ở đây trẻ cảm thấy mình được tự do thoải mái và tự tin vào bản
thân hơn. Vì vậy, có thể nói “XH trẻ em” là hình thức đầu tiên giúp trẻ được sống và làm việc
cùng nhau, được sống cuộc sống của người lớn.
KLSP: Nhóm trẻ cùng chơi là một trong những cơ sở Xh đầu tiên của trẻ. Do đó, người lớn
cần tổ chức tốt các hoạt động vui chơi cho trẻ.
Người lớn phải chú ý tổ chức cho trẻ được chơi thoải mái, tạo môi trường, tình huống cho trẻ
phối hợp - liên kết với nhau trong các nhóm chơi và làm cho các nhóm chơi của trẻ thực sự là
một hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở trường MN.
6


4.3.Mối quan hệ qua lại giữa chơi và lao động, chơi và học tập, chơi và hoạt động nghệ thuật
của trẻ MN

* Mối quan hệ giữa chơi và lao động
Vui chơi và LĐ đều có sự cố gắng về thể lực và trí tuệ, nhưng giữa chúng có sự khác biệt nhau
căn bản:
LĐ tạo ra sản phẩm là giá trị vật chất và văn hóa, còn chơi không tạo ra sản phẩm đó nhưng
có quan hệ gián tiếp đến quá trình tạo ra sản phẩm ấy.
Ở lứa tuổi MG chơi và LĐ có MQH khăng khít với nhau, chi phối lẫn nhau, bổ sung cho nhau.
Thông qua chơi, trẻ học được một số kỹ năng cần thiết. Trong LĐ cũng nhuốm màu sắc của
HĐ V/C: HĐ LĐ của trẻ tổ chức nhẹ nhàng như là chơi, hoặc đưa yếu tố chơi vào HĐLĐ thì
trẻ sẽ LĐ sôi nổi, hiệu quả hơn. Mặt khác, những kỹ năng trẻ được luyện tập trong LĐ sẽ được
chuyển vào trong trò chơi, làm cho hành động chơi mang tính chất thật hơn, dưới sự hướng
dẫn của người lớn, trẻ biết tạo ra ra đồ chơi phục vụ cho trò chơi của mình thêm hấp dẫn.
Tóm lại: trong khi chơi trẻ lĩnh hội được những kỹ năng lao động đơn giản và khi LĐ của trẻ
được tổ chức dưới hình thức chơi, giúp cho trẻ LĐ tích cực hơn.
* Mối quan hệ giữa chơi và học tập
HĐVC và HĐHT cũng có MQH khăng khít, chi phối lẫn nhau, bổ sung cho nhau giống như
HĐLĐ.
Thông qua chơi, trẻ học tiếp nhận nền văn hóa XH, biến kinh nghiệm XHLS thành kinh
nghiệm của bản thân. Khi tham gia vào trò chơi, trẻ ko tự đặt ra mục đích là làm cho mình lĩnh
hội và phát triển cái gì. Những tri thức, kỹ năng mà trẻ lĩnh hội được qua trò chơi diễn ra một
cách tự nhiên (chơi mà học). Mặt khác, HĐHT của trẻ được nẩy sinh và phát triển trong lòng
HĐ chơi, nên nó mang màu sắc chơi rất rõ rệt; Học trong niềm vui được tham gia vào trò chơi
(học mà vui, vui mà học).
Như vậy, giữa chơi và học của trẻ có MQH khăng khít khó phân biệt.
+ Về phương diện kết quả thì đó là học tập.
+ Đứng về phương diện hoạt động thì coi đó là chơi. Bởi trong quá trình học tập trẻ
chưa ý thức đầy đủ mục đích học tập.Tức HĐHT của trẻ chưa có động cơ đích thực, mà do
động cơ chơi thúc đẩy
* KLSP: Để hoạt động học tập của trẻ có kết quả, cần biến đối tượng nhận thức của trẻ thành
động cơ chơi của chúng.
*Mối quan hệ giữa chơi và hoạt động nghệ thuật

Chơi và HĐ nghệ thuật của trẻ rất gần gũi với nhau. Ngôn ngữ, kỹ năng hoạt động
nghệ thuật được trẻ đưa vào trong trò chơi, giúp trẻ dễ dàng thực hiện được nội dung chơi,
hành động chơi.
Những lời ca, những câu nói giàu tính nghệ thuật mà trẻ tiếp nhận được trong các tác phẩm
thơ, truyện sẽ được trẻ sử dụng trong trò chơi, làm cho trò chơi trở nên hấp dẫn, vui nhộn.
Mặt khác, HĐ nghệ thuật của trẻ cũng diễn ra nhẹ nhàng như là chơi: Trẻ vừa đọc thơ,
kể chuyện vừa mô phỏng hành vi, việc làm của nhân vật theo nội dung thơ, truyện ( như trò
chơi đóng kịch). Đặc biệt, trò chơi lắp ghép- xây dựng được ra đời trên cơ sở của HĐ tạo hình
(vì các kĩ năng xây dựng trẻ có là nhờ HĐ tạo hình).
Thực tế cho thấy, việc dạy trẻ các ki năng xây dựng tạo điều kiện cho trẻ phát triển các
trò chơi của mình.
* Tóm lại, chơi có mối quan hệ chặt chẽ với HT, LĐ và tạo hình. Chính vì các mối quan hệ
này đã cuốn hút trẻ và tạo điều kiện cho sự phát triển chung của trẻ MG
5. Đồ chơi
5.1. Đặc điểm của đồ chơi
Đồ chơi là vật thay thế cho đồ vật thật, mô phỏng những đồ vật thật nên giúp trẻ thực
hiện những hành động chơi tương ứng với hành động thực.
7


Đồ chơi phản ánh nền văn hóa của mỗi dân tộc. XH phát triển thì đồ chơi cũng ngày
càng phát triển phong phú, tinh vi, hấp dẫn hơn. Đồ chơi mang tính hiện đại, tính toàn cầu.
Điển hình là loại đồ chơi cơ giới và điện tử.
Đồ chơi khác đồ vật ở những điểm nào?
Đồ chơi chỉ là mô tả một cách ước lệ và khái quát những vật dụng trong LĐSX và
trong sinh hoạt hàng ngày của XH. Do đó, ngoài việc dùng vào chơi, đồ chơi ko còn công
dụng nào khác.
+ Nhờ tính ước lệ và khái quát của đồ chơi mà nó trở nên linh hoạt, sinh động, phong phú về
chức năng sử dụng vào các trò chơi.
5.2.ý nghĩa của đồ chơi

Đồ chơi giúp cho trẻ thực hiện được các trò chơi, mà trò chơi chính là cuộc sống của trẻ
thơ. Đồ chơi xuất hiện như người bạn thân thiết của trẻ.
+ Đồ chơi giúp trẻ tạo ra hoàn cảnh chơi, nhập vào vai chơi, thực hiện và phối hợp những hành
động chơi, nhờ đó trẻ quen dần với thế giới đồ vật, nắm được đặc điểm, công dụng và phương
thức sử dụng của chúng.
+ Đồ chơi phát triển ở trẻ tính ham hiểu biết và năng lực trí tuệ.
+ Đồ chơi đáp ứng được tính tích cực vận động, giúp tăng cường sức khỏe cho trẻ.
+ Đồ chơi mang tính thẫm mỹ, gây cho trẻ cảm xúc thẫm mỹ, trí thông minh, tính hài hước, thị
hiếu thẫm mĩ.
+ Đồ chơi làm cho các cháu vui vẻ, sung sướng, khêu gợi ở chúng mối quan hệ tích cực với
môi trường xung quanh, tình thân ái đối với bạn bè, quan tâm đến mọi người, thể nghiệm được
những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Đặc biệt, trò chơi búp bê, có tác dụng khêu gợi thái độ tích
cực đối với đời sống của con người và tình yêu thương đồng loại.
+ Đồ chơi giúp trẻ phát triển các chức năng TL như: cảm giác, thị giác, thính giác, sự tập trung
chú ý, phát triển các cử động tinh khéo của đôi tay. Đó là nấc thang đầu tiên để sau này trẻ có
được những hành vi của con người.
5.3.Phân loại đồ chơi
Thế giới đồ chơi của trẻ vô cùng phong phú bao gồm nhiều loại:
5.3.1. Loại đồ chơi mang tính hình tượng: Là loại đồ chơi mang tính mô phỏng con người và
những gì trong cuộc sống thực như búp bê, đồ dùng trong gia đình. Loại đồ chơi này thường
được dùng trong trò chơi ĐVTCĐ.
.5.3.2. Loại đồ chơi kĩ thuật :Là loại đồ chơi giúp trẻ quen với những đồ vật mang tính kĩ thuật
máy móc, các phương tiện sinh hoạt. Nó bao gồm loại đồ chơi mô phỏng các loại phương tiện
giao thông vận tải có gắn động cơ hoặc ko như: máy điện thoại, rađio, tivi, ô tô…
5.3.3. Loại đồ chơi vật liệu lắp ghép xây dựng cơ bản Gồm 2 loại:
- Loại đồ chơi các hình học bằng gỗ hay nhựa hình vuông, tròn, tam giác, hình chữ nhật và các
hình khối theo các hình hình học đó giúp trẻ có thể xếp được thành các hình khối khác nhau (
như ngôi nhà, hình hoa, hình người hay những con vật).
- Loại đồ chơi dùng những vật liệu- kiến trúc, như mái nhà, vòm nhà, cánh cửa, hàng rào…
Ngoài ra, còn những vật liệu mang tính hình hình học cơ bản. Trẻ thường dùng chúng vào trò

chơi xây dựng một cách thuận tiện tùy vào chỗ chơi, tùy theo ý đồ chơi của trẻ.
5.3.4. Đồ chơi vận động.
5.3.5. Đồ chơi mang tính hài hước vui nhộn như mặt nạ, ông hề nhào lộn, thỏ đánh trống, khỉ
leo cây…Nó thường được dùng trong trò chơi đóng kịch hay múa rối.
5.3.6. Đồ chơi âm nhạc như lục lạc, kèn, mỏ, sáo , trống. Ngoài ra còn có đồ chơI phát ra tiếng
kêu của con vật như: chim hót, chó sủa, gà gáy…
5.3.7. Đồ chơi dân gian: Là loại đồ chơi mang tính dân tộc có trong nhân dân. Những đồ chơi
này thường do các nghệ nhân làm ra theo phong cách dân gian bằng các chất liệu dễ tìm trong
8


các làng như que, như tre, cọng rơm, cuống rạ, lá cây, rễ cây, hột hạt, vỏ sò, hến…( như búp
bê bằng gỗ, con giống bằng đất nặn..
5.3.8. Vật liệu chơi: Là những vật liệu phù hợp với trò chơi như đất nặn, trẻ có thể làm ra bánh
, con giống, hột hạt, vỏ sò, vỏ bia..
Ngày nay, các nước trên thế giới có ngành công nghệ sản xuất đồ chơi. Công nghệ đồ
chơi ngày càng được phát triển tinh xảo, mang tính khoa học kỹ thuật cao, điển hình là những
đồ chơi điện tử. Nó vừa có lợi và có hại. Một mặt nó vừa tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận được
với khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhưng mặt khác nó gây nên tác hại về thể chất lẫn tinh thần
nếu trẻ sử dụng quá nhiều (như mắt mờ, béo phì).
Tuy nhiên, việc khôi phục lại đồ chơi dân gian vẫn có ý nghĩa lớn đối với HĐVC của
trẻ. Vì đồ chơi này lưu giữ lâu bền nhất bản sắc dân tộc và có khả năng tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển toàn diện của trẻ.
* KLSP: Người lớn làm đồ chơi và Khuyến khích trẻ làm đồ chơi bằng các vật liệu trong
thiên nhiên (cọng rơm, hoa lá, hòn sỏi) hoặc những vật liệu có sẵn trong cuộc sống hàng ngày
như vỏ bao diêm, hộp bia, giấy… việc trẻ tạo ra đồ chơi giúp cho cuộc chơi thêm hào hứng,
say mê. Điều đó đặc biệt cần thiết đối với địa phương kinh phí còn nghèo nàn thì việc vận
động người lớn làm đồ chơi cho trẻ là cần thiết. Tất nhiên là trẻ ở đó rất cần những đồ chơi
được chế tạo bằng công nghệ tiên tiến. Ngược lại, trẻ ở đô thị cũng cần những đồ chơi làm
bằng vật liệu thiên nhiên và trong cuộc sống gần gũi với con người.

5.4. Một số yêu cầu đối với đồ chơi của trẻ
Đồ chơi của trẻ có thể ví như sách giáo khoa cho HS phổ thông. Đồ chơi chuẩn mực là một
điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả CS-GD trẻ. yêu cầu đồ chơi phải đảm bảo:
Mang ý nghĩa giáo dục
Phải phản ánh được những thuộc tính đặc trưng của đồ vật thật
Phải hấp dẫn trẻ
Phải đảm bảo vệ sinh và an toàn cho trẻ
5.5. Một số vấn đề hướng dẫn trẻ sử dụng đồ chơi
Phải lựa chọn đồ chơi phù hợp với thể loại trò chơi, với lứa tuổi của trẻ. Lứa tuổi ấu nhi đồ
chơi phải có màu sắc rực rỡ, có thể di chuyển, phát ra âm thanh, đơn giản, gần gũi để trẻ dễ
dàng thao tác với chúng. Đến tuổi MG, đồ chơi có thể phức tạp hơn, nhiều chi tiết hơn, nhiều
chức năng sử dụng nhằm phát triển chủ đề và nội dung chơi. Đồ chơi kĩ thuật, đồ chơi dụng cụ
thể thao, đồ chơi phản ánh sinh hoạt đa dạng, phong phú. Đồng thời, hướng dẫn trẻ tự làm đồ
chơi, biết giữ gìn, bảo quản đồ chơi, biết cất đồ chơi đúng nơi quy định.
6.Câu hỏi ôn tập
6.1.Nêu một số quan điểm về trò chơi. Đánh giá ưu, nhược điểm của các quan điểm đó.
6.2. Trình bày khái niệm, nguồn gốc và bản chất của hoạt động vui chơi.
6.3. Trình bày đặc điểm của hoạt động vui chơi.
6.4. Chứng minh rằng chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ em mầm non.
6.5. Trình bày cách hướng dẫn và sử dụng đồ chơi. Cho ví dụ minh hoạ.
CHƯƠNG II : PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN TRÒ CHƠI CHO TRẺ MẪU GIÁO
1. Trò chơi đóng vai theo chỦ đỀ
1.1. Những đặc điểm đặc trưng của trò chơi ĐVTCĐ
+ V/C ko mang tính chât bắt buộc
+ mang tính tự lập, tự chủ, tự nguyện
+ Chơi cùng nhau, phải biết hợp tác giữa các thành viên trong khi chơi
+ Trò chơi mang tính chất ký hiệu - tượng trưng
Đặc điểm đặc trưng làm cho trò chơi đóng vai khác hẳn với các trò chơi khác gồm các nét đặc
trưng sau;
9



*Chủ đề chơi : Là các mảng hiện thực được phản ánh vào trò chơi, nên nó mang tính chất
muôn màu, muôn vẻ.
Chủ đề sinh hoạt gia đình (trò chơi mẹ con, nấu ăn…). Chủ đề bán hàng (trò chơi cửa hàng
bách hóa), chủ đề giao thông vận tải (trò chơi chú lái xe), chủ đề trường học (trò chơi dạy
học..), chủ đề bệnh viện (trò chơi bác sĩ; phòng khám răng)
*Vai chơi:
Vai chơi là trẻ ướm mình vào vị trí của một người lớn nào đó và bắt chước hành động của họ
như là để thực hiện các chức XH
Vai chơi là yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi. Vai chơi luôn gắn liền với hành động chơi (
thực hiện một công việc nào đó mang tính chất nghề nghiệp như cô giáo- dạy học; bác sĩ khám bệnh; công nhân- xây dựng).
Đóng vai chính là con đường để trẻ thâm nhập vào cuộc sống của người lớn xung quanh.
Đóng vai là hành động chủ yếu của trò chơi. nếu trẻ ko biết đóng vai thì TCĐVCĐ ko thành
công. Qua nhiều lần chơi khả năng đóng vai của trẻ ngày một tốt hơn.
* TCĐVCĐ mang tính hợp tác.
Trò chơi này mô phỏng lại cuộc sống xung quanh của người lớn. HĐ của người lớn bao giờ
cũng mang tính hợp tác. Do vậy, để tiến hành trò chơi này phải có nhiều trẻ cùng tham gia,
cùng HĐ với nhau. Do vậy, một "XH trẻ em" được hình thành.
Bản chất của TC này là mô hình hóa những quan hệ XH mà trẻ chịu sự chi phối. Đó là những
MQH giữa những người lớn với nhau trong XH được trẻ em quan tâm và trở thành đối tượng
hành động của chúng ( mẹ - con ; cô giáo- học sinh).
Mỗi trò chơi có hai mặt: mặt thứ nhất là động cơ có tính chất XH, tức là “ý”; Mặt thứ hai là
mặt kỹ thuật (bao gồm các thao tác) tức là "nghĩa". Trò chơi ĐVTCĐ chủ yếu nhằm vào “ý”
tức là nhằm vào hình thành động cơ của trẻ được biểu hiện trong các MQH XH (dù chỉ là mô
phỏng); Còn mặt kỹ thuật ( những thao tác với đồ vật) chỉ là hỗ trợ cho mặt thứ nhất.
Nhờ có trò chơi này mà mỗi trẻ có cách nhìn mới về mình( ko còn nhìn mình một cách chủ
quan như hồi lên ba nữa), mà là người khác, như một nhân vật của đời sống XH. Tức là bằng
trò chơi ĐVTCĐ đứa trẻ đảm nhiệm các chức năng XH và tự biến mình thành một nhân cách
XH, một con người như mọi người (vì trẻ có thể đóng bất cứ vai nào).

ý nghĩa XH của ntrò chơi được thể hiện trong các quy tắc mà ai cũng phải tuân theo (những
quy tắc này được trẻ mô phỏng vào trò chơi), vd như mua hàng thì phải trả tiền, đi đ ường phải
đi bên phải, đèn đỏ thì phải dừng lại…Khi chơi trẻ tự nguyện chấp nhận những chuẩn mực của
đời sống XH trong các MQH: Người lớn với nhau và với trẻ em. Dần dần trẻ chuyển những
quan hệ XH khách quan vào trong nhân cách của mình, tạo ra sự trải nghiệm, tạo ra thế giới
nội tâm. Kết quả là tạo ra một cách nhìn nhận bản thân mình, tức tự ý thức (ý thức cá nhân)
hình thành- cốt lõi trong nhân cách mỗi người.
*Trò chơi ĐVTCĐ mang tính biểu trưng cao, đó là chức năng kí hiệu tương trưng của trò chơi
này.
Giả tượng trưng cho thật, thể hiện trong khi chơi mỗi trẻ tự nhận cho mình một vai và hành
động theo vai của mình nhưng tất cả những gì diễn ra trong trò chơi chỉ là giả vờ mà thôi. Từ
vai chơi, hành động chơi, đồ chơi đều là giả, đều mang ý nghĩa tượng trưng, nhưng lại rất thực
đối với trẻ vì nó phản ánh cái có thực đã xảy ra trong cuộc sống như vậy (mẹ- con, mẹ ru con,
cho con ăn, ngủ, chơi với con…). Sự kiện đó đã cho ra đời chức năng mới của ý thức: đó là
chức năng ký hiệu- tượng trưng. từ đây trẻ có thêm một loại hình mới để nhận thức hiện thực,
đó là nhận thức hiện thực thông qua hệ thống ký hiệu. Nó là loại hình nhận thức đặc trưng của
con người.
Các chức năng kí hiệu mà trẻ sử dụng trong TCĐVTCĐ
Gồm 3bachức năng ký hiệu:
10



×