Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Hoan thien cong tac kiem soat chi thuong xuyen qua kho bac nha nuoc kien xuong thai binh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.51 KB, 108 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế của
đất nước, công tác quản lý quỹ ngân sách Nhà nước (NSNN) đã có những
đổi mới cơ bản và từng bước hoàn thiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế, giải quyết được các vấn đề bức thiết về kinh tế - xã hội
(KT-XH). Với nhiệm vụ được giao, Kho bạc Nhà nước (KBNN) huyện
Kiến Xương - KBNN Thái Bình luôn thực hiện tốt việc quản lý, kiểm soát
chi (KSC) thường xuyên NSNN; thông qua công tác kiểm soát chi thường
xuyên NSNN, đã giúp cho các đơn vị sử dụng NSNN quản lý và sử dụng
kinh phí một cách tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích. Kết quả công tác
kiểm soát chi đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng kinh phí
của các đơn vị sử dụng NSNN.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn tình trạng sử dụng
NSNN kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát; các khoản chi thường xuyên còn
chi vượt dự toán đầu năm nên việc bổ sung, điều chỉnh dự toán xẩy ra
thường xuyên; cơ chế quản lý chi NSNN trên địa bàn đôi lúc còn bị động,
thiếu kiểm soát, nhiều vấn đề cấp bách chưa được xử lý kịp thời, thích
đáng; công tác điều hành NSNN trên địa bàn còn nhiều bất cập; vai trò quản
lý quỹ NSNN của KBNN huyện Kiến Xương – KBNN Thái Bình chưa
được coi trọng đúng mức; năng lực kiểm soát chi NSNN qua KBNN trên
địa bàn còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại. Vì vậy tăng cường công tác KSC
thường xuyên NSNN qua KBNN là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và
cần được thực hiện một cách kịp thời, khoa học, có hệ thống.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó tác giả chọn đề tài: “Kiểm soát chi
thường xuyên ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Kiến Xương Kho Bạc Nhà Nước Tỉnh Thái Bình”.
Với mong muốn có một sự đóng góp thiết thực nhằm nâng cao hiệu
quả công tác KSC thường xuyên NSNN trên địa bàn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài




2
Luận văn hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát chi
thường xuyên NSNN qua KBNN; Phân tích thực tiễn kiểm soát chi thường
xuyên NSNN qua KBNN huyện Kiến Xương – KBNN Tỉnh Thái Bình. Từ đó
rút ra những tồn tại, bất cập và đề xuất phương hướng, giải pháp, kiến nghị có
tính thực tiễn và khoa học, chủ yếu cùng các điều kiện thực hiện nhằm tăng
cường kiểm soát chi thường xuyên NSNN tại KBNN huyện Kiến Xương
KBNN tỉnh Thái Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác kiểm soát chi thường xuyên
ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước huyện Kiến Xương – Kho Bạc
Nhà Nước Tỉnh Thái Bình.
+ Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu về kiểm soát chi
thường xuyên NSNN.
- Phần thực trạng công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Kiến
Xương sẽ lấy số liệu và thực tế công tác KSC tại KBNN Kiến Xương. Trong
khoảng thời gian tính từ năm 2008 đến năm 2013.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về ý nghĩa khoa học, Luận văn làm rõ những vẫn đề lý luận cơ bản về
kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN huyện Kiến Xương KBNN
tỉnh Thái Bình.
Về ý nghĩa thực tiễn, Luận văn phân tích và đưa ra những giải pháp
hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN tại KBNN huyện Kiến
Xương KBNN tỉnh Thái Bình, từ đó giúp các nhà quản lý nhìn nhận đúng về
kiểm soát và vận dụng vào quản lý chi NSNN.
5. Kết cấu của Luận văn



3
Tên Luận văn: “Kiểm soát chi thường xuyên ngân sách Nhà nước
tại Kho bạc Nhà nước huyện Kiến Xương KBNN tỉnh Thái Bình”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung của Luận văn được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát chi thường xuyên
ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Việt Nam;
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách
Nhà nước tại Kho bạc Nhà nước huyện Kiến Xương KBNN tỉnh Thái Bình;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát
chi thường xuyên ngân sách Nhà nước tại Kho bạc Nhà nước huyện Kiến
Xương KBNN tỉnh Thái Bình.


4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM
SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA
KHO BẠC NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
1.1. Ngân sách Nhà nước, quản lý chi ngân sách Nhà nước với công tác
kiểm soát chi thường xuyên ngân sách Nhà nước.
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách Nhà nước
Luật ngân sách Nhà nước (01/2002/QH11) thông qua tại kỳ họp thứ 2
Quốc Hội khóa 11, ngày 16/12/2002 định nghĩa: “Ngân sách Nhà nước là
toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một năm nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước”.

Về bản chất NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước
và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn
Tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều
hành nền kinh tế - xã hội của mình.
1.1.1.2. Phân cấp ngân sách Nhà nước
Hệ thống NSNN ở nước ta được tổ chức gắn liền với cơ cấu tổ chức bộ
máy Nhà nước. Theo quy định của pháp luật, mỗi cấp chính quyền có ngân
sách riêng. Do đó, gắn với bốn cấp chính quyền, ngân sách cũng được tổ chức
thành bốn cấp tương ứng, bao gồm: ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; ngân sách huyện, quận, thị xã; ngân sách
xã, phường, thị trấn.
Ngân sách Trung ương quản lý thu, chi theo ngành kinh tế, nó luôn giữ
vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Ngân sách Trung ương cấp phát kinh
phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước Trung


5
ương. Trên thực tế ngân sách Trung ương là ngân sách của cả nước, tập trung
đại bộ phận nguồn thu và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu mang tính quốc gia.
Ngân sách địa phương quản lý thu NSNN trên địa bàn và chi NSNN địa
phương. Hội đồng nhân dân (HĐND) Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương
(gọi chung là NSNN cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ
chi giữa các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.
Quan hệ giữa các cấp ngân sách trong hệ thống NSNN được thực hiện
theo các nguyên tắc sau:
Ngân sách Trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương
được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể;
Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách của chính quyền Nhà nước cấp
trên cho ngân sách của chính quyền Nhà nước cấp dưới nhằm đảm bảo sự

công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng lãnh thổ, các địa phương. Số bổ
sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới;
Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan
quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình
thì phải chuyền kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực
hiện nhiệm vụ chi đó (kinh phí uỷ quyền)
Không được dùng ngân sách của cấp này chi cho nhiệm vụ của ngân
sách cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.
1.1.1.3. Chu trình ngân sách Nhà nước
Chu trình NSNN được hiểu là một vòng tròn khép kín lặp đi lặp lại,
liên quan đến nhiều chủ thể và khách thể quản lý từ khi lập dự toán, chấp
hành cho đến khi quyết toán NSNN.
a) Lập dự toán chi ngân sách Nhà nước


6
Lập dự toán là việc các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm thu - chi ngân
sách phải tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách trong nhiệm vụ được giao và
gửi cơ quan Tài chính cùng cấp, cơ quan Tài chính xem xét tổng hợp, lập dự
toán trình Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp, UBND có trách nhiệm kiểm
tra, xem xét dự toán ngân sách của cấp mình trình HĐND cùng cấp quyết
định và báo cáo cơ quan Tài chính cấp trên trực tiếp.
Dự toán NSNN sau khi được Quốc hội phê chuẩn trở thành các chỉ tiêu
pháp lệnh, các cơ quan Nhà nước, các đơn vị dự toán ngân sách các cấp khi
nhận được số phân bổ về ngân sách có trách nhiệm giao nhiệm vụ cho các
đơn vị dự toán trực thuộc bảo đảm đúng với dự toán ngân sách được phê
duyệt, không một tổ chức, cá nhân nào được thay đổi nhiệm vụ ngân sách đã
được phân bổ khi chưa có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền.
Lập dự toán là công việc ban đầu rất quan trọng, đặt cơ sở nền tảng và
có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của toàn bộ các khâu trong

chu trình NSNN. Một dự toán NSNN đúng đắn, có cơ sở khoa học và cơ sở
thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, đối
với việc đảm bảo cân đối về tài chính, ngân sách; đồng thời cũng tạo điều
kiện thuận lợi rất lớn cho các khâu tiếp theo, đặc biệt là khâu chấp hành
NSNN.
b) Chấp hành ngân sách Nhà nước
Sau khi được giao kế hoạch ngân sách, các cơ quan Nhà nước ở Trung
ương và địa phương có trách nhiệm phân bổ dự toán ngân sách được giao cho
các đơn vị sử dụng ngân sách đúng với dự toán được giao kể cả về tổng mức
chi và chi tiết, đồng thời thông báo cho cơ quan Tài chính cùng cấp và KBNN
nơi giao dịch để theo dõi, cấp phát và quản lý.
Thu NSNN do ngành thuế, hải quan, tài chính và cơ quan khác được Bộ
Tài chính uỷ quyền thu.


7
Căn cứ vào nhiệm vụ thu cả năm được giao và các nguồn thu dự kiến
phát sinh trong quý, cơ quan thu lập dự toán thu ngân sách từng quý, phải chia
theo từng khu vực kinh tế, địa bàn và các đối tượng thu chủ yếu và hình thức
thu gửi cơ quan Tài chính đồng cấp.
Chi NSNN : Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm được giao và dự toán
ngân sách quý, căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi, KBNN tiến hành
thanh toán, chi trả cho các đơn vị dự toán.
Đơn vị dự toán các cấp lập dự toán chi ngân sách gửi cơ quan cấp trên,
cơ quan quản lý tổng hợp gửi cơ quan Tài chính. Căn cứ vào dự toán ngân
sách quý, tháng KBNN xem xét kế hoạch chi và khả năng ngân sách để bố trí
mức chi.
Chủ tài khoản căn cứ vào dự toán chi được duyệt ra lệnh chuẩn chi kèm
theo hồ sơ thanh toán gửi KBNN nơi giao dịch. KBNN kiểm tra hồ sơ và lệnh
chuẩn chi của chủ tài khoản thực hiện việc thanh toán, chi trả.

Như vậy, chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp
kinh tế - tài chính và hành chính nhằm hiện thực hoá các chỉ tiêu ghi trong dự
toán NSNN năm. Nội dung của quá trình này là việc bố trí NSNN cho các nhu
cầu đã được phê chuẩn. Cũng trong quá trình này, những cơ quan quản lý Nhà
nước được pháp luật quy định có trách nhiệm kiểm soát mọi khoản chi NSNN
đảm bảo đúng dự toán, đúng chế độ hiện hành của Nhà nước. Thực chất của
quá trình chấp hành NSNN trong chu trình NSNN là tổ chức thu NSNN, cấp
phát và sử dụng kinh phí NSNN sao cho đúng mục đích và có hiệu quả.
c) Quyết toán NSNN
Là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý NSNN. Nó bao gồm các
công việc lập, tổng hợp báo cáo quyết toán, phân tích, đánh giá các khoản thu,
chi đã thực hiện trong năm. Quyết toán thu, chi NSNN được thực hiện theo
phương pháp từ cơ sở, tổng hợp từ dưới lên trên và phải được Quốc hội và
HĐND các cấp phê chuẩn. Đó cũng chính là sự tổng kết tình hình thực hiện


8
các khoản thu, chi của năm trước, thông qua đó có thể thấy được hoạt động
kinh tế - xã hội của Nhà nước trong năm ngân sách, thấy được hoạt động
NSNN với tư cách là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Từ đó, rút ra
những kinh nghiệm cần thiết cho việc điều hành chi NSNN trong những năm
sau.
1.1.2. Quản lý chi ngân sách Nhà nước, đối tượng, mục tiêu quản lý chi
NSNN
1.1.2.1. Khái niệm quản lý chi ngân sách Nhà nước
Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhằm thực
hiện các nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Chi NSNN có quy mô và
mức độ rộng lớn, bao trùm nhiều lĩnh vực, địa phương và các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
Quản lý chi NSNN là quá trình Nhà nước vận dụng các quy luật khách

quan, sử dụng hệ thống các phương pháp tác động đến các hoạt động chi
NSNN nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chức năng mà Nhà nước
đảm nhận.
Đối tượng của quản lý chi NSNN là toàn bộ các khoản chi của NSNN
được bố trí để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Quản lý chi NSNN là sự liên kết hữu cơ giữa Nhà nước với tư cách là
chủ thể quản lý với khách thể quản lý là các đơn vị sử dụng NSNN.
Tác động của quản lý chi NSNN mang tính tổng hợp, hệ thống bao
gồm nhiều biện pháp khác nhau, được biểu hiện dưới dạng cơ chế quản lý.
Cơ sở của quản lý chi NSNN là sự vận dụng các quy luật kinh tế - xã
hội phù hợp với thực tiễn khách quan.
Mục tiêu của quản lý chi NSNN là với một số tiền nhất định được sử
dụng sẽ đem lại hiệu quả cao nhất về kinh tế - xã hội. Đồng thời giải quyết hài


9
hoà mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa một bên là Nhà nước và một bên là
các chủ thể khác trong xã hội.
1.1.2.2. Nội dung và phân loại chi ngân sách Nhà nước
Cơ cấu chi NSNN được hiểu là hệ thống các khoản chi NSNN bao gồm
các khoản chi và tỷ trọng của nó trong tổng số chi NSNN. Nhằm phân tích,
đánh giá, định hướng chi và đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý đã
được xác định trước, người ta tiến hành phân loại chi theo nhiều tiêu thức
khác nhau.
Có nhiều tiêu thức để phân loại các khoản chi NSNN như:
Theo nội dung kinh tế: các khoản chi NSNN được chia thành 04 nhóm
là: Chi thường xuyên, Chi đầu tư phát triển, Chi cho vay hỗ trợ quỹ và tham
gia góp vốn của Chính phủ và Chi trả nợ gốc các khoản vay của Nhà nước.
Theo tổ chức hành chính: các khoản chi NSNN được phân loại theo các

Bộ, Cục, Sở hoặc cơ quan, đơn vị thụ hưởng kinh phí NSNN theo cấp quản lý
Trung ương, tỉnh, huyện, xã.
Theo tính chất pháp lý thì chi NSNN được chia thành: các khoản chi
theo luật định, các khoản chi đã được cam kết, các khoản chi có thể điều
chỉnh…
Ngoài ra còn phân loại theo ngành kinh tế quốc dân, theo đơn vị dự
toán các cấp…
Trong quản lý NSNN hiện nay, người ta chủ yếu phân loại các khoản
chi NSNN theo nội dung kinh tế và trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, em
chỉ xin đề cập đến nội dung Chi thường xuyên NSNN.
1.1.2.3. Đặc điểm quản lý chi ngân sách Nhà nước
Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh mà ở mỗi quốc gia có một cơ chế quản
lý chi NSNN riêng. Nhưng có thể nhận thấy cơ chế quản lý chi có một số đặc
điểm chủ yếu sau:


10
Một là, chi NSNN được quản lý bằng pháp luật. Mọi Nhà nước đều
quản lý chi NSNN bằng luật. Đây là đặc điểm quan trọng, nhìn nhận và đánh
giá đúng đặc điểm này sẽ giúp Nhà nước và các cơ quan chức năng đưa ra các
cơ chế, chính sách quản lý và điều hành chi đúng luật, đảm bảo tính hiệu quả
và công khai.
Hai là, quản lý chi NSNN sử dụng tổng hợp các biện pháp, nhưng quan
trọng nhất là biện pháp hành chính - tổ chức. Biện pháp này tác động vào đối
tượng quản lý theo 2 hướng:
- Thứ nhất, Nhà nước tác động trực tiếp đối với các chủ thể sử dụng
nguồn lực NSNN bằng việc ra các mệnh lệnh hành chính bắt buộc đảm bảo sự
tuân thủ một cách vô điều kiện.
- Thứ hai, cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định biện pháp tổ chức, sắp xếp, bố trí các hoạt động chi

NSNN vào những khuôn mẫu đã được định hình.
Biện pháp hành chính - tổ chức đảm bảo tính thống nhất, tính chỉ huy,
quyền lực của Nhà nước trong quản lý chi NSNN. Đặc điểm này thể hiện rõ
nét trong cơ chế quản lý chi NSNN ở Việt Nam. NSNN Việt Nam là ngân
sách được quản lý tập trung thống nhất, đảm bảo quyền quyết định của Quốc
hội và sự điều hành thống nhất của Chính phủ đối với NSNN; đồng thời có
phân công, phân cấp quản lý, tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa
phương.
Hiệu quả của công tác quản lý chi NSNN khó đo được bằng các chỉ tiêu
định lượng. Trong nhiều trường hợp kết quả của các khoản chi NSNN đem lại
có thể lượng hoá được. Nhưng đối với kết quả của công tác quản lý chi
NSNN lại rất trừu tượng và khó định lượng. Ví dụ, chất lượng của dự toán
NSNN, chất lượng của công tác kiểm soát chi... Tuy nhiên, hiệu quả công tác
quản lý chi NSNN sẽ góp phần quyết định đến hiệu quả của các khoản chi


11
NSNN. Vì vậy, khi xem xét hiệu quả công tác quản lý chi NSNN đòi hỏi
chúng ta phải có quan điểm biện chứng, quan điểm toàn diện.
1.1.3. Kiểm tra, kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước
Đối với khâu lập dự toán, kiểm tra NSNN là việc xem xét lại các dự
báo, đánh giá số liệu dự toán của các đơn vị lập đảm bảo phù hợp với thực
tế phát sinh, với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị hoặc của từng cấp từng
ngành.
Đối với khâu chấp hành NSNN, là việc kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quản lý chi NSNN, đối chiếu việc chấp hành NSNN với các tiêu
chuẩn định mức của cấp có thẩm quyền phê duyệt, phải có trong dự toán
NSNN, đảm bảo đúng chế độ Nhà Nước quy định, đúng luật NSNN.
Đối với khâu quyết toán chi NSNN, là việc xem xét đánh giá sự đúng
đắn, tính chính xác của các loại báo cáo tổng hợp, từ đó đưa ra các kết luận.

1.2. Kiểm soát chi thường xuyên ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà
nước
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của kiểm soát quản lý
1.2.1.1. Khái niệm kiểm soát quản lý
Kiểm soát là quá trình đo lường, đánh giá và tác động lên đối tượng
kiểm soát nhằm bảo đảm mục tiêu, kế hoạch của tổ chức được thực hiện một
cách có hiệu quả.
Kiểm soát quản lý là quá trình trong đó chủ thể kiểm soát (các nhà quản
lý) tác động lên các thành viên của đơn vị hay tổ chức để thực hiện các kế
hoạch, mục tiêu của tổ chức đó. Hệ thống kiểm soát quản lý là một hệ thống
thu thập và sử dụng thông tin thu thập để đánh giá hoạt động của những
nguồn lực khác nhau trong tổ chức nguồn nhân lực, nguồn tài lực và toàn bộ
tổ chức nhằm xem xét về chiến lược của tổ chức.
1.2.1.2. Đặc điểm của kiểm soát quản lý
Đối tượng của kiểm soát quản lý trong các đơn vị sử dụng NSNN là
việc thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ của các đơn vị, các tổ chức hay cá


12
nhân có sử dụng NSNN. Chủ thể kiểm soát là người đứng đầu đơn vị, tổ chức
và các cấp quản lý khác nhau trong đơn vị hay tổ chức đó.
Quy trình kiểm soát quản lý được thực hiện theo quy trình kiểm soát
quản lý chung như trong doanh nghiệp: bắt đầu từ lập kế hoạch, lập dự toán
hoạt động, phân tích đánh giá kết quả hoạt động, khen thưởng đãi ngộ với các
đơn vị và cá nhân trong tổ chức.
Kế hoạch trong một cơ quan Chính phủ thường lập cho 5 năm, liên
quan đến nhiệm kỳ hoạt động của bộ máy Nhà nước. Kế hoạch 5 năm cụ thể
hoá các chiến lược (10 năm đến 20 năm) và quy hoạch phát triển (10 năm).
Kế hoạch 5 năm là cơ sở để xác định kế hoạch hàng năm. Kế hoạch 5 năm
thường được xây dựng vào quý II, quý III năm trước của thời kỳ 5 năm sau.

Kế hoạch hàng năm cùng với dự toán hoạt động thường được các bộ, ngành
địa phương, tập đoàn kinh tế xây dựng vào tháng 6 và tháng 7 năm trước sau
khi Bộ Kế hoạch và Bộ Tài chính hướng dẫn khung kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội và dự toán NSNN vào đầu tháng 6. Trước ngày 25 tháng 11 Bộ Kế
hoạch & đầu tư và Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết cho các bộ ngành địa
phương và tập đoàn kinh tế Nhà nước trên cơ sở đó, các đơn vị này quyết
định trước ngày 10 tháng 12 phương án phân bổ kế hoạch và dự toán ngân
sách cho cấp dưới theo nhiệm vụ Thủ tướng chính phủ giao.
Dự toán trong đơn vị Nhà nước khác với dự toán trong doanh nghiệp
dưới giác độ các khoản chi tiêu của đơn vị sử dụng NSNN được xây dựng
theo định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Về đo lường và đánh giá kết quả, do các đơn vị sử dụng NSNN cung
cấp dịch vụ không có tính cạch tranh nên khó được lượng hoá và khó đo
lường kết quả theo các biện pháp thông thường như trong doanh nghiệp. Việc
đánh giá kết quả cần gắn với mục tiêu của đơn vị, nhưng việc lượng hoá các
mục tiêu trong nhiều trường hợp không đơn giản. Bên cạnh đó, việc cung cấp
dịch vụ thường là kết quả của sự tham gia đồng thời của nhà cung cấp dịch vụ


13
và người sử dụng dịch vụ, nên khó xác định được sự đóng góp của mỗi bên
vào quá trình cung ứng dịch vụ. Trong phân tích và đánh giá kết quả hoạt
động của các đơn vị sử dụng NSNN có sử dụng chỉ tiêu tài chính và phi tài
chính, trong đó chỉ tiêu phi tài chính được chú trọng hơn.
Khen thưởng và đãi ngộ trong đơn vị sử dụng NSNN cũng được thực
hiện theo hai hình thức là vật chất và phi vật chất. Tuy nhiên, chính sách khen
thưởng và đãi ngộ trong đơn vị sử dụng NSNN có một số điểm khác biệt với
trong doanh nghiệp. Điểm khác biệt thứ nhất là khen thưởng phi vật chất là
hình thức chủ yếu trong đơn vị sử dụng ngân sách, trong khi đó doanh nghiệp
sử dụng chủ yếu hình thức khen thưởng vật chất. Điểm khác biệt thứ hai là

hình thức khen thưởng tập thể. Sự khác biệt thứ ba là tính kịp thời trong khen
thưởng (khen thưởng và đãi ngộ trong đơn vị sử dụng NSNN thường chậm
hơn chứ không diễn ra ngay như trong doanh nghiệp).
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm kiểm soát chi thường xuyên ngân sách Nhà
nước qua Kho bạc Nhà nước
1.2.2.1. Khái niệm kiểm soát chi thường xuyên
Chi thường xuyên của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn
NSNN để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn liền với thực hiện các nhiệm vụ
của Nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp và dịch vụ công cộng khác mà
Nhà nước vẫn phải cung ứng.
Công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN: Là quá trình
KBNN thực hiện thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi thường
xuyên NSNN của các đối tượng sử dụng NSNN phù hợp với các chính sách,
chế độ, định mức chi tiêu do nhà nước quy định, theo những nguyên tắc,
hình thức và phương pháp quản lý tài chính trong quá trình cấp phát và
thanh toán các khoản chi thường xuyên NSNN.
1.2.2.2. Sự cần thiết thực hiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách Nhà
nước qua Kho bạc Nhà nước


14
Thứ nhất: Quỹ NSNN được hình thành chủ yếu từ tiền thuế của dân và
khai thác tài nguyên quốc gia, ngoài ra còn có các khoản viện trợ (hoàn lại và
không hoàn lại) do đó cần phải tổ chức quản lý chi NSNN một cách phân
minh, tiết kiệm và thận trọng để phát huy hiệu quả của NSNN và tránh gánh
nặng nợ nần cho thế hệ sau. Đặc biệt, về phương diện tài chính, kiểm soát chi
NSNN là điều cần thiết, vì quy mô chi tiêu NSNN rất lớn, có ảnh hưởng đến
toàn bộ các vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước; Mặt khác, lợi ích của các
khoản chi NSNN mang lại thường ít gắn liền với lợi ích cụ thể, cục bộ dẫn
đến sự quan tâm của người sử dụng vốn NSNN phần nào bị hạn chế, do đó,

kiểm soát chi NSNN nói chung và kiểm soát chi thường xuyên nói riêng sẽ
hạn chế việc chi tiêu sai mục đích, lãng phí, nâng cao hiệu quả của chi tiêu
NSNN đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Thứ hai: Xuất phát từ chính nguyên tắc quản lý NSNN là “đảm bảo
trách nhiệm”, do đó cần phải phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản
lý NSNN đối với hoạt động thu - chi NSNN, qua đó nâng cao trách nhiệm,
cũng như phát huy được vai trò của các ngành, các cấp, các đơn vị, cơ quan
liên quan đến công tác quản lý và sử dụng quỹ NSNN, trong kiểm soát chi
thường xuyên NSNN là một khâu không thể tách rời trong quy trình quản lý
NSNN để đảm bảo tính trách nhiệm trong quá trình phân phối, sử dụng quỹ
NSNN.
Thứ ba: Xuất phát từ yêu cầu nội tại của công cuộc đổi mới về cơ chế
quản lý tài chính nói chung và đổi mới cơ chế quản lý NSNN nói riêng, đòi
hỏi mọi khoản chi phải đảm bảo đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả, đặc
biệt trong điều kiện khả năng NSNN còn hạn hẹp mà nhu cầu chi phát triển
kinh tế - xã hội ngày càng tăng thì việc kiểm soát chặt chẽ các khoản chi nói
chung và chi thường xuyên NSNN nói riêng thực sự là một trong những vấn
đề trọng yếu trong công cuộc đổi mới quản lý tài chính, quản lý NSNN. Thực
hiện tốt công tác này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện tiết kiệm,
chống lãng phí, tập trung nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã hội, ổn


15
định tiền tệ, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia; Đồng thời nâng cao trách
nhiệm cũng như phát huy được vai trò của các ngành, các cấp, đơn vị liên
quan đến công tác quản lý và điều hành NSNN, đặc biệt là hệ thống KBNN sẽ
kiểm soát, thanh toán trực tiếp từng khoản chi thường xuyên NSNN cho các
đối tượng sử dụng đúng chức năng, nhiệm vụ đã được Nhà nước giao, góp
phần lập lại kỷ cương, kỷ luật tài chính.
Thứ tư: Do đặc thù của các khoản chi NSNN thường không mang tính

chất hoàn trả trực tiếp, các đơn vị sử dụng NSNN “hoàn trả” cho Nhà nước
bằng “kết quả công việc” đã được Nhà nước giao. Tuy nhiên việc đánh giá kết
quả các khoản chi NSNN bằng chỉ tiêu định lượng trong một số trường hợp
gặp khó khăn và không toàn diện. Do vậy, cần thiết phải có cơ quan Nhà nước
có chức năng, nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN để
đảm bảo cho việc chi trả của Nhà nước phù hợp với nhiệm vụ đã giao.
Thứ năm: Thông qua kiểm soát chi thường xuyên, KBNN đã góp phần
quản lý tiền mặt, quản lý phương tiện thanh toán. KBNN tăng cường sử dụng
các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và triệt để thực hiện nguyên tắc
thanh toán trực tiếp cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ, hạn chế tối đa việc
sử dụng tiền mặt, qua đó quản lý được mục đích chi tiêu đồng thời tiết kiệm
các chi phí về kiểm đếm, đóng gói, bảo quản, vận chuyển, tiết kiệm được
nhân lực của ngành.
Như vậy, xuất phát từ tình hình thực tế trong vấn đề chi NSNN, cũng
như những lý luận được phân tích với nhiệm vụ là “trạm gác kiểm soát cuối
cùng”, việc KBNN thực hiện kiểm soát chi NSNN nói chung và kiểm soát chi
thường xuyên nói riêng là hết sức cần thiết và cấp bách.
1.2.2.3. Đặc điểm của kiểm soát chi thường xuyên
* Đặc điểm của chi thường xuyên NSNN
Thứ nhất, đại bộ phận các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định
khá rõ nét. Tính ổn định này xuất phát từ tính ổn định trong thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và hoạt động của bộ máy Nhà nước làm


16
nảy sinh các khoản chi thường xuyên và đòi hỏi phải có tạo lập nguồn lực tài
chính thường xuyên để trang trải.
Để đảm bảo cho Nhà nước có thể thực hiện được các chức năng của
mình, tất yếu phải cung cấp nguồn vốn từ NSNN cho nó. Mặt khác, tính ổn
định của chi thường xuyên còn bắt nguồn từ tính ổn định trong từng hoạt

động cụ thể mà mỗi bộ phận thuộc guồng máy của Nhà nước phải thực hiện:
như những công việc thuộc về quản lý Nhà nước tại mỗi cơ quan chính quyền
luôn phải duy trì đều đặn và đầy đủ.
Thứ hai, xét theo cơ cấu chi NSNN ở từng niên độ và mục đích sử dụng
cuối cùng của vốn cấp phát thì đại bộ phận các khoản chi thường xuyên của
NSNN có hiệu lực tác động trong khoảng thời gian ngắn và mang tính chất
tiêu dùng xã hội. Chi thường xuyên đáp ứng cho các nhu cầu chi để thực hiện
các nhiệm vụ Nhà nước về quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngay trong năm
ngân sách hiện tại.
Khi nghiên cứu cơ cấu chi NSNN theo mục đích sử dụng cuối cùng của
vốn cấp phát, người ta phân loại các khoản chi thành hai nhóm: Chi tích lũy
và chi tiêu dùng. Theo tiêu thức này thì đại bộ phận các khoản chi thường
xuyên được xếp vào chi tiêu dùng bởi vì chi thường xuyên chủ yếu trang trải
cho các nhu cầu về quản lý hành chính Nhà nước; về quốc phòng, an ninh; về
các hoạt động sự nghiệp; các hoạt động xã hội khác do Nhà nước tổ chức.
Tuy nhiên có một số khoản chi thường xuyên mà người ta có thể coi nó như là
những khoản chi có tính chất tích lũy đặc biệt.
Vấn đề đặt ra đối với công tác kiểm soát chi thường xuyên là kiểm soát
các khoản chi sao cho vừa đúng luật, tuân thủ các quy định tài chính, các điều
kiện chi nhưng không thể chậm trễ cấp phát đối với những khoản chi không
thể trì hoãn được như lương, phụ cấp, điện, nước, văn phòng phẩm, nghiệp vụ
chuyên môn…


17
Thứ ba, phạm vi, mức độ chi thường xuyên của NSNN gắn chặt với cơ
cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước và sự lựa chọn của Nhà nước trong việc
cung ứng các hàng hóa công cộng. Chi thường xuyên luôn phải hướng vào
việc bảo đảm hoạt động bình thường của bộ máy Nhà nước. Nếu một khi bộ
máy quản lý Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả thì số chi thường xuyên

cho nó được giảm bớt và ngược lại. Hoặc quyết định của Nhà nước trong việc
lựa chọn phạm vi và mức độ cung ứng các hàng hóa công cộng cũng sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến phạm vi và mức độ chi thường xuyên của NSNN. Nếu
Nhà nước quyết định cung cấp hàng hoá dịch miễn phí thì tất yếu phạm vi và
mức độ chi NSNN phải rộng và lớn.
* Đặc điểm kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN
KBNN thực hiện kiểm soát chi thường xuyên NSNNN theo dự toán,
chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước.
Việc kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN được tiến hành
dần từng bước, sau mỗi bước lại đánh giá, rút kinh nghiệm để xây dựng bước
tiếp theo. Kho bạc thực hiện kiểm soát căn cứ vào các văn bản pháp luật về
kiểm soát chi thường xuyên NSNN. KBNN có quyền từ chối cấp phát thanh
toán nếu đơn vị sử dụng NSNN không chấp hành đúng theo quy định kiểm
soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN.
* Yêu cầu đối với công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN
Công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN phải đảm bảo các yêu cầu
sau:
- Chính sách và cơ chế kiểm soát chi thường xuyên NSNN phải làm cho
hoạt động của NSNN đạt hiệu quả cao, có tác động tích cực đến sự phát triển
của nền kinh tế, tránh tình trạng làm cho quỹ NSNN bị cắt đoạn, phân tán,
gây căng thẳng trong quá trình điều hành NSNN.


18
- Việc kiểm soát chi phải hết sức thận trọng, được thực hiện dần từng
bước, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để cải tiến quy trình kiểm soát chi phù
hợp với tình hình thực tế, đảm bảo tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính,
mặt khác không khắt khe, máy móc gây ách tắc, phiền hà cho các đơn vị sử
dụng kinh phí NSNN các cấp.
- Tổ chức bộ máy kiểm soát chi thường xuyên NSNN phải gọn nhẹ theo

hướng thu gọn đầu mối các cơ quan quản lý và đơn giản hóa thủ tục hành
chính. Đồng thời phân định rõ trách nhiệm, vai trò và quyền hạn của các cơ
quan quản lý NSNN, các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sử dụng kinh phí
NSNN trong quá trình thực hiện chi thường xuyên NSNN, đảm bảo sự công
khai, minh bạch và kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa những cơ quan, đơn vị đó
trong quá trình kiểm soát chi NSNN.
- Kiểm soát chi thường xuyên NSNN cần được thực hiện đồng bộ, nhất
quán và thống nhất với việc quản lý NSNN từ khâu lập, chấp hành đến quyết
toán NSNN.
1.2.3. Phân cấp quản lý và quy trình kiểm soát chi thường xuyên ngân sách
Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước
* Vai trò của KBNN đối với công tác kiểm soát chi thường xuyên
NSNN
Điều 56 Luật NSNN (sửa đổi) đã quy định: “Căn cứ vào dự toán NSNN
được giao và yêu cầu nhiệm vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết
định chi gửi KBNN, KBNN kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu cần thiết theo
quy định của pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các điều kiện quy
định”; đồng thời tại điểm 1, điều 55 Nghị định 60/2003/NĐ-CP cũng quy
định: “các đơn vị sử dụng ngân sách và các tổ chức được ngân sách hỗ trợ
thường xuyên phải mở tài khoản tại KBNN, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
cơ quan tài chính và KBNN trong quá trình thanh toán, sử dụng kinh phí ngân
sách cấp”.


19
Kho bạc Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng từ khâu lập, phân
bổ dự toán Ngân sách đến khâu cấp phát, thanh tóan và quyết toán chi Ngân
sách Nhà nước. KBNN luôn cân đối nguồn vốn để chi trả đầy đủ, kịp thời,
chính xác các khoản chi NSNN. Thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản
chi thường xuyên NSNN về tính hợp pháp, hợp lệ của khoản chi, bảo đảm

đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Trong KSC nếu phát
hiện được cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí sai mục đích, không hiệu quả,
KBNN được phép từ chối thanh toán. KBNN thực hiện hạch toán, kế toán
các khoản chi thường xuyên NSNN theo đúng mục lục NSNN; đồng thời
tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi NSNN trên địa bàn.
Như vậy, KBNN là “trạm canh gác kiểm soát cuối cùng” được Nhà
nước giao nhiệm vụ kiểm soát trước khi đồng vốn của Nhà nước ra khỏi quỹ
NSNN. Đồng thời, KBNN thực hiện kiểm tra và hạch toán các khoản chi
NSNN theo đúng chương, loại, khoản, mục, tiểu mục của mục lục NSNN và
cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết phục vụ cho công tác chỉ đạo và điều hành
của cơ quan Tài chính trong việc bố trí, sắp xếp các nhu cầu chi tiêu, đảm bảo
thu, chi NSNN luôn được cân đối, việc điều hành quỹ NSNN được thuận lợi.
KBNN trả tiền cho đơn vị thụ hưởng khi nhận được lệnh trả tiền của cơ
quan Tài chính hay đơn vị thụ hưởng kinh phí do ngân sách cấp, tuy nhiên,
KBNN không thực hiện theo các lệnh chi một cách thụ động, đơn thuần mà
hoạt động tương đối độc lập và có sự tác động trở lại các cơ quan, đơn vị đó.
KBNN có quyền từ chối cấp phát, thanh toán đối với các khoản chi không có
trong dự toán, kế hoạch, không đúng mục đích, không có hiệu quả hoặc
không đúng chế độ của Nhà nước, qua đó đảm bảo cho quá trình quản lý, sử
dụng công quỹ quốc gia được chặt chẽ, đặc biệt là việc mua sắm, sửa chữa,
xây dựng…, đồng thời với việc ưu tiên thanh toán trực tiếp cho đối tượng thụ
hưởng trực tiếp KBNN góp phần kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng tiền mặt
trong thanh toán, đảm bảo sự ổn định lưu thông tiền tệ.


20
Để phù hợp với chế độ phân cấp quản lý NSNN và tổ chức hoạt động
của hệ thống KBNN, việc quản lý và kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua
hệ thống KBNN được thực hiện như sau:
- KBNN thống nhất quản lý quỹ ngân sách Trung ương trong hệ

thống KBNN; trực tiếp thực hiện kiểm soát và thanh toán chi trả các
khoản chi thuộc NSNN phát sinh tại Sở giao dịch KBNN; tổng hợp và
giám sát tình hình quản lý, kiểm soát chi thường xuyên NSNN của các
cấp chính quyền địa phương.
- KBNN tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện kiểm soát,
thanh toán các khoản chi ngân sách Trung ương theo ủy quyền hoặc các
nhiệm vụ chi do KBNN thông báo và các khoản chi của ngân sách tỉnh;
đồng thời, nếu KBNN tỉnh đóng vai trò KBNN huyện nơi đơn vị đóng trụ
sở thì KBNN tỉnh sẽ thực hiện kiểm soát, thanh toán các khoản chi của
ngân sách huyện, xã; tổng hợp và kiểm tra việc quản lý, kiểm soát chi
NSNN của các KBNN huyện trực thuộc.
- KBNN huyện thực hiện kiểm soát, thanh toán các khoản chi ngân
sách Trung ương, ngân sách tỉnh theo ủy quyền và các nhiệm vụ chi do
KBNN tỉnh thông báo; thực hiện kiểm soát, thanh toán các khoản chi của
ngân sách huyện.
* Quy trình chi trả, thanh toán theo dự toán chi thường xuyên
NSNN qua Kho bạc Nhà nước
- Đầu năm ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách gửi dự toán chi
ngân sách đến KBNN để làm căn cứ kiểm soát chi. Hàng tháng theo yêu
cầu nhiệm vụ chi, thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN lập giấy rút dự toán
ngân sách kèm theo các hồ sơ thanh toán gửi KBNN nơi giao dịch để làm
căn cứ kiểm soát, thanh toán.
- KBNN kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ thanh toán của đơn vị sử dụng
NSNN theo quy định, nếu đủ điều kiện theo quy định thì thực hiện thanh
chi trả cho đơn vị.


21
- Khi thực hiện chi trả, thanh toán các khoản chi thường xuyên theo
dự toán, KBNN thực hiện chi cho đơn vị sử dụng NSNN theo đúng dự toán

ngân sách đã được giao và theo đúng tính chất của nguồn kinh phí đã được
cấp và đúng mục lục NSNN.
1.2.4. Nội dung kiểm soát chi thường xuyên ngân sách Nhà nước
1.2.4.1. Kiểm soát điều kiện chi trả thanh toán.
- Đã có trong dự toán chi NSNN được giao: Khi nhận được dự toán chi
ngân sách được cấp có thẩm quyền giao đơn vị dự toán cấp I lập phương án
phân bổ chi thường xuyên giao cho đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, chi
tiết đến Loại, Khoản. Trong đó giao cụ thể nguồn tiết kiệm 10% tăng thêm
(nếu có) theo quy định để thực hiện cải cách tiền lương.
Riêng đối với cơ quan Nhà nước thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ, việc phân bổ và giao dự
toán chi tiết theo 2 phần: phần dự toán chi NSNN giao thực hiện chế độ tự
chủ, tự chịu trách nhiệm; phần dự toán chi NSNN giao không thực hiện chế
độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện tự chủ tự chịu trách nhiệm
về tài chính theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006
của Chính phủ, việc phân bổ và giao dự toán thu, chi NSNN căn cứ vào
nhiệm vụ được giao, phân loại đơn vị sự nghiệp, dự toán kinh phí NSNN bảo
đảm hoạt động thường xuyên năm đầu thời kỳ ổn định được cấp có thẩm
quyền phê duyệt (đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động và đơn vị sự nghiệp do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động); dự
toán chi tiết theo 2 phần: phần dự toán chi NSNN bảo đảm hoạt động thường
xuyên, phần dự toán chi hoạt động không thường xuyên.
- Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi: KBNN thực hiện kiểm soát,
thanh toán các khoản chi thuộc nội dung chi được giao tự chủ, khoản chi


22
bảo đảm hoạt động thường xuyên theo chế độ tiêu chuẩn, định mức quy

định tại Quy chế chi tiêu nội bộ do đơn vị tự xây dựng.
Nội dung chi, mức chi, chế độ chi, tiêu chuẩn định mức trong Quy chế
chi tiêu nội bộ của đơn vị không được vượt quá chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi hiện hành do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.
Trường hợp đơn vị thực hiện chế độ tự chủ quyết định chi vượt quá
mức chi quy định tại Quy chế chi tiêu nội bộ, nhưng không vượt quá mức chi
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, thì KBNN chỉ chấp nhận
thanh toán khi có văn bản đề nghị của thủ trưởng đơn vị.
Trường hợp đơn vị thực hiện chế độ tự chủ chưa gửi quy chế chi tiêu
nội bộ và quy chế quản lý, sử dụng tài sản công đến KBNN nơi đơn vị mở tài
khoản giao dịch, thì KBNN thực hiện kiểm soát chi cho đơn vị theo các chế
độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu hiện hành do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quy định.
- Được thủ trưởng đơn vị hoặc người được ủy quyền chuẩn chi: Chuẩn
chi là đồng ý chi, cho phép chi hoặc quyết định chi trong quản lý và điều hành
NSNN. Khi kiểm soát hồ sơ thanh toán, KBNN phải kiểm soát việc quyết
định chi của chủ tài khoản đối với bất kỳ khoản chi nào hay gọi là kiểm tra
lệnh chuẩn chi. Thẩm quyền chi phải là người đứng đầu cơ quan, đơn vị hoặc
người được ủy quyền đã được đăng ký chữ ký bằng tay, mẫu dấu của cơ quan,
đơn vị và quyết định đề bạt, văn bản ủy quyền với cơ quan KBNN nơi giao
dịch. Đối với các khoản chi theo hình thức chi theo dự toán từ KBNN, lệnh
chuẩn chi là “Giấy rút dự toán NSNN” của đơn vị sử dụng NSNN. Giấy rút
dự toán NSNN phải ghi rõ ràng, đầy đủ các yếu tố theo mẫu quy định.
Đối với các khoản chi được cơ quan Tài chính cấp trực tiếp bằng
lệnh chi tiền. KBNN có trách nhiệm thanh toán, chi trả kinh phí NSNN cho
đơn vị sử dụng mà không phải kiểm tra, kiểm soát nội dung, tính chất của
từng khoản chi.


23

- Có đầy đủ hồ sơ, chứng từ hợp pháp, hợp lệ theo quy định liên quan
đến từng khoản chi: Mỗi khoản chi đều phải lập theo mẫu chứng từ đã được
quy định, KBNN có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ
chứng từ thanh toán trước khi thanh toán, chi trả kinh phí NSNN cho đơn vị
sử dụng.
1.2.4.2. Kiểm soát hình thức chi trả thanh toán ngân sách Nhà nước
- Chi trả, thanh toán theo dự toán từ KBNN
Đối tượng chi trả, thanh toán theo dự toán NSNN từ KBNN gồm: Các
khoản chi thường xuyên trong dự toán được giao của các cơ quan, đơn vị sau:
Các cơ quan hành chính Nhà nước; các đơn vị sự nghiệp; các tổ chức chính trị
xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp được NSNN hỗ trợ kinh phí thường xuyên; các Tổng công ty Nhà
nước được hỗ trợ thực hiện một số nhiệm vụ thường xuyên theo quy định của
pháp luật.
Quy trình chi trả, thanh toán theo dự toán từ KBNN: Căn cứ yêu cầu
nhiệm vụ chi, thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN lập giấy rút dự toán NSNN
kèm theo các hồ sơ thanh toán gửi KBNN nơi giao dịch để làm căn cứ kiểm
soát, thanh toán.
KBNN kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ thanh toán của đơn vị sử dụng
NSNN theo quy định, nếu đủ điều kiện theo quy định, thì thực hiện thanh toán
trực tiếp cho người hưởng lương, trợ cấp xã hội và người cung cấp hàng hoá,
dịch vụ hoặc thanh toán qua đơn vị sử dụng NSNN.
Khi thực hiện chi trả, thanh toán theo dự toán từ KBNN, KBNN thực
hiện chi cho đơn vị sử dụng NSNN theo đúng các mục chi thực tế trong
phạm vi dự toán NSNN giao. Riêng nhóm mục chi khác trong dự toán
NSNN được phép thanh toán để chi cho tất cả các nhóm mục, song phải
hạch toán theo đúng mục thực chi.


24

- Chi trả, thanh toán bằng hình thức lệnh chi tiền.
Đối tượng thực hiện chi trả, thanh toán bằng hình thức lệnh chi tiền
bao gồm: Chi cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội không có
quan hệ thường xuyên với NSNN; Chi trả nợ, viện trợ; một số khoản chi khác
theo quyết định của thủ trưởng cơ quan Tài chính.
Trách nhiệm của cơ quan Tài chính, KBNN trong việc kiểm soát, thanh
toán theo hình thức lệnh chi tiền: Cơ quan Tài chính chịu trách nhiệm kiểm
tra, kiểm soát nội dung, tính chất của từng khoản chi, bảo đảm các điều kiện
cấp phát NSNN theo chế độ quy định; KBNN thực hiện xuất quỹ NSNN và
thanh toán cho đơn vị sử dụng NSNN theo nội dung ghi trong lệnh chi tiền
của cơ quan Tài chính. KBNN chỉ chịu trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ, hợp
pháp của chứng từ, tổ chức hạch toán theo đúng Mục lục NSNN.
1.2.4.3. Kiểm soát, thanh toán chi ngân sách Nhà nước
- Hồ sơ thanh toán
Khi có nhu cầu chi, ngoài các hồ sơ gửi KBNN một lần (dự toán chi
NSNN; bản đăng ký biên chế quỹ lương, học bổng, sinh hoạt phí...) đơn vị sử
dụng NSNN gửi KBNN nơi giao dịch các hồ sơ, tài liệu, chứng từ thanh toán
có liên quan sau: Giấy rút dự toán NSNN; Các hồ sơ khác phù hợp với tính
chất của từng khoản chi đã quy định như: Bản dự trù, quyết toán tổ chức hội
nghị, bản quyết toán công tác phí, quyết định chỉ định thầu, quyết định phê
duyệt kết quả đầu thầu, quyết định phê duyệt kết quả chào hàng cạnh tranh,
hợp đồng kinh tế, biên bản nghiệm thu, hóa đơn, phiếu thu, phiếu chi…
- KBNN kiểm soát hồ sơ của đơn vị, bao gồm:
Kiểm soát, đối chiếu các khoản chi so với dự toán NSNN, bảo đảm các
khoản chi phải có trong dự toán NSNN được cấp có thẩm quyền phân bổ.
Kiểm tra, kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ của các hồ sơ, chứng từ theo
quy định đối với từng khoản chi.


25

Kiểm tra, kiểm soát các khoản chi bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. Các khoản chi phải
bảo đảm định mức, tiêu chuẩn đã quy định như: Định mức chi tiêu hội nghị,
công tác phí, các tiêu chuẩn như điện thoại, mua sắm, sử dụng ô tô… Các
khoản chi phải tổ chức đấu thầu, chào hàng cạnh tranh, chỉ định thầu.
Đối với các khoản chi chưa có chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN,
KBNN căn cứ vào dự toán NSNN đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
phân bổ để kiểm soát và thanh toán cho đơn vị.
- Sau khi kiểm soát hồ sơ, chứng từ chi của đơn vị, KBNN thực hiện:
Trường hợp đảm bảo đầy đủ các điều kiện chi theo quy định, KBNN
làm thủ tục chi trả, thanh toán cho đơn vị sử dụng NSNN theo quy định.
Trường hợp chưa đủ điều kiện thanh toán, nhưng thuộc đối tượng được
tạm ứng, KBNN làm thủ tục tạm ứng cho đơn vị sử dụng NSNN theo quy
định. Các khoản này chưa được ghi chi NSNN mà để theo dõi tạm ứng. Sau
khi có đủ hồ sơ chứng từ sẽ thực hiện thanh toán tạm ứng.
Trường hợp không đủ điều kiện chi, KBNN được phép từ chối chi trả,
thanh toán. Các đơn vị sử dụng NSNN hoàn thiện các thủ tục, đáp ứng đầy đủ
các điều kiện chi như bổ sung dự toán, bổ sung chứng từ, xem xét lại tiêu
chuẩn, định mức phù hợp sau đó gửi lại KBNN để kiểm tra và thanh toán.
1.2.4.4. Kiểm soát phương thức chi trả thanh toán
Việc chi trả, thanh toán được thực hiện dưới hai hình thức cấp tạm ứng
và cấp thanh toán:
- Cấp tạm ứng.
Đối tượng cấp tạm ứng: Là các khoản chi hành chính như văn phòng
phẩm, công cụ dụng cụ, tiền điện nước, tiền nhiên liệu, hội nghị, công tác phí,
tiếp khách, chi đoàn ra đoàn vào…và các khoản chi mua sắm tài sản, sửa chữa


×