MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................. 6
1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức, giáo dục đạo đức cho sinh
viên ....................................................................................................... 6
1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục đạo đức và
phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh ............................................. 17
1.3. Những vấn đề đặt ra để luận án tiếp tục giải quyết ............................ 26
Chƣơng 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................ 28
2.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội ....................... 28
2.2. Giáo dục đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho sinh
viên các trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay ...................................................................................................... 33
2.3. Những nhân tố ảnh hƣởng đến giáo dục đạo đức cho sinh viên các
trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ........ 67
Chƣơng 3: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA ................................................................................................. 81
3.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên các trƣờng đại học, cao
đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ......................................... 81
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên các
trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ...... 110
Chƣơng 4. MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ...................... 121
4.1. Một số phƣơng hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay .................................................................................. 121
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay .................................................................................. 128
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 160
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ........... 162
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 163
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 176
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực từ lâu đã đƣợc Đảng và Nhà
nƣớc đặc biệt quan tâm, ngày nay vấn đề đó đƣợc xem là “quốc sách hàng đầu”.
Mục tiêu giáo dục ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII là:
Thực hiện giáo dục tồn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học.
Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, nhân cách, khả năng tƣ duy sáng tạo
và năng lực thực hành cho học sinh, sinh viên. Tinh thần đó tiếp tục đƣợc khẳng
định ở các kỳ đại hội sau đó. Tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI Đảng ta tiếp
tục chủ trƣơng: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, tồn
diện nền giáo dục Việt Nam theo hƣớng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất
lƣợng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng lập nghiệp” [46, tr.130-131].
Nhìn một cách tổng quát, nhiệm vụ giáo dục hiện nay của nƣớc ta là làm sao
để đào tạo ra đƣợc những con ngƣời có đầy đủ cả hai mặt: đức và tài. Điều này đòi
hỏi các cấp, các ngành hữu quan cần phải quan tâm chăm lo giáo dục về mọi mặt,
trong đó giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay
là công việc vô cùng cần thiết và cấp bách.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau 30 năm đổi mới, Việt
Nam đã đạt đƣợc những thành tựu đáng tự hào. Kinh tế phát triển làm cho mọi mặt
của đời sống xã hội cũng phát triển theo. Song, mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng,
hội nhập quốc tế lại nảy sinh những yếu tố tiêu cực. Những tác động tiêu cực do
mặt trái của kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế đã can thiệp, đang làm băng hoại
nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khn mẫu, những giá
trị đạo đức đích thực, làm thay đổi các quan niệm sống, lối sống của một bộ phận
sinh viên Việt Nam nói chung, cũng nhƣ sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng. Có thể nói, trƣớc thực tiễn hiện nay, quan niệm và chuẩn mực đạo đức, lối
2
sống của sinh viên đang là vấn đề lớn cần đƣợc nghiên cứu cả về phƣơng diện lý
luận lẫn thực tiễn. Mặt khác, các thế lực thù địch với âm mƣu “diễn biến hịa bình”
đã len lỏi, tiến cơng trên các mặt trận tƣ tƣởng, văn hóa, đạo đức, hịng làm lu mờ lý
tƣởng, xóa nhịa những định hƣớng giá trị tốt đẹp mà xã hội đang hƣớng tới, nhất là
với thanh niên, sinh viên – những chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc. Trên thực tế, ở
nƣớc ta hiện nay nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, tình trạng suy
thối đạo đức diễn ra ngày càng gây gắt, nhất là đối với thanh niên, sinh viên. Văn
kiện Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh
lần IX đã đánh giá: “Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tƣởng, thiếu ý thức chấp
hành pháp luật, có lối sống thực dụng, thích hƣởng thụ, đua địi, lãng phí, tiêu cực
trong đạo đức, lối sống, sa vào tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật” [53, tr.44]. Với
vai trò đặc biệt quan trọng của sinh viên, nếu để tình trạng suy thoái đạo đức kéo dài
và trở thành hiện tƣợng phổ biến trong xã hội sẽ dẫn đến hậu quả khôn lƣờng.
Hiện nay, vấn đề đặt ra là làm thế nào để sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh
đáp ứng đƣợc yêu cầu hết sức nặng nề nhƣng vẻ vang mà đất nƣớc đang đặt lên vai
họ? Làm thế nào để sau khi đƣợc đào tạo, họ có thể tự khẳng định, tự định hƣớng
giá trị trong đời sống với bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng, trong hội nhập quốc tế để
có thể đứng vững trong cuộc đấu tranh với “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù
địch. Họ sẽ trở thành một bộ phận quan trọng của lực lƣợng sản xuất hiện đại, vững
vàng đi vào kinh tế tri thức, vững vàng trên mặt trận tƣ tƣởng, văn hóa trong q
trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Mặt khác, quan trọng hơn là mức độ quyết định việc nguồn lực sinh viên đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, đứng vững và
phát huy sức mạnh chủ thể của nguồn lực nội sinh trong nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế lại phụ thuộc nhiều vào phẩm chất đạo
đức, phụ thuộc vào chất lƣợng chuyên môn nghiệp vụ. Trên thực tế, nguồn lực sinh
viên ở Thành phố Hồ Chí Minh cịn nhiều hạn chế, bất cập: “Nguồn nhân lực chƣa
đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế” [49, tr.23]. Vì vậy, việc nghiên cứu
những yếu tố tác động đến đạo đức, giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói
chung cũng nhƣ sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng hiện nay, trên cơ sở đó
3
đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân
cách, có văn hóa và đạo đức góp phần phát triển nguồn nhân lực sinh viên đông về
số lƣợng và tốt về chất lƣợng, đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nƣớc, hội nhập quốc tế
hiện nay đang là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Đó là lý do chúng
tôi chọn “Giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích một số khái niệm cơng cụ của luận án: đạo đức, giáo dục đạo đức,
tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên
hiện nay. Phân tích và làm rõ thực trạng đạo đức và việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó luận án đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên các trƣờng đại
học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm công cụ của luận án: đạo đức, giáo
dục đạo đức cho sinh viên.
Làm rõ tầm quan trọng, nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
nói chung, sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức, cơng tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên Thành phố Hồ Chí minh hiện nay và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.
Đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cho sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên
các trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi là sinh viên chính quy đang học trong các
trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi khảo sát là sinh viên hệ chính quy đang học trong một số trƣờng đại
học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Thời gian khảo sát: Từ năm 2009 cho đến hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án đƣợc nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giáo
dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng hiện nay.
Ngồi ra, luận án cịn sử dụng thành tựu các cơng trình khoa học khác có liên
quan đến nội dung đƣợc đề cập trong luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn sử dụng
một số phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp lơgíc, phƣơng pháp lịch sử - cụ
thể, phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu khảo sát thực tiễn, điều
tra xã hội học.
Đối với phƣơng pháp điều tra xã hội học, chúng tôi sẽ chọn mẫu điều tra là
một số trƣờng đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vào
tháng 12 năm 2014.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
Luận án góp phần làm rõ khái niệm đạo đức, giáo dục đạo đức, tầm quan
trọng và nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung, cũng nhƣ
sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng hiện nay.
Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.
5
Đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cho sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và đƣa ra một số giải pháp để
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy
trong các trƣờng đại học, cao đẳng.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, đoàn thể, cá
nhân trực tiếp làm công tác giáo dục sinh viên và hoạt động phong trào của sinh
viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm có 4 chƣơng, 10 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠO ĐỨC, GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
1.1.1. Những cơng trình bàn về đạo đức
Cùng với sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội, lịch sử loài ngƣời, đạo
đức học cũng trải qua một quá trình lịch sử hình thành và phát triển hết sức phong
phú. Với tƣ cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tƣ tƣởng đạo đức đã
xuất hiện hơn 26 thế kỷ trƣớc đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ
đại. Trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử trong nền văn minh nhân loại với
các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, những quan điểm, tƣ tƣởng về đạo
đức mang những nội dung khác nhau, đồng thời các khái niệm, phạm trù nội hàm
của đạo đức cũng đƣợc xác định với những chuẩn mực, tiêu chí riêng, đƣợc quy
định bởi đặc điểm và trình độ chính trị, văn hóa, kinh tế - xã hội… của xã hội đó.
Quyển sách “Đạo đức học của Nicomaque” của Aristote [3]. Trong cơng trình
này, Aristote đã đƣa ra quan niệm của mình về: Điều thiện và hạnh phúc; đức hạnh,
lịng can đảm và tính tiết độ; tính cơng bằng; tình thân hữu; lạc thú và chân hạnh
phúc. Với Aristote, chỉ có con ngƣời và lồi ngƣời mới có hạnh phúc, mới đạt đƣợc
sự hồn thiện bản thể. Nói về đức hạnh, tác giả cho rằng: “Đức hạnh hiện ra dƣới
hai vẻ, một vẻ trí tuệ, một vẻ luân lý; đức hạnh trí tuệ một phần lớn tự học thức mà
ra, và cần học thức để biểu lộ và phát triển; cho nên nó địi hỏi sự thực hành và thời
gian; còn đức hạnh luân lý là con đẻ của thói quen tốt” [3, tr.58]. Tình thân hữu
cũng là một đức hạnh và nó cần thiết tuyệt đối cho cuộc đời; không bạn, không ai
muốn sống, tuy vẫn đầy đủ tất cả điều thiện hảo khác. Nhƣ vậy, khi bàn về đạo đức
Aristote đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh con ngƣời. Nội dung của phẩm hạnh
chính là chỗ biết định hƣớng đúng, biết làm việc thiện; phẩm hạnh khơng có tính
bẩm sinh, nghĩa là khi con ngƣời sinh ra, trời khơng thể ban cho ngƣời đó một phép
nhuộm mầu là phẩm hạnh đƣợc mà phẩm hạnh của con ngƣời có đƣợc là nhờ q
trình hoạt động thực tiễn trong đời sống xã hội, thông qua nhận thức của con ngƣời.
7
Tác phẩm “Bàn về đạo đức” của Mác – Ăngghen – Lênin [101]. Bàn về đạo
đức C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin đã sử dụng những khái niệm cũ nhƣ: thiện,
ác, vinh dự, lƣơng tâm, chủ nghĩa vị tha và chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa khổ hạnh và
chủ nghĩa hƣởng lạc v.v… [101, tr.14]. Tuy nhiên, C.Mác – Ph.Ăngghen –
V.I.Lênin đã đánh giá lại toàn bộ những tƣ tƣởng đạo đức từ xƣa đến nay trên lập
trƣờng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặt nền tảng
cho một đạo đức khoa học nhất định và nêu lên những nét cơ bản của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa. C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin đã nghiên cứu, làm rõ những vấn
đề về bản chất nguồn gốc và quy luật của đạo đức: “Đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, đạo đức thay đổi tùy theo sự thay đổi của tồn tại xã hội” [101, tr.24]. Vì vậy,
các ơng khơng thừa nhận có thứ đạo đức tồn tại vĩnh viễn và chỉ ra những nét cơ
bản về đặc điểm, nội dung của đạo đức cộng sản và phƣơng hƣớng, biện pháp giáo
dục đạo đức cộng sản khoa học nhất.
Vũ Khiêu với tác phẩm “Đạo đức mới” [82]. Trên cơ sở nghiên cứu về lịch sử
bốn nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, những phẩm chất đạo đức chói lọi của
ngƣời Việt Nam trong sản xuất, trong chiến đấu, trong quan hệ gắn bó yêu thƣơng
hằng ngày giữa nhân dân lao động, tác giả cho rằng: “Nói tới đạo đức là nói tới mối
quan hệ giữa ngƣời và ngƣời, là nói tới thái độ, trách nhiệm và những quy tắc xử lý
mối quan hệ giữa bản thân mình với những ngƣời chung quanh, với gia đình, với
bạn bè, với xóm làng và đất nƣớc, với giai cấp và lồi ngƣời” [82, tr.12-13]. Mỗi
hình thái kinh tế - xã hội đều có những chuẩn mực đạo đức phù hợp, khi hình thái
kinh tế - xã hội thay đổi thì những chuẩn mực đạo đức cũ cũng dần dần mất đi
nhƣờng chỗ cho những chuẩn mực đạo mức mới và trong thời đại ngày nay, Vũ
Khiêu cho rằng đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, đạo đức
cộng sản chủ nghĩa, đỉnh cao của đạo đức trong lịch sử xã hội loài ngƣời. Nội dung
cơ bản của đạo đức mới trƣớc hết phải hƣớng vào những nhiệm vụ cơ bản của con
ngƣời mới nhƣ chiến đấu, lao động và học tập. Nhƣng đạo đức mới còn phải đƣợc
thể hiện cả ở trong gia đình, tình yêu, tình bạn, cả trong quan hệ thƣờng ngày và đời
sống riêng tƣ. Bên cạnh đó, tác giả đã đề cập đến những phƣơng hƣớng rèn luyện
đạo đức trong xã hội ngày nay, đặc biệt nhấn mạnh việc noi gƣơng Bác Hồ vĩ đại
8
nhƣ lời đồng chí Lê Duẩn đã nhắc nhở: “Ở nƣớc ta, Hồ Chủ tịch là tƣợng trƣng đạo
đức cách mạng trong sáng và tốt đẹp nhất của Lênin. Chúng ta phải ra sức noi
gƣơng đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch” [82, tr.261].
Cuốn sách “Đạo đức học” tập I và tập II của G.Bandzeladze. Trên cơ sở
nghiên cứu lịch sử đạo đức nhân loại, một mặt cho thấy những sự quanh co, phức
tạp của lịch sử, mặt khác rút ra đƣợc những quy luật đặc thù của phát triển đạo đức,
từ đó tác giả cho cho rằng: “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự
quan tâm tự nguyện tự giác của những con ngƣời trong quan hệ với nhau và trong
quan hệ với xã hội nói chung” [8, tr.104]. Từ việc nghiên cứu tƣ tƣởng về đạo đức
của nhân loại, G.Bandzeladze đã đi vào phân tích và luận giải về vai trị của đạo
đức, làm sáng tỏ nhiều hiện tƣợng của đạo đức xã hội cũng nhƣ mối quan hệ giữa
đạo đức với “tính ngƣời” của con ngƣời. Căn cứ vào sự phân tích quan hệ giữa đạo
đức và chính trị, pháp lý, nghệ thuật…, tác giả chỉ rõ những đặc điểm cụ thể của nội
dung đạo đức. Qua đó, tác giả khẳng định: đạo đức là đặc trƣng bản tính của con
ngƣời, chỉ con ngƣời mới có đạo đức, do đó nó khơng thể khơng phản ánh những
đặc trƣng của bản tính ngƣời (hiểu theo nghĩa bản chất tiêu biểu và tốt đẹp nhất của
con ngƣời). Theo G.Bandzeladze, “chí cơng vơ tƣ” đƣợc quan niệm nhƣ là đặc
trƣng bản chất nhất, cơ bản nhất của đạo đức. Đạo đức bắt nguồn từ chỗ con ngƣời
quan hệ với ngƣời khác nhƣ quan hệ với chính mình. Trong quan hệ với mình – tác
giả suy luận: con ngƣời khơng thể nào tƣ lợi, vậy thì trong quan hệ đạo đức với
ngƣời khác, con ngƣời cũng không thể tƣ lợi.
Thành Duy với cơng trình nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”
[27]. Đây là cơng trình của tập thể các nhà khoa học đã có nhiều năm nghiên cứu về
đạo đức học và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Trong cơng trình trên, tác giả đã trình bày có
hệ thống về nguồn gốc, đặc trƣng và những nội dung cơ bản của hệ thống tƣ tƣởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến lĩnh vực đạo đức nhất là đạo đức cách mạng. Tƣ tƣởng đạo đức
của Ngƣời bao quát mọi đối tƣợng, đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động của con
ngƣời, trên mọi quan hệ xã hội với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Trên cơ sở nghiên
cứu nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh tập thể tác giả đã khẳng định tính phổ biến, giá
9
trị trƣờng tồn của tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trọng tâm của cơng trình nghiên
cứu là nhấn mạnh đến việc học tập, tu dƣỡng, rèn luyện con ngƣời về mặt đạo đức
theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Việc học tập, tu dƣỡng, rèn luyện để trở thành con
ngƣời mới, khơng chỉ có việc học tập, tu dƣỡng, rèn luyện về đạo đức. Bên cạnh
đạo đức phải nói đến tài năng. Tài và đức là hai mặt của con ngƣời mới, có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ khơng thể xem trọng mặt này xem nhẹ mặt kia. Tác giả cho
rằng, Hồ Chí Minh coi: “Đạo đức là gốc đồng thời xem tài năng là quan trọng đối
với ngƣời cán bộ cách mạng và con ngƣời mới nói chung” [27, tr.155].
Quyển sách “Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay” do nhóm tác
giả của Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự biên soạn [133]. Trên cơ sở
khái quát các vấn đề lý luận về đạo đức, tập thể tác giả cho rằng đạo đức cần đƣợc
nhận thức là: “Một hiện tƣợng xã hội, thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, bao gồm hệ
thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội… để điều chỉnh
hành vi ứng xử của con ngƣời (giữa ngƣời và ngƣời, giữa cá nhân và cộng đồng,
giữa con ngƣời và tự nhiên…) đƣợc thực hiện do sức mạnh của phong tục, tập quán,
dƣ luận xã hội và lƣơng tâm của mỗi con ngƣời cho phù hợp với lợi ích xã hội, hạnh
phúc của con ngƣời và tiến bộ xã hội” [133, tr.9-10]. Trong xã hội có giai cấp, đạo
đức đƣợc các giai cấp khác nhau sử dụng vào những mục đích khác nhau. Trong
cách mạng XHCN, đạo đức cách mạng sẽ có một sức mạnh to lớn tham gia vào lật
đổ chế độ xã hội cũ, thiết lập và xây dựng chế độ mới xã hội - XHCN, một xã hội
khơng cịn áp bức, bóc lột, bất cơng. Bên cạnh đó, để duy trì sự tồn tại, phát triển
lành mạnh đời sống xã hội, các nhà khoa học cho rằng con ngƣời cần đến hệ thống
các quy tắc, chuẩn mực xã hội khác nhau để điều chỉnh các hoạt động xã hội và tự
điều chỉnh hành vi cá nhân: “Chuẩn mực đạo đức là những nguyên tắc, quy tắc đạo
đức đƣợc mọi ngƣời thừa nhận trở thành những mực thƣớc, khuôn mẫu để xem xét
đánh giá và điều chỉnh hành vi của con ngƣời trong xã hội” [133, tr.24].
1.1.2. Những cơng trình bàn về giáo dục đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội nhằm điều chỉnh hành vi
của con ngƣời, là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử xã hội và góp phần phản
ánh sự tồn tại của đời sống tinh thần. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc,
10
đạo đức vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển xã hội. Để xây dựng xã hội
mới, chúng ta rất cần có những con ngƣời mới, những con ngƣời XHCN phát triển
toàn diện cả đức, lẫn tài.
Xuất phát từ đánh giá vai trò, chức năng của đạo đức đối với sự phát triển của
xã hội, vấn đề GDĐĐ đƣợc đặt ra từ rất sớm trong lịch sử và luôn đƣợc mọi giai
cấp, mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Trong xã hội ta hiện nay, bên cạnh những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc đang trở thành một nguồn sức mạnh tinh
thần của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, có khơng ít vấn đề đang đặt ra địi hỏi cần
phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có lý tƣởng, hồi
bão, trung thực, có ý thức bảo vệ thành quả lao động, chăm lo lợi ích của cộng đồng
và lối sống thực dụng, ích kỉ, cá nhân, bng thả, quay lƣng với văn hóa, với truyền
thống dân tộc. Trƣớc thực trạng trên, có khơng ít những học giả, những nhà khoa
học đã quan tâm, nghiên cứu, tìm ra những nguyên nhân gây ra suy thoái đạo đức
và từ đó đề xuất những phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm giáo dục và rèn luyện đạo
đức cho thanh niên, SV.
Tác giả Trần Hậu Kiêm, Đồn Đức Hiếu với cơng trình “Hệ thống phạm trù
đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” [86]. Trong cơng trình này, tập thể
tác giả đã nghiên cứu và làm rõ một số phạm trù cơ bản của đạo đức nhƣ: lẽ sống,
hạnh phúc, danh dự, nghĩa vụ và lƣơng tâm, thiện và ác. Qua nghiên cứu các phạm
trù cơ bản của đạo đức, tập thể tác giả cho rằng vấn đề GDĐĐ thì đối tƣợng chủ yếu
phải là thanh, thiếu niên, đặc biệt là SV. Bởi vì, SV là lớp ngƣời đang phát triển về
mọi mặt, là ngƣời chủ tƣơng lai, là lực lƣợng thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất
nƣớc. Vấn đề GDĐĐ cho SV là xây dựng thế giới quan cho SV bao gồm đạo đức
học Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nhằm giúp cho SV có niềm tin, tƣ tƣởng
và tình cảm đối với xã hội XHCN. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu tập trung luận
giải một số phạm trù cơ bản của đạo đức và trong quá trình GDĐĐ tác giả cho rằng
cần giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cho SV. Tuy nhiên,
trong cơng trình này tác giả chƣa đi vào nghiên cứu và làm rõ về thực trạng, nội
dung và tầm quan trọng trong việc GDĐĐ cho SV hiện nay.
11
Cuốn sách “Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thanh, thiếu niên và nhi
đồng” của Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng [160]. Đây là công trình sƣu
tầm, biên soạn cơng phu, có hệ thống những bài nói, bài viết, lời dạy bảo ân cần của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng. Bồi dƣỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết. Trƣớc khi đi xa,
trong Di chúc, Hồ Chí Minh dặn lại Đảng ta: “Đồn viên thanh niên ta nói chung là
tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng
cần phải chăm lo GDĐĐ cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những ngƣời kế thừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa “hồng”, vừa “chuyên” [160, tr.5]. Trong giai đoạn
hiện nay, khi công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế càng đi vào chiều sâu thì bên
cạnh những thời cơ là những thách thức của cơ chế thị trƣờng, những cạm bẫy của
quá trình giao lƣu và hội nhập mà thanh niên, SV cần đƣợc giáo dục, rèn luyện để
không bị cuốn vào những lối sống buông thả, thực dụng, coi trọng giá trị vật chất,
đồng tiền, trụy lạc sa đọa, nghiện ngập, xa hoa, lãng phí, lƣời lao động, thờ ơ vơ
cảm… thì những lời dạy, lời chỉ dẫn và những kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về giáo dục và bồi dƣỡng cho thanh, thiếu niên vẫn có tính thời sự và thiết
thực. Do đó, trong q trình thực hiện luận án tiến sĩ chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên
cứu những tƣ tƣởng của Bác, trên cơ cở đó xây dựng những giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả cho việc GDĐĐ cho thanh niên, SV hiện nay.
Quyển sách “Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên”
của tác giả Hoàng Anh [1]. Tác giả cho rằng: “GDĐĐ cho SV là một trong bốn
nhiệm vụ trọng yếu của nền giáo dục đại học nƣớc ta hiện nay. Nó khơng chỉ trực
tiếp hình thành đạo đức SV, mà hơn hết là tạo ra cơ sở tâm lý tích cực cho sự phát
triển nhân cách SV” [1, tr.120]. Hiện nay, trong điều kiện mở cửa, hội nhập với các
nƣớc trong khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện cho việc giao lƣu, trao đổi văn
hoá ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đã tác động tiêu cực và làm
thay đổi các quan niệm sống, lối sống của một bộ phận giới trẻ ngày nay, một bộ
phận thanh niên có hiện tƣợng suy thối về đạo đức, sống thực dụng, thiếu hồi bão,
lý tƣởng sống… đặc biệt là SV, những chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc. Vì vậy,
việc GDĐĐ cho SV hiện nay mang tính thực tiễn cấp bách, trong việc GDĐĐ, tác
12
giả cho rằng: “GDĐĐ học Mác – Lênin trong các trƣờng đại học là một yếu tố quan
trọng góp phần hình thành và phát triển đạo đức mới cho mỗi SV” [1, tr.122].
Tác giả Nguyễn Thế Kiệt với quyển sách “Mấy vấn đề đạo đức học Mácxít
và xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” [81]. Trong cơng trình này, tác giả đã làm rõ khái niệm đạo đức, đạo đức
học, các kiểu đạo đức trong lịch sử và cho rằng: “Giai cấp vô sản là giai cấp bị áp
bức cuối cùng trong lịch sử loài ngƣời. Đạo đức của giai cấp vô sản là mầm mống
của đạo đức cộng sản chủ nghĩa tƣơng lai” [81, tr.46-47]. Nƣớc ta đang trong quá
trình đổi mới toàn diện, mở cửa, giao lƣu, hội nhập mạnh mẽ với các nƣớc trong
khu vực và thế giới. Tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đang có sự chuyển đổi
sâu sắc và tác động đến đời sống tinh thần. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu sự biến
đổi thang giá trị đạo đức dƣới tác động của KTTT ở nƣớc ta hiện nay, Nguyễn Thế
Kiệt cho rằng: “Cơ chế thị trƣờng đã tác động đến nhiều mặt của đời sống con
ngƣời Việt Nam, kể cả những quan hệ xã hội và đời sống đạo đức của họ. Những
tác động này về cơ bản là tích cực nhƣng cũng có những ảnh hƣởng tiêu cực nhất
định” [81, tr.112]. Do những tiêu cực của cơ chế thị trƣờng mà tác giả đã xác định
tầm quan trọng và yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới, cùng với việc học tập và
làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh trong việc tu dƣỡng, rèn luyện, qua đó
đấu tranh khắc phục sự suy thối về đạo đức, lối sống trong giai đoạn hiện nay.
Quyển sách “Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lƣơng Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt [5]. Qua
nghiên cứu vấn đề đạo đức và đạo đức mới (đạo đức xã hội chủ nghĩa) tác giả cho
rằng: “GDĐĐ mới cho SV là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt mang tầm chiến lƣợc và
ở chừng mực nào đó có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [5, tr.46]. Bởi vì, thơng qua việc GDĐĐ sẽ góp phần hồn thiện nhân cách,
điều chỉnh hành vi của con ngƣời phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Ngoài ra, liên quan trực tiếp đến đề tài có thể kể đến một số luận án Tiến sĩ
Triết học trong thời gian vừa qua.
Luận án Tiến sĩ Triết học “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị Hoài
13
Thanh [140]. Luận án phân tích quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong GDĐĐ cho thanh niên. GDĐĐ là quá trình tác động đến đối tƣợng giáo dục
nhằm hình thành trong họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tƣởng đạo đức và định
hƣớng cho hành vi đạo đức. Nhiều phẩm chất và hành vi đạo đức ở con ngƣời đƣợc
hình thành chủ yếu bằng con đƣờng giáo dục, tác giả cho rằng: “Truyền thống và
hiện đại là những yếu tố ln có mặt trong mọi lĩnh vực đời sống của quốc gia, dân
tộc, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa, đạo đức, tinh thần” [140, tr.57]. Vì vậy, cần
phải kết hợp truyền thống và hiện đại trong GDĐĐ cho thanh niên. Tuy nhiên, trong
quá trình GDĐĐ tác giả đã nhấn mạnh rằng: “Cần khắc phục đồng thời cả hai
khuynh hƣớng cực đoan: hoặc là theo chủ nghĩa truyền thống, chỉ ca ngợi, đề cao và
phục hồi truyền thống theo kiểu một chiều trong một môi trƣờng đóng cửa, khép
kín; hoặc là đón nhận, tiếp thu những yếu tố hiện đại khơng có chọn lọc, khơng cân
nhắc, chạy theo “hiện đại hoá” bằng bất cứ giá nào” [140, tr.52].
Gần đây nhất, năm 2014 luận án tiến sĩ Triết học của tác giả Nguyễn Thị
Thanh Hà “Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho
sinh viên Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay” [70]. Trên cơ sở nghiên
cứu tồn cầu hố và ảnh hƣởng của tồn cầu hoá đến việc phát huy giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng lối sống mới cho SV hiện nay, tác giả đã làm rõ mặt
tích cực và hạn chế của tồn cầu hố. Tồn cầu hố đã tạo điều kiện thuận lợi giúp
SV tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại, mở rộng việc giao lƣu về khoa
học, văn hoá giữa các quốc gia. Tuy nhiên, tác giả đã chỉ ra rằng: “Do tác động tiêu
cực của mặt trái tồn cầu hố nên nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa ích kỷ cực
đoan, chủ nghĩa thực dụng thiếu ý thức về đạo đức, lối sống trong SV” [70, tr.71].
Nguyễn Thị Thanh Hà đã chỉ ra mặt tích cực và tiêu cực của tồn cầu hố đối với
việc xây dựng lối sống mới cho SV Việt Nam, tuy nhiên sự nghiên cứu và nhìn
nhận của tác giả cịn chung chung. Vì vậy, trong q trình nghiên cứu chúng tơi sẽ
làm rõ thêm ngồi tác động của tồn cầu hố thì KTTT cũng có sự ảnh hƣởng, tác
động đến đạo đức, nhân cách và lối sống của thanh niên, SV và đặc biệt là SV các
trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay.
14
1.1.3. Những cơng trình bàn về giáo dục đạo đức cho sinh viên các
trƣờng đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh
Bàn về GDĐĐ cho SV các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM cho đến hiện
nay, chủ yếu chỉ dừng lại ở các bài viết, các báo cáo tại các Hội thảo khoa học.
Quyển sách “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh
viên ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của Phạm Tấn Xuân Tƣớc, Huỳnh Thị
Gấm [147]. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về
đạo đức, lối sống, về vai trị của thanh niên và tầm quan trọng của công tác GDĐĐ,
lối sống cho thanh niên. Trong công tác giáo dục, Hồ Chí Minh coi trọng cả “đức”
và “tài”, nhƣng đặt GDĐĐ lên hàng đầu [147, tr.23]. Trong việc GDĐĐ, Ngƣời
nhấn mạnh sự cần thiết giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng; lòng yêu nƣớc,
thƣơng nòi; lý tƣởng cách mạng, niềm tin đối với sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo; thái độ tận tụy phục vụ, cống hiến cho Tổ quốc, nhân dân. Trong việc giáo
dục lối sống cho thanh niên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho
thanh niên tình yêu đối với lao động, sống giản dị, trung thực, dũng cảm; sống có
hồi bão, nghị lực, chí tiến thủ; giáo dục thanh niên một tình bạn, tình yêu trong
sáng. Trong tình bạn cũng nhƣ trong tình yêu, Ngƣời dạy thanh niên: “Phải đi đúng
mực, đúng giới hạn quyết chớ phóng túng, lơi thôi” [147, tr.67].
Bài viết “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay” của tác
giả Phan Văn Bình [15]. Trong xu thế giao lƣu và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi
những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, trong đó có đạo đức. Vì vậy, việc
GDĐĐ là hết sức cần thiết và GDĐĐ nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống, loại bỏ những quan điểm đạo đức không còn phù hợp, định
hƣớng giá trị đạo đức đúng đắn, phù hợp với sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Trên cơ sở xác định tầm quan trọng của việc GDĐĐ cho SV, tác giả đã xác định sáu
nội dung cần giáo dục cho SV hiện nay nhƣ: “Giáo dục theo tấm gƣơng đạo đức Hồ
Chí Minh; giáo dục những giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc; giáo dục
lý tƣởng độc lập dân tộc và CNXH; GDĐĐ nghề nghiệp; giáo dục tinh thần tự chủ,
nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám đƣơng đầu để tự khẳng định mình; GDĐĐ văn
hố giao tiếp, tình u lứa đơi, hạnh phúc gia đình” [15].
15
Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Anh với bài viết “Vai trò của trường đại học
trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay” [2]. Trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nƣớc hiện nay, GDĐĐ cho SV sẽ góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo
toàn diện nguồn nhân lực. GDĐĐ cho SV là trách nhiệm của mỗi cá nhân và tổ
chức xã hội, trong đó tác giả cho rằng: “Các trƣờng đại học phải có trách nhiệm tổ
chức định hƣớng” [2, tr.55]. Vai trò của nhà trƣờng hiện nay là phối hợp với các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nƣớc khai thác tiềm năng của xã hội, phục vụ cho sự
phát triển giáo dục. Tuy nhiên, khi đánh giá về vai trò của nhà trƣờng trong thời
gian vừa qua tác giả cũng cho rằng: “Các trƣờng cao đẳng, đại học chƣa quan tâm
đúng mức tới GDĐĐ, lối sống cho sinh viên. Vì vậy, một bộ phận SV thiếu bản lĩnh
đã bị những tác động tiêu cực chi phối, có những biểu hiện khơng lành mạnh về đạo
đức, lối sống” [2, tr.56].
Bàn về GDĐĐ và lối sống cho SV, tác giả Huỳnh Cơng Ba với bài viết: “Giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho sinh viên trường đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập và phát triển” [7]. Mục tiêu giáo dục là đào
tạo con ngƣời Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tƣởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành
và bồi dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ý thức đƣợc tầm quan trọng của cơng tác giáo dục chính
trị, tƣ tƣởng, đạo đức và lối sống cho thế hệ trẻ, nhiều năm qua trƣờng đại học Sƣ
phạm TP.HCM luôn chú trọng đến công tác này nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên
chất lƣợng. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết SV trƣờng đại học Sƣ phạm TP.HCM
thích nghi với những đổi mới của xã hội và tỏ rõ bản lĩnh sống, có trách nhiệm với
xã hội, với nhân dân. Họ năng động trong việc tự thân vận động để thích nghi với
cuộc sống, vừa học vừa làm thêm để có tiền ăn học. Hiện tại, những hoạt động của
SV không chỉ giới hạn trong nhà trƣờng với giảng đƣờng và phịng thí nghiệm mà
cịn có xu hƣớng tiếp cận, chiếm lĩnh và tự khẳng định mình trong mơi trƣờng xã
hội thực tiễn rộng lớn và sôi động.
Tác giả Nguyễn Thị Hằng, Phạm Xuân Hậu với bài viết: “Giáo dục đạo đức
cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học – Sự nhìn nhận tồn diện về đối tượng,
16
nội dung và cách thức thực hiện” [67]. GDĐĐ cho SV là một thực tế khách quan
luôn luôn cần đƣợc quan tâm, vì trong quá trình sinh hoạt xã hội và học tập của con
ngƣời, đạo đức đƣợc hình thành mang tính giai cấp rõ rệt. Trong thời kỳ CNH,
HĐH theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng XHCN, việc giáo dục các giá trị đạo đức
truyền thống và hiện đại là rất cần thiết. Nó phải giữ đƣợc vị trí và vai trị đặc biệt
quan trọng mới có thể xây dựng đất nƣớc thành cơng bởi sự tác động tích cực của
quá trình này. Trong GDĐĐ, tác giả cho rằng cần: “Giáo dục cho SV về lý tƣởng
độc lập dân tộc và CNXH, thế giới quan cách mạng và nhân sinh quan cộng sản chủ
nghĩa. Bởi vì, khi có nhận thức đúng lý tƣởng, họ sẽ có niềm tin, có hành động
đúng, biết nhìn về tƣơng lai. Giáo dục SV ý thức và trách nhiệm cộng đồng, tinh
thần mình vì mọi ngƣời, lòng khoan dung, ý thức tự giác trong học tập và hoạt động
cá nhân” [67, tr.25].
Đặng Thành Hƣng với bài viết: “Quan niệm đạo đức và giáo dục đạo đức
trong nhà trường hiện đại” [68]. GDĐĐ là một trong những nhiệm vụ giáo dục giá
trị, bởi vì đạo đức là một dạng giá trị. Luận điểm này từ bỏ cách giáo dục rao giảng,
học vẹt các chuẩn mực đạo đức, mà nhấn mạnh giáo dục bằng trải nghiệm, bằng
hành động thực tiễn trong rèn luyện của ngƣời học. Muốn học đƣợc đạo đức, con
ngƣời phải thực hành đạo đức hàng ngày trong cuộc sống riêng tƣ, trong đời sống
cộng đồng, trong quan hệ xã hội, trong hoạt động nghề nghiệp, trong quan hệ với
môi trƣờng và quan hệ với chính mình, cũng nhƣ trong việc xử lý những vấn đề văn
hố, pháp luật, giải trí, học tập và phát triển cá nhân. GDĐĐ hơn bất cứ nhiệm vụ
giáo dục nào khác, địi hỏi con ngƣời tính tự giác, ý chí bền bỉ, bản lĩnh tự giáo dục
và niềm tin mãnh liệt vào cái Thiện, cái Tốt. Trong GDĐĐ tác giả cho rằng:
“GDĐĐ là sử dụng các hoạt động và phƣơng thức giao tiếp nhất định để: 1/ Tác
động và phát triển lí trí đạo đức (thấu hiểu, thừa nhận và đánh giá có phê phán các
sự kiện trong đời sống đạo đức trên lập trƣờng Thiện – Ác, Tốt – Xấu; 2/ Phát triển
nhu cầu và tình cảm đạo đức (tin tƣởng vào cái Thiện, yêu cái Thiện, khao khát cái
Thiện, ghét cái Ác, muốn đấu tranh chống lại và thủ tiêu cái Ác; 3/ Khuyến khích
phát triển các hành vi và hành động đạo đức phù hợp với lí trí, nhu cầu và tình cảm
đạo đức của mình trong đời sống cá nhân và cộng đồng” [68, tr.9].
17
1.2. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
1.2.1. Những cơng trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục đạo đức cho
sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh
Bàn về thực trạng đạo đức và công tác GDĐĐ cho thanh niên, SV đã đƣợc các
nhà khoa học nghiên cứu cứu trong những năm gần đây nhƣ:
Quyển sách “Rèn luyện đạo đức và ý thức công dân” của Phạm Khắc
Chƣơng [21]. Từ khi đất nƣớc hịa bình, thống nhất, nền kinh tế theo cơ chế thị
trƣờng có sự điều tiết của Nhà nƣớc đã và đang phát huy tác dụng cùng với chủ
trƣơng mở rộng quan hệ và hội nhập quốc tế đã tạo nên động lực phát triển đất
nƣớc. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trƣờng tất yếu phải chấp
nhận quy luật cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt, làm nảy sinh những mặt tiêu cực
trong quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời do sức tàn phá của đồng tiền. Mặt
khác, do nhiều luồng văn hóa ngoại lai du nhập từ các nƣớc Âu – Mỹ trong thời kỳ
mở cửa, thông qua các ấn phẩm văn hóa: sách báo, phim ảnh, mạng internet… đã và
đang luồn lách đến với tất cả các đối tƣợng, trong đó có thanh thiếu niên học sinh
vốn dĩ đang ở lứa tuổi hiếu động, tò mò, ham thích những điều mới lạ; vì vậy,
khơng ít các em đang bị sa ngã, lún sâu vào các tệ nạn xã hội. Trên cơ sở chỉ ra thực
trạng đạo đức, lối sống của thanh thiếu niên, học sinh hiện nay, tác giả đã nêu lên
một số phẩm chất đạo đức cơ bản trong nhân cách con ngƣời cần phải rèn luyện,
nhƣ: Lòng nhân ái, khiêm tốn, lòng vị tha, lòng chân thành, biết hƣớng vào mục tiêu
cao thƣợng.
Các tác giả Phạm Tấn Xuân Tƣớc, Huỳnh Thị Gấm trong quyền sách: “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Thành phố Hồ
Chí Minh” [147]. Trên cơ sở kết hợp việc kế thừa, sử dụng thành quả nghiên cứu
của các đề tài khác với kết quả nghiên cứu khảo sát của cá nhân, các nhà nghiên cứu
đã làm rõ mặt tích cực trong đạo đức, lối sống của SV TP.HCM hiện nay. Tác giả
cho rằng, đại đa số SV Thành phố có lịng u nƣớc và tự hào dân tộc, đã tích cực
18
tình nguyện tham gia hoạt động vì cộng đồng, sống có mục đích và lý tƣởng, ln
mong muốn đóng góp một phần cơng sức của mình trong cơng cuộc xây dựng đất
nƣớc. Những biểu hiện tích cực trong đạo đức, lối sống của SV Thành phố thời gian
vừa qua là do có sự đầu tƣ, quan tâm của các Cấp uỷ Đảng, chính quyền và đặc biệt
là sự phối hợp đồng bộ từ phía gia đình, nhà trƣờng và xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu điểm, tiến bộ tác giả cũng chỉ ra mặt hạn chế
trong đạo đức, lối sống của SV Thành phố hiện nay. Đó là, một bộ phận SV có động
cơ, thái độ học tập khơng đúng, vi phạm kỷ luật học tập, thiếu tôn trọng thầy cô,
chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo đức truyền thống dân tộc, có
hành vi vi phạm pháp luật. Nguyên nhân của sự hạn chế là do cơng tác GDĐĐ cịn
nhiều hạn chế, nền tảng giáo dục của một bộ phận gia đình chƣa vững chắc, đặc biệt
do những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền KTTT và của tồn cầu hố.
Tác giả Nguyễn Văn Tuyên và Nguyễn Thị Tĩnh bài viết “Giáo dục đạo đức
cho sinh viên hiện nay theo 23 điều tư cách trong tác phẩm Đường kách mệnh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh” [152]. Trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế hiện
nay, một bộ phận SV do khơng nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu đã có những
biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại nhƣ: lƣời học tập, nghiện ngập, vi phạm pháp luật,
sống buông thả. Do đó, cần chăm lo GDĐĐ cách mạng cho thế hệ SV và coi đó là
một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trên cơ sở nghiên cứu nội dung 23
điều tƣ cách của một ngƣời cách mạng trong tác phẩm Đƣờng kách mệnh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh tập thể tác giả cho rằng: “Nội dung 23 điều tƣ cách của một ngƣời
cách mạng trong tác phẩm Đƣờng kách mệnh là những định hƣớng cơ bản cho việc
GDĐĐ cho SV trong giai đoạn hiện nay” [152, tr.7].
Trần Thị Ngọc Lan, Nguyễn San Hà với bài viết “Giáo dục đạo đức thông
qua học tập của sinh viên tại Bảo tàng: Thực trạng và giải pháp” [100]. Bảo tàng
không chỉ là nơi sƣu tầm, bảo quản, giữ gìn những di sản văn hố mà cịn là nơi
trƣng bày, tun truyền nhằm phát huy những giá trị di sản của dân tộc, qua đó góp
phần vào sự nghiệp giáo dục chung của nƣớc nhà. Hiện nay, hệ thống các Bảo tàng
trong cả nƣớc rất phong phú về loại hình nhƣ: lịch sử, văn hố, danh nhân, di tích,
thắng cảnh… trong đó, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP.HCM thuộc một trong
19
những loại hình trên. Vì vậy, tập thể tác giả cho rằng việc GDĐĐ cho HSSV hiện
nay thì Nhà trƣờng và các tổ chức Đoàn ở các trƣờng đại học, cao đẳng cần thƣờng
xuyên thực hiện phong trào “Hành trình đến với Bảo tàng” để SV có thể tham gia
học tập thực tế tại Bảo tàng. Trong quá trình học tập, nghiên cứu, tham quan tại Bảo
tàng các bạn SV không những đƣợc trở về với cội nguồn dân tộc mà cịn là nơi giải
trí, thƣ giãn, các bạn SV sẽ đƣợc thụ hƣởng, khám phá nét đẹp văn hoá và những
sản phẩm đƣợc tạo ra trong quá trình lao động từ thời dựng nƣớc, giữ nƣớc cho đến
khi giành đƣợc độc lập cho nƣớc nhà.
“Vai trò người giảng viên trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các
trường đại học, cao đẳng” của tác giả Ngô Minh Oanh [132]. Trong hệ thống giáo
dục của một quốc gia thì giáo dục đại học là khâu cuối cùng cung cấp sản phẩm,
nguồn nhân lực cho xã hội, phục vụ nhu cầu phát triển của một đất nƣớc. Nghiên
cứu về thực trạng GDĐĐ cho SV trong các trƣờng đại học hiện nay tác giả cho
rằng: “Một thời gian dài chúng ta chƣa coi trọng GDĐĐ cho SV, nếu có thì cũng
nặng về hình thức, lý thuyết sng, thiếu tính thuyết phục. Hiện nay, việc GDĐĐ
trong các trƣờng đại học, cao đẳng đã đƣợc chú trọng hơn, nhƣng cũng chƣa đạt yêu
cầu mong muốn. Một bộ phận giảng viên các trƣờng đại học, cao đẳng cho rằng
cơng tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức là cơng việc của Phịng Cơng tác
Chính trị - Quản lý SV, của Chi bộ, của Đồn và Hội Sinh viên, nói chung là cơng
việc của trƣờng và Khoa chứ khơng phải là của mình”. Chính những yếu tố trên là
rào cản cho hoạt động GDĐĐ cho SV trong các trƣờng đại học, cao đẳng hiện nay.
Bài viết “Vai trị của Đồn Thanh niên với giáo dục đạo đức cho sinh viên
trong các trường cao đẳng, đại học” của tác giả Hoàng Xuân Sơn, Hồ Thị Thanh
Trúc [138]. Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có vị trí, vai trị rất quan trọng
trong định hƣớng, tổ chức các hoạt động GDĐĐ cho thanh niên, SV. Đoàn là lực
lƣợng giáo dục trực tiếp, lãnh đạo chính trị, tƣ tƣởng tập thể đồn viên thanh niên,
là nhân tố cơ bản của quá trình tự giáo dục. Thơng qua các chƣơng trình hành động
thiết thực của mình, Đoàn vận động thanh niên, SV thực hiện tốt nhiệm vụ học tập
và rèn luyện, tu dƣỡng đạo đức bản thân. Cơng tác giáo dục đồn viên, thanh niên
thời gian qua đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, tác giả cho rằng: “Bên
20
cạnh những điều kiện thuận lợi rất cơ bản để học tập, trƣởng thành, thanh niên cũng
chịu những tác động không nhỏ do mặt trái của sự phát triển đem lại. Những tác
động tiêu cực ấy dẫn đến hậu quả tất yếu là trình độ giác ngộ, tinh thần trách nhiệm,
ý thức và tổ chức kỷ luật của một bộ phận thanh niên còn thấp; một bộ phận thanh
niên chƣa xác định đúng lý tƣởng cách mạng, suy giảm niềm tin vào con đƣờng mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn” [138, tr.65]. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
thực trạng trên, song có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản nhƣ: do mặt trái của
nền KTTT dẫn đến những tiêu cực trong xã hội ngày càng trở nên phổ biến; tệ tham
nhũng, quan liêu, cửa quyền; do diễn biến hồ bình, nhất là diễn biến hồ bình trên
lĩnh vực tƣ tƣởng, văn hố của các thế lực thù địch.
Cuốn sách “Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” của các tác giả Lƣơng Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt [5].
Nghiên cứu về thực trạng GDĐĐ cho SV trong các trƣờng đại học, cao đẳng thời
gian vừa qua tập thể tác giả cho rằng các trƣờng đại học, cao đẳng đã thực hiện
chƣơng trình “Tuần lễ sinh hoạt chính trị” cho SV đầu khố theo đúng tinh thần chỉ
đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo; qua đó, đã góp phần tuyên truyền, giáo dục những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giúp SV nắm đƣợc tình hình thời sự về kinh
tế, chính trị trong nƣớc và trên thế giới, góp phần củng cố, bồi dƣỡng niềm tin của
SV vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, việc GDĐĐ mới cho SV thơng qua
việc giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đạo đức
học, luật học đã góp phần trang bị thế giới quan và phƣơng pháp luận khoa học,
hiểu đƣợc quy luật vận động và phát triển của xã hội, nắm đƣợc những vấn đề cơ
bản về đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc. Tác
giả cho rằng, trong quá trình GDĐĐ, ngƣời thầy sẽ có sự ảnh hƣởng rất lớn đến quá
trình hình thành nhân cách của SV, một ngƣời thầy mẫu mực, tận tụy và có trách
nhiệm bao giờ cũng đƣợc SV yêu mến và quý trọng, thậm chí có thể đƣợc SV coi là
mẫu hình lý tƣởng, là thần tƣợng để SV phấn đấu, học theo. Qua nhiều năm phấn
đấu, phát triển ngành giáo dục và đào tạo đã có một đội ngũ nhà giáo đơng về lượng
và đủ về chất, đáp ứng đƣợc yêu cầu ngày càng cao của giáo dục. Hầu hết các thầy
cô giáo đều tâm huyết, tận tụy với SV, là những gƣơng sáng về đạo đức và nhân
21
cách để ngƣời học noi theo. Tuy nhiên, việc GDĐĐ cho SV ở các trƣờng đại học,
cao đẳng trong thời gian vừa qua cũng còn những hạn chế nhất định. Một số trƣờng
chỉ chú trọng luyện tài mà chƣa thực sự chú trọng đến rèn đức cho SV, coi nhẹ việc
GDĐĐ cách mạng cho SV. Sự kết hợp giữa các chủ thể trong công tác GDĐĐ thiếu
nhất quán và chƣa đồng bộ.
Về thực trạng GDĐĐ cho SV trong thời gian vừa qua, cá nhân nghiên cứu
sinh đặc biệt tán thành quan điểm nghiên cứu của tập thể tác giả và sẽ làm rõ thêm
thực trạng về đạo đức, công tác GDĐĐ cho SV trong các trƣờng đại học, cao đẳng
ở TP.HCM hiện nay, qua đó góp phần đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho SV TP.HCM.
Bài viết “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các
trường đại học hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thọ [151]. GDĐĐ đóng một vai
trị quan trọng, góp phần tạo ra những cử nhân vừa có tài, vừa có đức, vừa “hồng”
vừa “chuyên” là một nhiệm vụ không thể thiếu trong các trƣờng đại học. Thông qua
GDĐĐ cùng với giáo dục tri thức của các lĩnh vực chuyên ngành nhà trƣờng sẽ góp
phần đào tạo và định hƣớng cho SV, hƣớng SV đến những giá trị tốt đẹp trong cuộc
sống, giúp họ trở thành những con ngƣời có ích cho xã hội, cho Tổ quốc. Nghiên
cứu thực trạng GDĐĐ cho SV trong các trƣờng đại học hiện nay tác giả cho rằng:
“Về ƣu điểm: một số trƣờng GDĐĐ đã thực sự đƣợc coi trọng, môn Đạo đức học là
một trong những mơn học bắt buộc trong chƣơng trình, có giáo trình riêng. Các hoạt
động Đoàn, Hội cũng thƣờng nhấn mạnh đến những giá trị đạo đức, hƣớng tới
GDĐĐ cho SV” [151, tr.23]. Tuy nhiên, tác giả cho rằng bên cạnh đó cũng còn
những hạn chế nhất định nhƣ: “Một số trƣờng chỉ chú trọng rèn luyện tài mà chƣa
chú trọng đến rèn đức cho SV và đơi khi chính ngƣời GDĐĐ lại chƣa thực sự là tấm
gƣơng đạo đức cho SV noi theo, điều này cũng ảnh hƣởng lớn đến quá trình
GDĐĐ” [151, tr.23-24].
Ban Thanh niên trƣờng học – Trung ƣơng Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh với bài viết: “Các hoạt động phong trào của Đồn TNCS Hồ Chí Minh góp
phần GDĐĐ, lối sống cho HSSV” [19]. Đạo đức, lối sống của HSSV là tổng thể
những phẩm chất đạo đức, nếp sống, tâm trạng, nguyện vọng đƣợc thể hiện trong
22
hoạt động học tập, giao tiếp, ứng xử, hoạt động chính trị - xã hội của cá nhân
HSSV. Đánh giá thực trạng đạo đức và GDĐĐ cho SV hiện nay, Trung ƣơng Đồn
TNCS Hồ Chí Minh cho rằng: “SV hiện nay thì đa số có mục đích, lý tƣởng, nhận
thức rõ học tập là nhiệm vụ hàng đầu, tích cực học tập. Thực hiện tốt kỷ luật và quy
định của nhà trƣờng. HSSV ngày càng mạnh dạn, chủ động và thực tế hơn trong các
mối quan hệ chia sẻ, trách nhiệm, biểu hiện sự thẳng thắn, thực tế trong quá trình
giao tiếp” [19, tr.50]. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ
HSSV có những biểu hiện tiêu cực trong tƣ tƣởng, đạo đức và lối sống nhƣ: lƣời và
thiếu trung thực trong học tập; có biểu hiện vi phạm pháp luật nhƣ báo chí đã phản
ánh gần đây: bạo lực học đƣờng, trộm cắp, nghiện các trị cờ bạc, nghiện “nét”,
sống tự do, bng thả. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên là do: Một là,
ngun nhân từ phía gia đình. Hai là, ngun nhân từ phía nhà trƣờng. Ba là,
nguyên nhân tác động từ xã hội. Bốn là, yếu tố chủ quan của bản thân HSSV.
1.2.2. Những cơng trình nghiên cứu về phƣơng hƣớng và giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho SV Thành Phố Hồ Chí Minh
Trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng đạo đức, lối sống và việc GDĐĐ cho
thanh niên, SV hiện nay các học giả, các nhà khoa học đã cho ra đời nhiều cơng
trình có giá trị lý luận và thực tiễn.
Tác giả Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu trong cuốn sách “Hệ thống phạm trù
đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” [86]. Trên cơ sở nghiên cứu một số
phạm trù cơ bản của đạo đức học, tác giả đã đề xuất những giải pháp GDĐĐ cho
SV. Tác giả cho rằng, để GDĐĐ cho SV thì việc giáo dục thế giới quan khoa học,
nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa là một vấn đề cấp thiết, vì vậy phải khơng
ngừng nâng cao việc giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lênin trong các trƣờng đại học.
Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra vai trò quan trọng của đội ngũ giảng viên giảng dạy
các môn khoa học Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Do đó, tác giả cho rằng cần
có những biện pháp để thu hút những giảng viên trẻ của các trƣờng đại học, những
SV trẻ có khả năng tham gia vào công tác nghiên cứu, giảng dạy các môn học chủ
nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, bồi dƣỡng kinh nghiệm và cơng tác
nghiên cứu cho họ nhằm đảm bảo tính kế thừa giữa cán bộ trẻ và cán bộ lớn tuổi.
23
Cuốn sách “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh
viên ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của tác giả Phạm Tấn Xuân Tƣớc, Huỳnh
Thị Gấm [147]. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đạo đức, lối sống của SV các
trƣờng đại học tại TP.HCM tập thể tác giả đã đƣa ra những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác GDĐĐ, lối sống cho SV. Trong việc GDĐĐ, tác giả cho rằng
cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội trong việc GDĐĐ.
Ngoài ra, SV cần phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của mình trong q trình
hồn thiện nhân cách, đạo đức và lối sống. Đặc biệt, nhóm tác giả cho rằng việc
GDĐĐ cho SV thông qua việc nêu gƣơng ngƣời tốt, việc tốt có ý nghĩa quan trọng
giúp SV tự nhận thấy mình có thể noi theo gƣơng tốt và làm việc tốt để trở thành
ngƣời có ích cho xã hội.
Bài viết “Giáo dục đạo đức thông qua học tập của sinh viên tại Bảo tàng:
Thực trạng và giải pháp” của tác giả Trần Thị Ngọc Lan, Nguyễn San Hà [100].
Bảo tàng có vị trí quan trọng trong việc học tập nói chung và giáo dục nói riêng cho
SV các trƣờng đại học, cao đẳng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho SV, tập
thể tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản: Một là, cần có sự phối hợp tích cực
hơn nữa giữa Bộ Giáo dục & Đào tạo và hệ thống Bảo tàng trong cả nƣớc trong việc
khuyến khích HSSV đến Bảo tàng. Hai là, hãy để Bảo tàng là địa chỉ thân thuộc đối
với mọi ngƣời. Đặc biệt là các em học sinh, các bạn SV. Ba là, hƣớng đến việc
thành lập Câu lạc bộ tình nguyện viên, để trở thành hƣớng dẫn viên, thuyết minh
viên Bảo tàng có thể là những bạn SV. Bốn là, tăng cƣờng thực hiện “Xã hội hoá
Bảo tàng”, “Đưa Bảo tàng đến với mọi người”. Năm là, các trƣờng đại học, cao
đẳng nghiên cứu thiết kế giữa học tập trên lớp với thực tế tại Bảo tàng [100, tr.227].
Trần Mai Ƣớc với bài viết “Những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Ngân hàng
TP.HCM trong giai đoạn hiện nay” [155]. Trong xu thế hội nhập và tồn cầu hố
về kinh tế và các lĩnh vực xã hội khác, sự bùng nổ về thông tin đã tạo điều kiện cho
SV Việt Nam nói chung, cũng nhƣ SV đại học Ngân hàng TP.HCM nói riêng tiếp
thu, phát triển những tri thức tiến bộ của nhân loại. Bên cạnh đó, cũng đặt ra những
thách thức đối với SV, bởi vì khơng phải SV nào cũng có hoài bão, ƣớc mơ, lý