Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ Tràng Giang (Huy Cận), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.29 KB, 3 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 9.4. Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ ''Tràng Giang'' (Huy
Cận), ''Đây mùa thu tới'' (Xuân Diệu), ''Đây thôn Vĩ Dạ'' (Hàn Mặc Tử).
Phân tích những nét chung của thiên nhiên trong ba bài thơ và chỉ ra đặc
điểm riêng của thiên nhiên trong từng bài thơ.
Thiên nhiên la đề tài muôn thủa của thi ca và nhạc hoạ. Các thi sĩ đến với
thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai có thể quên
thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ
Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không
ai co' thể quên trong phong trào thơ mới (1930-1945) từng co' một tiếng reo ''Đây
mùa thu tới'' của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với ''Tràng Giang'' của Huy
Cận và một niềm hẫng hụt, chơi vơi với ''Đây thôn Vĩ Dạ'' của Hàn Mặc Tử.
Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong ''Đây mùa thu tới'' thật
đẹp mà cũng thật buồn- một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca
trung đại. Cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn
mực cho vẻ đẹp con người, như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: ''Khuôn trăng
đầy đặn, nét ngài nở nang- Hoa cuời ngọc thốt đoan trang- Mây thua nước tócTuyết nhường màu da'' (Truyện Kiều). Nhưng với Xuân Diệu- ''nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ mới''- con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:
''Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.''
Chưa ai có một cáci so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người
thiếu nữ đứng xoã tóc ''chịu tang''. Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là
một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi
buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu
với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau ''hàng hàng rủ
xuống như ''lệ'' giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng
tắng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:
''Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá


Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh''
Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xác xơ trơ trụi,
khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se lạnh: ''Đã nghe rét mướt
luồn trong gió''. Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm
nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình- diều ấy thể hiện qua nghệ quật sử dụng
phụ âm '' r '' (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm '' m '' (mỏng manh)- không
giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi ''Lá vàng trước gió
khẽ đưa vèo'' (Mùa thu câu cá- Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu
vẫn chủ yếu là tĩnh lặng... Cùng với ''lá vàng'' trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng
biết bức tranh ''Mùa thu vàng'' của danh hoạ Lêvitan, nhưng không đâu có một
màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào trong bài thơ ''Đây mùa
thu tới'' của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một
''không gian vàng''- một màu vàng ''mơ phai'' rất riêng, rất khó lẫn. Đó là cái màu
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

vàng của ''cái hồn thu qua sắc lá'' (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi
vị, thêm đáng yêu. ''Mùa thu tới!''- Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của
mùa thu và đã reo lên sung sướng ''Đây mùa thu tớ! Mùa thu tới!''. Giai điệu rộn rã
của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát
vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy ''giục giã'',
''vội vàng''.
Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong
''Đây mùa thu tơí'' đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong ''Tràng Giang'' lại mang vẻ
đẹp hùng vĩ rợn ngợp của ''trời rộng'', ''sông dài'':
''Sóng gợi trang giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
....Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu''
Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sống mênh mang, chảy dài
giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không
bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buồn
trôi thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi
buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh vật ở đây rất
sầu: từ ''con thuyền'', ''cành củi khô'' đến ''nước'', ''sóng'' và cả bờ xanh'', ''bãi
vàng'', ''bến cô liêu'' đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi buồn điệp điệp'' triền miên lan toả
xuyên suốt bài thơ và cồn caò, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài:
''Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà''.
Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất
tận, theo sóng nước lan toả rẩ xa, buồn hơn nhiều so vơi Thôi Hiệu (Đời ĐườngTrung Quốc): ''Yên ba giang thượng sử nhân sầu'' (trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai?). Từ nỗi buồn dằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh mang đất trời.
Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài- rộng, cao- sâu. Đó là cái đẹp lặng
lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi được Huy Cận dựng
lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu màu sắc cổ điển mà vẫn
mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn ''mang mang sầu thiên cổ'' và một cái
gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn còn vương vấn nơi bãi rộng sông
dài với ''bến cô liêu'', với ''bèo dạt'', ''mây'','' cánh chim'', ''bóng chiều'', với ''khói
hoàng hôn'', với tình quê đậm đà, da diết cháy trong lòng thi nhân.
Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ, mang nỗi buồn của nhà thơ.
Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn
mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong
''Tràng Giang'', ''nỗi buồn thấm trong từng câu chữ'', đầy như dòng sông Hồng
cuồn cuộn chảy.
Trong bài thơ ''Đây mùa thu tới' nỗi buồn toả ra từ niêm cô dơn, quạnh
vắng, còn trong bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị
lãnh quyên của nhà thơ. Nhưng khác với ''Đây mù thu tơi'' và '' Tràng Giang'', bài
thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' là một bài thơ có ''bước nhảy cảm xúc'' (Vũ Quần Phương),

co sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

mỗi khổ là một câu hỏi ngắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Từ, gắn với
những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ một, thi sĩ đang
vui sướng ''nhìn nắng hàng cau nắg mới lên, ngắm vườn ai mướt quá xanh như
ngọc'' thât đẹp đẽ của thôn Vĩ Dạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ- thánh thiện, vẻ đẹp
tươi tắn, rạng rỡ, tinh khôi của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng hoài niệm của
Hàn Mặc Tử. Đến khổ thơ thứ 2, cảm xúc thi nhân chợt lắng xuống thoáng buồn:
''Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?''
Bài thơ ''Đây mùa thu tới'' nói về nỗi buồn tàn lụi, chia lìa: ''Hơn một loài
hoa đã rụng cành, trong vuờn sắc đỏ rũa màu xanh'' với cách nói phiếm định: ''hơn
một'' đậm màu sắc văn hoá phương Tây đầy mới mẻ. ''Tràng Giang'' nói về nỗi
buồn li biêtj của cảnh: ''Con thuyền xuôi mái nước song song'' mang dấu ấn cổ
điển. Và ''Đây thôn Vĩ Dạ'' cũng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: ''Gió theo lối gió
mây đường mây- Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay'' nhưng không đơn giản chỉ có
thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là
dòng ''sông trăng'' chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái
đẹp tinh khôi của xứ Huế mộng mơ thực tạo, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử
hướng về một cái đẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Cũng như nỗi buồn
của Xuân Diệu trong bài thơ ''Đây mùa thu tới'', nỗi buồn của Hàn Mặc Tử ở đây
cũng thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triển miên, dữ dội như sóng của Huy
Cận trong bài thơ ''Tràn Giang''.
Với thể thơ thât' ngôn truyền thống, nhìn chung, nỗi buồn của thơ Xuân

Diệu là nỗi ''buồn không nói'', của Huy Cận là nỗi ''buồn điệp điệp'', của Hàn Mặc
Tử là nỗi ''buồn thiu''. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu
một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được thi nhân nhắc đến là để xoa dịu
nỗi buồn bị quyên lãng (''Đây thôn Vĩ Dạ''); xoá cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm
đến một tình quê ấm áp (''Tràng Giang''); xoá cái lạnh của lòng người, tìm đến một
tình yêu, một khát vọng giao cảm với thiên nhiên, với cuộc đời (''Đây mùa thu
tới''). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một
cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.
Thiên nhiên trong Thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng, văn hoá của
các nhà thơ lãnh mạn trước cách mạng tháng Tám. Đó cũng là minh chứng cho
tình yêu quê hương, đất nước của các nhà Thơ mới nói chung và củ Xuân Diệu,
Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng.
***

3



×