Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận: nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãnh mạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.6 KB, 5 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 12.4. Phân tích bài thơ ''Tràng Giang'' của Huy Cận để chứng minh
bài thơ mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa
lãnh mạn rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước CM tháng Tám
Xuân Diệu đã tự ví mình và Huy Cận như Rim-bô và Véc-len: ''Hai chàng
thi sĩ choáng hơi men- Say thơ xa lạ mê tình bạn- Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối
quen!''- ''Say thơ lạ''- đó là thơ lãng mạn phương Tây của thế kỉ XIX. Tuy vây,
Huy Cận còn là con người rất thích thơ đường và trận trọng vốn thơ ca dân tộc. Từ
buổi thiếu niên tác giả đã thuộc lòng khá nhiều ca giao, thơ đường, thơ Nguyễn
Du... Lẽ vậy chăng trong những câu thơ tuyệt đỉnh của Huy cận có cả những vần
thơ vừa cổ điển, vừa lãnh mạn. Nét cổ điển và hiện đại đan cài vao nhau, kết hợp
hài hoà với nhau, trong thơ và trong con người thi sĩ Huy cận- sự kết tinh của hai
nền văn hoá Đông và Tây nhưng lại giao nhau ở một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm đa
sầu. Lần đầu tiên, Huy cận mang tác phẩm ''Lửa thiêng'' bỡ ngỡ theo Xuân Diệu
bước chân vào hội Tao đàn thì ''trong thơ Việt Nam nghe bừng dậy một tiếng địch
buồn''. Điệu buồn ảo não ở Huy Cận đã tự tìm đến một cảm hừng riêng để kí thác:
cảm hứng vũ trụ.
Như Voltaire từng nói: ''Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn
cao cả, đa cảm''. Và ''Tràng giang'' mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong
giọng thơ vừa cổ điển vừa lãnh mạn, rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước
Cách mạng. Xuân Diệu đã có nhận xét rất tinh tế: ''bài thơ hầu như đã trở thành cổ
diển của một nhà thơ mới''. Nét cổ điển được thể hiện ngay từ tiêu đề tác phẩm:
''Tràng giang'' - ''Tràng'' là một âm khác ''Trường''- có nghĩa là dài. Tuy nhiên,
Huy Cận đã chọn Tràng Giang vì nó chẳng những đã chứa trong mình cả ''Tràng
giang'' mà nhờ âm ''ang'' đã gồm cả nét nghĩa sông rộng, sông lớn, mở ra một
khoảng không gian bao la vô tận vô cùng. Dường như cảnh càng bát ngát thì tình
càng miên man, và Huy cận, bởi ''quá cảm nghe với mênh mông thì giọng thơ của
người cũng lây cái sầu của vũ trụ''. Bài thơ mở ra bằng lời đề từ:
''Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài''.
Dưòng như đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là nỗi niềm


cảm nhận sâu xa của cái tôi cô đơn trước cái vô cùng của đất trời. Trong nỗi niềm
ấy, ''Tràng giang'' đầ nỗi nhớ không gian, khao khát được giao cảm giữa con người
với vũ trụ, đồng thời muốn hoà nhập giữa cái tiểu ngã hữu hạn với cái đại ngã vô
hạn. Thơ xưa các thi nhân tìm đến thiên nhiên vũ trụ luôn nhận mỗi đồng cảm
tương giao. Huy Cận cũng đến với vũ trụ. Thế nhưng khác xưa là, tác giả chỉ thấm
thía nỗi buồn của cái tôi cô độc, với cảm giác ''bâng khuâng'', ''dợn dợn'' trước
không gian bao la. Phải chăng, nguồn mạch thơ mới của bài ''Tràng giang'' cũng
chính là ở đó.
Trước hết, ta bắt gặp một không gian vũ trụ mênh mông: ''Sóng gợn tràng
giang buồn điệp điệp.''. Sắc thái cổ điển và hiện đại hoà quyện vào nhau, nhuần
nhuyễn để làm nổi rõ cảnh thiên nhiên vắng lặng và buồn. Tràng giang đó, bình
thản suy tư qua bao lớp sóng ''buồn điệp điệp'', qua dòng khơi ''nước song song'',
cảm giác buồn ấy lại gửi trong vần điệu, trong những từ gợi hình mỏng manh càng

1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

làm tăng thêm mỗi lúc và trải dài mãi không thôi, càng như thấm đẫm trong từng
cảnh vật.
''Nắng xuống trời lên sâu chót vót''.
Không gian như vụt lớn hơn. Trên bức tranh sông dài lại hiện lên bầu trời
thăm thẳm: ''sâu chót vót''- ''sâu'' đã gợi lên cho người đọc ấn tượng thăm thẳm,
hun hút, khôn cùng, mà lại là ''sâu chót vót'' thì chiều sâu lại càng vô tận. Câu thơ
bảy chữ thì có ba vần bằng nằm giữa bốn vần trắc, dường như nhấn mạnh thêm
không gian vô tận giữa mặt đất sâu thẳm và trời cao chót vót. Cái đẹp ở đây chính
là tác giả đã đặt hình ảnh ấy trong một thế giới hài hoà nghệ thuật tuyệt diệu ''nắng
xuống''- ''trời lên'' càng cao rộng, cảnh vật càng thêm vắng lặng. Nỗi buồn tựa hồ
như thấm vào không gian ba chiều. Con người như trở nên nhỏ bé và rợn ngợp

trước cái bao la vĩnh hằng của vũ trụ, cái xa vắng của thời gian:
''Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng''.
Cũng như trong câu thơ: ''Lớp lớp mây cao đùn núi bạc''. Thiên nhiên hiện
ra buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Nét đặc trưng này của không gian đã được Đỗ
Phủ miêu tả trong bài ''Thu hứng'':
''Lựng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây ùn cửa ải xa.''
Lấy lại ý thơ người xưa, hình ảnh ''mây cao đùn núi bạc'' trong bài thơ gợi
lên ấn tượng về sự mênh mông của vũ trụ. Nếu trên kia là sông nước ''Tràng
giang'': ''điệp điệp'', ''song song'' thì bây giờ là ''lớp lớp'' mây cao- những đám mây
trắng cứ đùn lên, trùng điệp phía chân trời. Huy Cận không viết ''đùn sóng bạc''nghĩa là những áng mây như muôn vàn con sóng tung bọt trắng, mà viết ''đùn núi
bạc'' khiến cho không gian vũ trụ không chỉ hiện lên bao la, vô tận mà còn hùng vĩ
nữa... Thế nhưng, cũng khác thơ xưa, cảnh vật mỗi lúc một bao la thì hồn hồn
người trong bài ''Tràng giang'' càng thêm cô độc, lạc loài. Thi nhân vốn ''sớm
vương nỗi sầu thiên cổ mang mang'' hẳn không khỏi khát khao được giao cảm,
tương đồng với trời đất vô cùng.
Nếu không gian vũ trụ qua ''Tràn giang'' hiện lên với tất cả vẻ đẹp bao la, kì
vĩ mênh mông thì đối lập với nó không gian của cõi nhân thế lại bé nhỏ, đơn côi,
lạc loài:
''Con thuyền suôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một càng khô lạc mấy dòng.''
Đó là hình ảnh của con thuyền côi cút và cành khô lạc loài giữa sông nước
mênh mông. Vào những năm ba mươi, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi nó xuất
hiện cái tầm thường nhỏ nhoi vô nghĩa như ''1 cành củi khô''. '' Trong cảm thức xa
vắng về không gian, đối với Huy Cận, con thuyền, cành khô chỉ gợi lên sự đơn lẻ
thấm thía nỗi buồn chia lìa lạc loài đang đón đợi. Thuyền ''về'' mà nước thì ''lại''
nghĩa là nghịch chiều nhau. Tuy chỉ có hai hướng thôi nhưng lại tạo lên ''mỗi sầu
trăm ngả'' và cành cây chỉ còn là ''củi một cành khô''. Nếu nói như Huy-gô ''ngôn
ngữ cũng chỉ là một sinh vật'' thì ở đây sinh vật ấy đang bơ vơ, đau xót, bất lực vì

nước xô đẩy: ''lạc mấy dòng'' nó hàm chứa cả cái gì đó côi cút, tan tác đến tội
nghiệp. Với cách đặt từ ''một'' ở giữa hai số từ ''trăm'' và ''mấy'' trong những câu
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

thơ khiến hình ảnh cõi nhân thế dường như càng nhỏ bé lại, bế tắc tột cùng. Tất cả
như bủa vây lấy cảnh vật trong sự lạc lõnh, đơn côi. Nỗi buồn đó càng như da diết
mãi không thôi:
''Lơ thơ còn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.''
Vài dải đất giữa dòng sông dài, vài ngọn gió hiu hiu nhưng không đủ làm
sống động cảnh vật, và âm thanh của tiếng ''làng xa vãn chợ chiều'' thì mơ hồ,
mong manh lắm không làm bớt đi sự vắng lặng của cảnh. Bấy nhiêu hình ảnh
dường như chỉ là những nét chấm phá, tô đậm thêm không gian cao rộng của vũ
trụ mà thôi.
Thơ đường tả ''Tràng giang'' chỉ qua một vài nét chấm phá đơn sơ, bình
lặng, hiền hoà, không đi sâu vào chi tiết:
''Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá Tràng Giang phẳng lặng tờ''.
Huy Cận cũng miêu tả tràng giang theo trường phái phương Đông truyền
thống. Nhưng ''Tràng Giang'' vẫn là một bài thơ hiện đại, không chỉ hiện đại ở
hình ảnh, thi liệu mà còn ở cảm xúc của nhà thơ lãnh mạn. Huy Cận đã soi ''chiếc
linh hồn nhỏ'' của mình trên sông nước tràng giang:
''Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.''
Một loạt tính từ ''mênh mông'', ''lặng lẽ'' đã gợi lên không khí vắng vẻ, u

buồn. Nỗi buồn như càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt trôi nổi
lênh đênh. Hình ảnh đó là ngẫu nhiên nhìn thấy hay vì thi nhân đã liên tưởng đến
thân phận ''hoa trôi bèo dạt'' của những kiêp' người chìm nổi long đong trong xã
hội. Tâm trạng chung của lớp trẻ những năm 30 là thế. Nhưng không phải vì vậy
mà họ quên hết chât' thơ chất đẹp ở đời. Ngay cả khi phủ định tất cả ''không một
chuyến đò ngang'', ''không cầu gợi chút niềm thân mật'' cũng chính là bộc lộ tấm
lòng thi nhân yêu cuộc sống, tha thiết mong mỏi niềm giao cảm. Không gian trần
thế vì vật qua cái nhìn thi sĩ dù sầu tư lai láng nhưng vẫn lung linh có hồn. Tình
càng sâu thì cảnh càng đẹp: ''Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa''.
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều ta càng gợi lên những nỗi buồn
xa vắng của lòng người. Những cánh chim ấy lại chao xuống vì sức nặng của
hoàng hôn nhịp nhàng với buổi chiều bóng xế. Hình ảnh đẹp vừa cổ điển, vừa lãnh
mạn. Nếu như Nguyễn Du thấy ''Bên cầu tơ liễu bóng chiều thuớt tha'', Hàn Mặc
Tử cũng nhận ra ''bóng xuân sang'' trên một giàn thiên lý thì Huy Cận, thi nhân
cũng rất tinh tế nhận thấy bóng chiều trong một cánh chim nghiêng. Chính là, nhà
thơ đã phá logic của cuộc sông' để đạt đến lôgíc của nghệ thuật. Cũng chính vì
vậy, cánh chim dường như hiện lên sinh động hơn, đẹp hơn và đặc biệt cũng buồn
da diết trước cái nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ bao la.
Từ những hình ảnh quen thuộc của cuôc sống thế gian, một cành củi khô,
còn cỏ lơ thơ, con thuyền nhỏ, cánh chim... Đã hắt vào tác phẩm vẻ tử biệt sinh li,
vẻ sầu bi của nó. Chỉ vài chi tiếu chấm phá thôi, Huy Cận đã khơi gợi cảm giác lẻ
3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

loi, chia li trong lòng người, trong cảnh vật. Đó cũng là tâm lí tự nhiên của con
người, cảm thấy nhỏ bé trước thiên điạ vô thuỷ, vô chung:
''Ai người trước đã qua
Ai người sau đã tới

Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ''.
(Trần Tử Giang)
Cảm tình ấy khiến thi nhân không thể không bâng khuâng và thầm mong
ước. Nó kết tinh thành tình quê hương tha thiết:
''Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà''.
Âm hưởng Đường thi triền miên trong câu thơ. Huy Cận lấy lại ý xưa của
thi nhân Thôi Hiệu: ''Nhật mộ hương quan hà xứ thị- Yên ba giang thượng sử nhân
sầu.'', nhưng Huy Cận khác, trong buổi hoàng hôn ấy không hề có ''trên sông khói
sóng'', tạo điều kiện phản xạ gợi nhớ ''hương quan'' (cổng làng- đường về quê cũ)
như thi phẩm ''Hoàng Hạc Lâu''. Phải chăng chính cảm giác ''dờn dợn'' của chủ thể
lãnh mạn đã làm nảy sinh tâm lí nhớ nhà. Nhớ nhà, muốn được trở về có mặt giữa
gia đình, quê cha là để hoá giải cảm giác ''dờn dợn'' bơ vơ của kẻ tha hương. Tình
quê hương trong bài thơ ''Tràng giang'' vì vật da diết hơn, thường trực hơn. Nó
không chỉ là những dòng suy nghĩ lộ thiên đơn giản, mà là xuất phát từ quy luật
thầm kín tự đáy thẳm tâm linh của con người.
Tuy vậy, ý thơ không chỉ dừng lại ở một tình quê hương thuần tuý. Phải
chăng, ''lòng quê hương dờn dợn vời con nước'' còn thể hiện nỗi niềm của một cái
tôi cô độc, nhỏ bé trước vũ trụ đang tìm về giao hoà, nương tựu với cái ta rộng lớn
hơn. Chất lãnh mạn của bài ''Tràng giang'' là đấy, bên cạnh nỗi niềm quê hương là
nỗi niềm nhân thế: ''Đạm đạm trường giang thuỷ- Du du viễn khách tình''.
Có thể nói ''Tràng giang'' là một bài thơ chứa đầy không gian và tâm trạng;
là không gian vũ trụ, cảnh sắc bao la, vô tận mà cũng thật tráng lệ; là không gian
nhân thế, cảnh lại hiện lên cô đơn, lạc loài. Bao trùm lên bức tranh thiên nhiên là
sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Duy chỉ có tiếng lòng nhà thơ đang thầm vọng
trong xa thẳm:''Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài''.
Hai muơi năm sau, cũng đứng trước một khoảng không gian vô tận của đại
dương vào lúc hoàng hôn, Huy cận đã viết những vần thơ vui tươi khoẻ khắn:
''Mặt trời xuống biển như hòn lửa.

Sóng đã cài then đêm sập cửa
oàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi''.
Nhưng đó là sau này, khi Huy Cận đang viết ''Trời mỗi ngày lại sáng''. Còn
ở đây, cảm giác vũ trụ ở Huy Cận là sự khắc khoải cô đơn khi đối diện với trời đất
vô tận vô cùng. Bài thơ ''Tràng giang'' vì thế mang nỗi buồn mênh mang sâu lắng
trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãnh mạn. Nỗi buồn của Huy Cận trước sau vẫn là
nỗi buồn trong sáng, gop' phần làm phong phú hồn người và làm nên vẻ đẹp riêng
của bài thơ.
***
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

5



×