Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.65 KB, 30 trang )

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề liên quan đến sứ mệnh lịch
sử của Giai cấp công nhân Việt Nam.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai cấp công nhân
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin giai cấp công nhân và sứ mệnh
lịch sư của giai cấp công nhân
1. Khái niệm giai cấp công nhân
1.1. Định nghĩa
Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động trong quá trình sản
xuất vật chất có tính chất công nghiệp với trình độ công nghệ- kĩ thuật hiện đại, là
giai cấp của những người mà hoạt động lao động của họ (sức lao động của họ kết
hợp với tư liệu sản xuất) sẽ tạo ra giá trị thặng dư- nguồn gốc của sự giàu có
trong xã hội.
Xét về phương diện phương thức sản xuất, giai cấp công nhân là những
người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Vị trí của giai cấp công nhân
trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư
liệu sản xuất buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về
giá trị thặng dư. Nó là một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về quy mô xã hội, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với
nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao.
Khẳng định điều này, Mác đã chỉ rõ: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp”; “Công nhân cũng là một phát minh của thời đại
mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công
nghiệp hiện đại”.
1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân


+ Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, giai cấp đại diện cho lực lượng


sản xuất có trình độ xã hội hóa ngày càng cao và sản xuất ra tuyệt đại bộ phận của
cải cho xã hội, vì vậy mà giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho phát triển sản
xuất mới cao hơn phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, trong xã hội
tư bản, GCCN bị tước hết mọi tư liệu sản xuất, bị áp bức bóc lột nặng nề, nạn thất
nghiệp, khủng hoảng, lạm phát luôn đe dọa cuộc sống của họ. Nguồn gốc của tình
cảnh đó là do chế độ tư hữu TBCN gây ra. Vì vậy GCCN chỉ có thể hoàn toàn giải
phóng khi xóa bỏ CNTB- chế độ cuối cùng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về TLSX
trong cuộc đấu tranh giai cấp công nhân không những giải phóng cho mình mà giải
phóng cho toàn xã hội.
+ Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỉ luật cao trong nền sản
xuất công nghiệp hiện đại, với sự phân công chuyên môn hóa và hợp tác ngày càng
cao đã tôi luyện cho GCCN ý thức tổ chức kỉ luật.
+ Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế, giai cấp công nhân tất
cả các nước đều có địa vị kinh tế- xã hội và lợi ích giống nhau nên mục tiêu đấu
tranh là thống nhất. Cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN chống GCTS thực chất
là cuộc đấu tranh quốc tế.
2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của GCCN là toàn bộ những nhiệm vụ mà một giai cấp có
thể cần phải thực hiện nhằm thủ tiêu chế độ xã hội cũ đã lỗi thời, thiết lập một chế
độ xã hội mới tiến bộ hơn. Những nhiệm vụ lịch sử ấy không chỉ phù hợp với lợi
ích của giai cấp có SMLS mà điều cơ bản còn là do chính địa vị kinh tế - xã hội
khách quan của giai cấp đó qui định.
Khi bàn về SMLS của GCCN theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác –
Lênin, phạm trù SMLS của GCCN bao gồm 2 nội dung cơ bản nhất:
Một là: Lật đổ chế độ TBCN và GCTS giành chính quyền về tay GCCN và
nhân dân lao động. GCVS trước hết phải giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền,
điều mà Mác và Ăng-ghen đã nói trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản.



Hai là: Lãnh đạo, tổ chức và thực hiện quá trình xây dựng xã hội mới
XHCN và cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi mỗi dân tộc và trên phạm vi toàn thế
giới, thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và giải phóng con người.
Bên cạnh đó còn một số nội dung khác cũng quy định việc hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân như:
- Quá trình xã hội hóa và quốc tế hóa nền sản xuất công nghiệp với tư cách
là giai cấp tiên tiến, sản phẩm của nền đại công nghiệp, dù trong CNTB hay trong
CNXH, GCCN cũng phải thường xuyên quan tâm và thực hành phát triển nền sản
xuất công nghiệp hiện đại. Tách rời sản xuất công nghiệp hiện đại, ngày nay là nền
kinh tế tri thức- thì GCCN cũng không có điều kiện để phát triển và do đó càng
không thể thực hiện thắng lợi SMLS của mình. Nhận thức được nội dung này, một
mặt trong các nước TBCN cần khắc phục quan điểm tuyệt đối hóa nội dung chính
trị, nội dung “giành chính quyền” mà không thấy rằng, mâu thuẫn chính trị giữa
GCCN và GCTS cũng chỉ là sự biểu hiện của mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn giữa
LLSX xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Không có
mâu thuẫn cơ bản về kinh tế này, đương nhiên không có mâu thuẫn chính trị để
giải quyết bằng cách giành chính quyền. Mặt khác, trong các nước XHCN nhận
thức đúng điều này sẽ góp phần khẳng định nhận thức đúng rằng sẽ không có tình
trạng GCCN thất nghiệp mà lại thực hiện được SMLS của mình.
- Thông qua đảng tiên phong của mình, GCCN lãnh đạo tổ chức và thực
hiện quá trình giành chính quyền và sử dụng chính quyền, biến những TLSX chủ
yếu của xã hội về tay GCCN và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư
nhân TBCN về TLSX chủ yếu, thực hiện quá trình xã hội hóa những TLSX, mở
đường cho LLSX phát triển.
- Thông qua đảng tiên phong của mình, GCCN lãnh đạo tổ chức thực hiện
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội XHCN và cộng sản chủ
nghĩa ở mỗi nước và trên toàn thế giới, nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội, giải phóng triệt để con người, mục tiêu cao cả của SMLS toàn thế giới của
GCCN. Thực hiện SMLS này là vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài đòi hỏi GCVS



một mặt phải kiên trì thực hiện SMLS trong thời gian lâu dài, mặt khác phải
thường xuyên gắn bó với dân tộc, thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để
tạo nên sức mạnh tổng hợp, đồng thời phải thường xuyên đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội đủ các loại, chống mọi kẻ thù của nhân dân và tất cả những thế lực
thù địch với CNXH và CNCS.
Thực tế đã cho thấy, do tính chất xã hội hóa, quốc tế hóa của bản thân nền
sản xuất công nghiệp hiện đại ngày càng tăng lên, các quốc gia riêng lẻ đã không
ngừng gắn kết với nhau, do đó GCCN ở tất cả các nước đều bị GCTS áp bức, bóc
lột và ở tất cả các nước quốc gia riêng lẻ nảy sinh những mâu thuẫn giữa tư sản và
vô sản tương tự như nhau đã tạo ra một tất yếu là “ Vô sản toàn thế giới liên hiệp
lại”. Bởi vậy, để có cái nhìn khác quan khoa học về GCCN và SMLS của nó, nhất
thiết không thể chỉ thấy một bộ phận công nhân còn hạn chế về nhiều mặt trong
mỗi nước, không thể tách riêng GCCN mỗi nước với GCCN thế giới.
Ngày nay, trình độ xã hội hóa và quốc tế hóa trong công nghiệp hiện đại
ngày càng cao, cả thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa, do đó GCCN các
nước ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau hơn. Những điều kiện liên hợp về sản
xuất, kinh tế vẫn luôn là yếu tố khách quan, quyết định cuối cùng sự liên hợp về tất
cả các lĩnh vực khác giữa GCCN các nước. Không chỉ GCCN các nước có nền
công nghiệp phát triển mới có SMLS, trái lại dưới sự liên hiệp của GCCN ở những
nước kém phát triển cũng có SMLS- thủ tiêu áp bức bóc lột, xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
2.1. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
+ Sứ mệnh lịch sử của GCCN không phải sự chuyển biến từ chế độ tư hữu
này sang chế độ tư hữu khác nhằm thay đổi hình thức bóc lột này sang hình thức
bóc lột khác mà xóa bỏ chế độ tư hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, xóa bỏ mọi
hình thức người bóc lột người để tiến tới xóa bỏ giai cấp nói chung.
+ Sứ mệnh lịch sử của GCCN là sự thống nhất biện chứng của hai quá trình:
cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới- trong đó, quá trình xây dựng xã hội mới

là quan trọng và quyết định nhất.


+ Sứ mệnh lịch sử của GCCN là sứ mệnh của toàn thế giới. Sứ mệnh của
giai cấp công nhân là sự thống nhất giữa hai yếu tố giai cấp dân tộc và giai cấp
quốc tế.
2.2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C. Mác và
Ph. Ăng ghen trình bày sâu sắc trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác
phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
Do địa vị kinh tế- xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với
lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Đồng thời nó là lực lượng
quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền,
giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả
năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, được rèn
luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp
trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng
triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt
khách quan của họ đã quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải
phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ
không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
Địa vị kinh tế- xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân
trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng tiến hành sự
nghiệp cách mạng vẻ vang là giải phóng toàn xã hội. Đó là khả năng đoàn kết
thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của của giai cấp

mình, khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C. Mác, Ph. ăngghen và V.I.
Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu


tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không
phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử
thách hết sức nặng nề, nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp
công nhân, lực lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan
cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng
trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.
Thực tế hiện nay ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận
không nhỏ trong giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao; một bộ
phận công nhân ở các nước trên đã có mức sống “trung lưu hóa”, song điều đó
không có nghĩa là công nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột
không đáng kể. Một thực tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước
tư bản phát triển, đó là sự bất công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa
giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng tìm
cách “thích nghi” và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản không thể khắc
phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Những mâu thuẫn xã hội, bất
bình đẳng về mặt lợi ích giai cấp, nó luôn là “yếu tố tiềm ẩn” thúc đẩy cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư sản.
2.3. Những nhân tố chủ quan trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một tất yếu lịch sử trong tiến trình
giải phóng loài người. Song, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó ngoài các yếu tố
khách quan thì phải có những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy,
việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp
công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn

thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp
công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và
chất lượng. Mặc dù nhân loại đang dần chuyên sang nền sản xuất “kinh tế tri thức”
nhưng số lượng công nhân ngày càng tăng, đồng thời đa dạng hơn về mặt cơ cấu


các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú hơn. Về chất lượng
giai cấp công nhân hiện nay có sự nâng cao về trình độ học vấn, khoa học công
nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã tiến hành
các hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn,
công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp rõ rệt, giác ngộ giai cấp. Tất yếu của sự
giác ngộ giai cấp đã đưa đến việc thành lập chính đảng tiên phong của giai cấp
công nhân. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là
“giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là “giai cấp vì
nó” (tức giai cấp tự giác). Vì vậy, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị quan
trọng nhất của đảng cộng sản.
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý
luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin thì phong trào cách mạng
của nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Với sự giác ngộ tự giác, trình độ lý
luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong
xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết,
nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải
phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
Chỉ có tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, lấy đó làm lý luận cách mạng khoa
học thì giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch sử
của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự
hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đảng là sự
kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng trong mỗi
nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con

đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian. Ở nhiều nước thuộc
địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản. Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dung sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.


Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh
tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác
và thực sự cách mạng. C. Mác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình
chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản
tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lại quyền lực
liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức
được thành một đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập
ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được.
Đảng cộng sản phải là đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân
và toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Cho nên đảng phải có một lý luận cách
mạng khoa học, định hướng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có đường
lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và toàn bộ
phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai
cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của đảng,
đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là biểu hiện tập
trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân
tộc. Giữa đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời.
Những đảng viên của đảng cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là
người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường
của giai cấp này.
Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết
định sự thắng lợi trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Đảng với giai cấp là

thống nhất, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai
cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ
cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động
cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân
lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của đảng nhằm
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.


Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam
I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân Việt Nam
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giai phóng con người.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân Việt Nam
Xuất phát từ lòng yêu nước và ước muốn giải phóng cho đồng bào mình
khỏi áp bức, bất công, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm con đường cứu nước. Trên hành
trình vĩ đại ấy, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, cũng từ đây Người đã
nhận rõ vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân thế giới nói chung và công nhân
Việt Nam nói riêng.
Trải qua những tháng ngày lao động cùng quần chúng nhân dân lao động
nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã thấy rõ cảnh bất công của xã hội tư bản,
Người cảm thông với cảnh lao động cực nhọc và đời sống khó khăn vất vả của
công nhân và nhân dân lao động các nước không kể da trắng, da vàng hay da đen,

Người rút ra kết luận: ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu giai
cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị áp bức bóc lột dã man, ở đâu người
dân mất nước cũng khổ nhục như nhau. Hồ Chí Minh còn nhận rõ rằng giai cấp
công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu
cũng là thù. Người nhận xét: dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình
hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản.


Từ một thanh niên trí thức yêu nước, Hồ Chí Minh đã trở thành người công
nhân. Người hiểu rõ rằng giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp là bạn còn
bọn thực dân, đế quốc Pháp mới là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Người cũng
nhận rõ: giai cấp công nhân các nước kể cả thuộc địa và chính quốc phải đoàn kết
để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản.
Cuối năm 1917, khi chiến tranh thế giới thứ nhất đang diễn ra ác liệt, tình
hình Đông Dương cũng có những biến động, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp để
có điều kiện trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công
nhân Pháp. Ở đây, Người vừa hoạt động chính trị vừa làm thuê, khi thì rửa ảnh, khi
thì vẽ thuê cho cho xưởng đồ cổ mỹ nghệ, Hồ Chí Minh tiếp tục cuộc sống của
những người lao động và tham gia hoạt động Công đoàn tại xí nghiệp kim khí,
quận 17 Paris, tham gia hoạt động trong đảng xã hội Pháp, những nhận thức của
Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân ngày càng được khẳng định và sáng tỏ.
2. Giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương
trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh
doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3. Những đặc điểm chủ yếu quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt nam từ thời kỳ khai thác thuộc


địa của thực dân Pháp lần thứ hai (1924-1929). Cùng với quá trình phảt triển của
cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai
cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc
tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng:
Thứ nhất: Sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,
có truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai
cấp công nhân đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận
và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu
nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai: Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng
trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh
giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Viêt Nam luôn có tinh thần và
bản chất cách mạng triệt để.
Thứ ba: Giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động, bị thực
dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên có mối quan hệ máu thịt với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh
giai cấp đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.

Thứ tư: Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam
luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực
lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức
hiện đại.
Thứ năm: Quá trình “trí thức hoá” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ,
từng bước hình thành giai cấp công nhân trí thức Việt Nam.
Việc hình thành giai cấp công nhân trí thức không có nghĩa là sự bổ sung
vào lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà là giai cấp
công nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động- lao
động điều khiển những công nghệ tự động hoá của nền kinh tế tri thức.


II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam
Tuy ra đời muộn so với tiến trình lịch sử của dân tộc, giai cấp công nhân
Việt Nam là sản phẩm của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp
(1897-1914), hầu hết đều xuất thân từ nông dân, nhưng giai cấp công nhân Việt
Nam lại gánh vác một sứ mệnh lịch sử hết sức to lớn là lãnh đạo cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ chỗ không được ghi trong danh sách “mười hạng
người đồng tâm cứu nước”, nhưng dưới sự dìu dắt, rèn luyện và lãnh đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam đã trở thành một lực lượng cơ bản
của cách mạng và cùng với nông dân trở thành đội quân chủ lực của cách mạng, là
lực lượng dũng cảm nhất, cách mạng nhất, người lĩnh áng tiên phong- vũ khí sắc
bén nhất của thời đại- chủ nghĩa Mác-Lênin để đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và
lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sát sao đến phong trào công nhân trong
nước, Người nói “Đảng ta không những chỉ tăng cường công tác tuyên truyền
trong công nhân mỏ và các ngành kinh tế quan trọng khác, mà còn chú ý đến
những công nhân thất nghiệp, thợ thủ công ở thành thị và công nhân nông thôn”.

Tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), Bác khẳng định “Lấy vận động công nhân
làm công việc đầu tiên trong công việc tổ chức quần chúng của Đảng... Làm sao
cho phong trào thợ thuyền trở nên một lực lượng tiên phong trong cuộc cách mạng
giải phóng Đông Dương”.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì tư tưởng về giai cấp công nhân
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc là một quan điểm nhất quán, đánh
giá đúng bản chất cách mạng và năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt
Nam. Tùy từng thời kỳ lịch sử, Người đã phát triển nhận thức của mình về vai trò,
vị trí của giai cấp công nhân một cách đúng đắn, phù hợp với nhiệm vụ cách mạng
chung của cả nước.
Quán triệt quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã đưa ra một số nội dung sau:


1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua chính đảng của mình
Theo Hồ Chí Minh, để đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng cho
các dân tộc thuộc địa, giải phóng giai cấp công nhan, sự nghiệp ấy cần phải do
chính giai cấp công nhân lãnh đạo: “Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là
giai cấp độc nhất và duy nhất, có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng
lợi cuối cùng”. “Để lãnh đạo cách mạng, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang
của mình, giai cấp công nhân cần phải có đội tiên phong, có lãnh tụ chính trị, có bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp mình, đó là Đảng cộng sản.
Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc
Việt Nam. Ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng CSVN luôn là người đại diện xứng
đáng cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Tại Đại
hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong giai
đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.

Khi nói Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc thì điều
đó không có nghĩa là “Đảng toàn dân”, không mang bản chất giai cấp. Ngay khi
tuyên bố thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định rõ bản chất giai cấp công nhân
của Đảng. Ở đây, bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện không chỉ ở số
lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân mà điều cơ bản là ở chỗ lập
trường của giai cấp công nhân và nền tảng tư tưởng của Đảng chính là chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Khẳng định bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp
nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta
đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính
lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc.
Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng
lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc”.


Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng và với tư cách đó, giai cấp công nhân bao giờ cũng là đội tiên phong
của cả dân tộc. Vì vậy, khi Người nói Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, hay “Đảng cách mạng chân chính”,
“Đảng mácxít- Lêninnít”… thì trong tư tưởng của Người, Đảng bao giờ cũng là
“đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc”. Và bản chất giai cấp của Đảng chỉ là một: Đảng
mang bản chất giai cấp công nhân, được xây dựng theo nguyên tắc về Đảng kiểu
mới của V.I Lênin.
Khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bao giờ Người cũng
gắn Đảng với vai trò lãnh đạo cách mạng, với vị trí của đội tiên phong trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan
phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu

mạnh, đồng bào sung sướng”. Rằng cách mạng Việt Nam “phải có đường lối cách
mạng đúng, có Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là
đường lối của chủ nghĩa Mác- Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của dân tộc”.
2. Giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt, là gốc của cách mạng
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ,
lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải
phóng toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình
phát triển mới của đất nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới,
nhiều ý kiến đặt ra cho việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân. Đảng ta
khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước.
Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên cơ
cấu kinh tế, cơ cấu xã hội đã có những biến đổi mới làm cho “giai cấp công nhân
hiện đại” khác với “giai cấp công nhân cổ điển” ở thời kỳ thế kỷ XIX, thời kỳ Mác
còn sống, trên một số điểm như là : Tỉ lệ số người làm dịch vụ so với số người sản


xuất trực tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung và tay nghề chuyên môn cao hơn;
mức thu nhập khá hơn trước, làm cho một bộ phận người lao động trở thành “trung
lưu hóa”. Một bộ phận trong giai cấp công nhân đã mua cổ phần và được chia lợi
nhuận với giai cấp tư sản. Những biểu hiện trên đây chứng tỏ giai cấp công nhân
ngày càng phát triển.
Ngày nay trong điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển
mạnh, giai cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà
còn cả lao động trí óc thông qua các máy điện toán với những thành tựu của tin
học. Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương được nhiệm
vụ của mình trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân hóa trí thức” và
“trí thức hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công nghiệp, của quá trình tự
động hóa, tin học hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của

mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá
trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lớn cho xã hội.
Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với nông dân, trí
thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác hợp thành lực lượng tổng hợp của quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng xã hội đi đầu trong
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong điều kiện
hiện nay chúng ta phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam tiên tiến, hiện đại,
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập với bên ngoài nhằm phát huy tốt
nhất bản chất và những đặc điểm của giai cấp công nhân.
3. Giai cấp công nhân phải có tổ chức chặt chẽ
Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra vai trò lịch sử to lớn của giai cấp công nhân,
đó chính là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, là giai cấp
tiên phong trong công cuộc cách mạng làm thay đổi chế độ, giành độc lập và xây
dựng đất nước.
Sau khi trở thành người cộng sản, trong nhiều việc lớn chuẩn bị cho dân tộc
trên lộ trình cách mạng lâu dài, thì việc tìm kiếm những hình thức nhằm tập hợp,
đoàn kết giai cấp công nhân Việt Nam hay đặt nền móng xây dựng những cơ sở


đầu tiên cho tổ chức Công đoàn nước ta chiếm một phần không nhỏ trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người.
Ngay từ năm 1913, khi đang làm đầu bếp tại Luân Đôn (nước Anh),
Nguyễn Tất Thành đã tham gia tổ chức Lao động hải ngoại, một tổ chức nghiệp
đoàn của những người thợ thuyền thuộc địa sống trên đất Anh. Trong cuốn Đường
Kách mệnh, do Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở châu á xuất bản năm 1927,
Nguyễn Ái Quốc đã viết những dòng chữ về tổ chức Công hội đỏ mà những dòng
chữ ấy có tính chất kinh điển về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn sau
này: “Tổ chức Công hội trước đó để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm
tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt cho khá hơn

bây giờ; bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân; năm là giúp cho quốc dân,
giúp cho thế giới”.
Như vậy, từ những năm 1920 Bác Hồ đã rất chú ý đến chức năng bảo vệ
quyền lợi cho người lao động, một chức năng quan trọng nhất của tổ chức Công
đoàn. Từ những cơ sở Công hội đầu tiên trên đất Pháp, những hội tương tế mang
nặng tính chất phường hội thị dân, từ những “đốm lửa” Công hội đỏ đầu tiên của
Tôn Đức Thắng ở Sài Gòn- Chợ Lớn đầu những năm 1920, cùng với sự xâm nhập
của tư tưởng xã hội chủ nghĩa vào nước ta qua Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên; từ những năm 1926 phong trào công nhân phát triển như gió lốc, đặc biệt
theo sáng kiến của Nguyễn ái Quốc nêu ra ở Quảng Châu, những học trò ưu tú của
Người như Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự đã phát động phong trào vô sản nổi
tiếng, làm cho tổ chức Công hội ở Bắc và Trung Kỳ thực sự lan rộng, phát triển
mạnh mẽ như nấm mọc sau cơn mưa rào. Đó cũng chính là bối cảnh để Đông
Dương Cộng sản Đảng giao trọng trách cho đồng chí Nguyễn Đức Cảnh triệu tập
Hội nghị thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28.7.1929, tại số 15 Hàng
Nón- Hà Nội, là tiền thân của tổ chức Công đoàn ngày nay. Đại hội còn quyết định
ra Báo Lao động và Tạp chí Công hội đỏ làm cơ quan ngôn luận của tổ chức mình.
Cao trào cách mạng Việt Nam dâng lên mạnh mẽ từ tháng 5.1930, đúng vào
dịp Quốc tế Công hội đỏ chuẩn bị cho Đại hội lần thứ V dự định nhóm họp vào
tháng 8.1930. Được tin, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời gửi thư cho BCH Quốc tế


Công hội đỏ Việt Nam gồm 3 đồng chí: Hoàng Bình, Phạm Văn Đức và Lê Văn
Kiệt đi dự Đại hội. Đoàn đã lặn lội vượt biên giới Mãn Châu tới Liên Xô dự Đại
hội an toàn. Bác cũng đã thông báo cho nhóm học sinh Việt Nam đang học tại
trường Phương Đông biết để giúp đỡ đoàn. Có thể nói, đây là sự kiện rất đáng chú
ý của lịch sử tổ chức Công đoàn Việt Nam. Vì đây là lần đầu tiên giai cấp công
nhân Việt Nam có một đoàn đại biểu chính thức trên diễn đàn quốc tế. Qua sự kiện
nêu trên, cho thấy sự quan tâm chu đáo, cũng như sự tinh tế của Bác đối với tổ
chức Công đoàn Việt Nam ngay từ những bước đi đầu tiên.

Từ năm 1941, khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng, tại
Hội nghị Trung ương lần 8 (19.5.1941), Người đã có sáng kiến lập ra Mặt trận Việt
Minh, và Hội Công nhân cứu quốc cũng đã ra đời, các tổ chức Công đoàn phát
triển mạnh trong cả nước. Ngày 20.7.1946, Đại hội lần thứ nhất Công đoàn Việt
Nam đã thành lập Tổng LĐLĐ Việt Nam, đến năm 1961 tại Đại hội toàn quốc lần
thứ hai Công đoàn Việt Nam được đổi tên thành Tổng Công đoàn Việt Nam.
Trong quá trình phát triển tổ chức Công đoàn Việt Nam, bên cạnh sự quan
tâm về xây dựng, củng cố tổ chức, Bác Hồ cũng luôn luôn nhắc nhở kêu gọi giai
cấp công nhân vận động phong trào Thi đua ái quốc. Từ sáng kiến của Bác, Công
đoàn Việt Nam đã phát động nhiều phong trào thi đua nổi tiếng và đạt được những
kết quả vô cùng to lớn như: Phong trào “Thi đua ái quốc”, “Tăng gia sản xuất vũ
khí”, “Tất cả cho tiền tuyến” , “Mỗi người làm việc bằng hai vìmiền Nam ruột
thịt”, “Năng suất - chất lượng - hiệu quả”, “Lao động giỏi”, “Giỏi việc nước, đảm
việc nhà, “Thi đua 2 tốt”... đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử phong trào công
nhân và lịch sử Công đoàn nước ta.
Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh là trách
nhiệm không chỉ của riêng tổ chức công đoàn mà còn là của Đảng và Nhà nước.
Các cấp ủy đảng, chính quyền cần tạo điều kiện, phối hợp, giúp đỡ để công đoàn
hoạt động thuận lợi, thực hiện tốt chức năng và vai trò của mình theo đúng quy
định của pháp luật. Bản thân tổ chức công đoàn phải nỗ lực vượt bậc, đổi mới, đa
dạng hóa phương thức và nội dung hoạt động sao cho thiết thực và linh hoạt, phù
hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành, từng loại hình doanh nghiệp và đơn


vị, luôn luôn gắn liền với cơ sở, với công nhân, viên chức và người lao động, khắc
phục chủ nghĩa quan liêu, bệnh hình thức và "hành chính hóa". Cần đẩy mạnh hơn
nữa công tác tuyên truyền giáo dục để người lao động, đặc biệt là công nhân, lao
động trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
hiểu rõ về tổ chức công đoàn, tự nguyện vào công đoàn và tham gia hoạt động
công đoàn.

4. Xây dựng giai cấp công nhân xứng đáng là người chủ nước nhà
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn, là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó cho thấy xây dựng giai cấp
công nhân nước ta lớn mạnh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Đảng, Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội mà Công đoàn là tổ chức trực
tiếp vừa đại diện, vừa bảo đảm quyền lợi cho công nhân.
Giải pháp mang tính chiến lược là xây dựng giai cấp công nhân phải gắn kết
chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công
nhân; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động và toàn xã
hội. Đồng thời phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân,
không ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ công nhân trẻ có
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và
quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng trở thành bộ phận
nòng cốt của giai cấp công nhân.
Sứ mệnh lịch sử và vai trò tiên phong đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam
phải tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn bản chất và truyền thống tốt đẹp của mình, tự
khẳng định tầm vóc chính trị của mình bằng việc nâng cao trình độ mọi mặt, về
nhận thức chính trị, tư tưởng, về kiến thức văn hóa và khoa học - công nghệ, về kỹ
năng nghề nghiệp và quản lý... Phải nắm bắt và tiếp cận nhanh với tiến bộ khoa
học - kỹ thuật, đưa công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh và đời sống, lao động


có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, đấu tranh tích cực chống quan liêu, lãng
phí, tham nhũng và những hành vi vi phạm pháp luật.
Sức mạnh của giai cấp công nhân là sức mạnh của nội lực giai cấp, đồng
thời cũng bắt nguồn từ sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giai

cấp công nhân Việt Nam có vai trò tiên phong lãnh đạo nhưng là một bộ phận của
dân tộc, đứng trong lòng dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân, trước đây, hiện
nay cũng như về sau, luôn luôn thống nhất với lợi ích của dân tộc, hòa quyện trong
mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Việc xây dựng giai cấp công nhân và
tổ chức công đoàn vững mạnh phải đặt trong tổng thể phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công nhân-nông dân-trí thức
do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Có Đảng lãnh đạo, trưởng thành trong máu lửa thực tiễn cách mạng, vốn cần
cù, lao động, sáng tạo, chúng ta tin tưởng giai cấp công nhân Việt Nam sẽ ngày
càng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Chương 3: Vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam
1. Giai cấp công nhân là động lực thúc đẩy phát triển đất nước
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm phát huy bản chất giai
cấp công nhân, đặt niềm tin vào giai cấp công nhân, quan tâm lãnh đạo xây dựng,
phát huy vai trò giai cấp công nhân trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đường lối xây dựng
GCCN đã được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng, các nghị quyết đều đề
cập đến yêu cầu phải phát huy bản chất giai cấp công nhân của Ðảng và xây dựng
giai cấp công nhân lớn mạnh. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá X) đã ban hành Nghị quyết 20/NQ-TW về “Tiếp tục xây dựng
GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đây


là nghị quyết quan trọng, khẳng định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, tạo động lực
mạnh mẽ trong toàn xã hội về chăm lo xây dựng GCCN xứng tầm với sứ mệnh lịch
sử và trách nhiệm vẻ vang của GCCN trong tiến trình lịch sử dân tộc. Sau 25 năm
thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân

nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Ðảng Cộng sản Việt Nam,
giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc
tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát
triển của đất nước. GCCN Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực
lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. GCCN VN đang
ngày đêm lao động cần cù, sáng tạo, sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Với số
lượng chỉ chiếm 21% tổng số lao động và 11% dân số cả nước, nhưng GCCN VN
đã đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước.
2. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công
nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa
đạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ
phận công nhân trí thức. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân
đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các
giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở
chính trị- xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng
được cải thiện.
Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu
về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm


trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông

dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích
nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện
đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều;
sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ
lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha
phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị- xã hội.
Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng
với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình;
việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn,
bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp
của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đời sống người công nhân
hiện còn rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, GCCN Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn: Yêu
cầu cao của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, trong điều kiện
khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, cạnh tranh gay gắt, tình hình thế
giới có những thay đổi nhanh chóng, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực
thù địch đối với nước ta vẫn còn phức tạp. Tác động mặt trái của kinh tế thị trường
và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang từng ngày, từng giờ tác động
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, đến GCCN nói riêng. Việc
làm của CN, lao động không ổn định; thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm
việc cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, nên nguy cơ tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp vẫn gia tăng.
Mặc dù Đảng đã có Nghị quyết về tiếp tục xây dựng GCCN thời kỳ đẩy mạnh
CNH - HĐH, nhưng việc thể chế hóa nghị quyết thành chính sách, pháp luật chưa
được thực hiện. Vì vậy, trên thực tế, nhiều vấn đề bức xúc của GCCN chưa được
giải quyết thỏa đáng. Hàng vạn công CNLĐ ở các KCN, KCX phải thuê nhà ở



trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo các điều kiện sống tối thiểu.
Ở nhiều KCN, tình trạng nữ công nhân lao động không lập được gia đình có xu
hướng gia tăng, nhà trẻ, trường mầm non thiếu trầm trọng. Tiền lương, thu nhập
của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời gian lao động, có nơi
lương công nhân không đủ để tái tạo sức lao động, nên đời sống vật chất và tinh
thần của CNLĐ gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. CNLĐ không có thời gian,
điều kiện sinh hoạt học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Do vậy, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận
công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu CNH - HĐH đất nước; ý thức tổ
chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn hạn
chế.
Công tác phát triển đảng trong công nhân chưa thực sự được quan tâm, nên ở
khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tỉ lệ DN có tổ
chức cơ sở đảng rất thấp. Hiện nay, cả nước mới có 1,2% số DN tư nhân, Công ty
TNHH, Công ty cổ phần và DN FDI có chi bộ đảng, với số đảng viên chỉ bằng
0,84% tổng số đảng viên của cả nước. Từ năm 2006 đến nay, tỉ lệ đảng viên là CN
trong số đảng viên mới kết nạp chưa năm nào vượt quá 10%.
3. Nguyên nhân của thực trạng
Quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội đã mở ra một giai đoạn lịch sử
mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân; tuy nhiên những hạn chế, yếu kém
trong phát triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống
và tư tưởng, tình cảm của công nhân.
Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân; nhưng quan tâm chưa đầy
đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới.
Nhiều khó khăn, hạn chế của giai cấp công nhân chưa được quan tâm khắc phục
kịp thời; chưa chú trọng công tác giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị cho giai cấp công nhân; còn ít quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo xuất thân từ công nhân; tôn vinh, động viên, khen thưởng công nhân còn ít;
đời sống của một bộ phận công nhân quá khó khăn; công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân chưa được quan tâm và đầu tư thỏa đáng,



dẫn đến còn tình trạng nhìn nhận chưa đúng mức về vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp công
nhân; nhưng những chính sách, pháp luật này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Có
nhiều biểu hiện thiên về coi trọng việc thu hút đầu tư và vai trò của người sử dụng
lao động, e ngại ảnh hưởng đến môi trường đầu tư nên chưa thực sự quan tâm thích
đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với giai cấp công nhân còn nhiều thiếu
sót, thiếu chế tài cần thiết và xử lý không nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm.
Tổ chức Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác có nhiều đóng góp
tích cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân; nhưng hiệu quả chưa cao, còn
nhiều yếu kém. Công đoàn chưa phát huy tốt vai trò là một tổ chức chính trị - xã
hội của giai cấp công nhân, chưa đủ sức đóng vai trò là chỗ dựa vững chắc của
công nhân tại doanh nghiệp; điều kiện hoạt động lại rất khó khăn, nhất là trong các
doanh nghiệp ngoài nhà nước. Công tác đoàn và phong trào thanh niên công nhân
chủ yếu mới dừng lại ở khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên; nhưng chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các
doanh nghiệp và người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế đóng góp
tích cực vào tạo việc làm và thu nhập cho công nhân; nhưng không ít trường hợp
còn vi phạm chính sách, pháp luật đối với người lao động, nhất là khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước.
4. Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công
nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu

lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân, hướng vào giải đáp những vấn đề
thực tiễn đặt ra: về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy


mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; về vấn đề trí thức hoá giai cấp công
nhân; về công nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp; về mối quan hệ giữa giai cấp
công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là trong liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; về sự phân hoá và
mối quan hệ trong nội bộ giai cấp công nhân; về vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới; về
tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong các
doanh nghiệp; về vai trò làm chủ của giai cấp công nhân, quan hệ giữa người sử
dụng lao động và nguời lao động; về mối quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa giai cấp
công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân các nước trong điều kiện toàn cầu hoá,
hội nhập kinh tế quốc tế; về những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” và
tuyên truyên phản động của các thế lực thù địch đối với giai cấp công nhân;... Qua
đó cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng giai
cấp công nhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá
giai cấp công nhân
Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ, công
nhân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về chất
lượng, hợp lý về cơ cấu, để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và
làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những nhà kinh doanh có tài, có
đức, các nhà quản lý giỏi và các cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công nhân
có trình độ cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ và phương thức kinh doanh

hiện đại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập. Quy hoạch nguồn nhân lực, đào tạo
đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu phát triển
các ngành công nghiệp mới, hiện đại. Chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân trong
các dân tộc thiểu số, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chú trọng đào tạo và nâng cao


chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề. Có chính sách để các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư các cơ sở đào tạo nghề với phương tiện kỹ thuật hiện đại. Có chính
sách khuyến khích liên kết các cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp trong đào
tạo, đào tạo lại.
Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh
thần dân tộc cho giai cấp công nhân
Cần nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý thức
công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm
thời đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết
tâm chiến thắng trong cạnh tranh, tinh thần đấu tranh xây dựng, tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp,... cho công nhân.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và hoạt động của tổ chức công
đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với công tác tuyên truyền, giáo
dục trong công nhân; đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và nâng cao hiệu
quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến địa phương, cơ sở.
Nhà nước đầu tư và có chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu
tư (được tính vào giá trị đầu tư và hạch toán vào chi phí sản xuất) xây dựng và hoạt
động của các nhà văn hoá lao động, nhà văn hoá thanh niên, câu lạc bộ công nhân,
hệ thống truyền thông đại chúng, nơi sinh hoạt của tổ chức đảng, tổ chức công
đoàn, thanh niên, phụ nữ ở các khu công nghiệp tập trung.
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách,
pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân;

chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân
Rà soát, bổ sung, sủa đổi, xây dựng các chính sách, pháp luật về lao động, việc
làm và đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao thể chất cho công nhân; tập trung
trước hết vào những chính sách liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc đang
đặt ra về việc làm và đời sống của công nhân.


×