Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Đặc điểm thơ và từ Đào Tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 153 trang )

Header Page 1 of 16.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_____________________

Phạm Thị Hồng Duyên

ĐẶC ĐIỂM
THƠ VÀ TỪ ĐÀO TẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
Footer Page 1 of 16.


Header Page 2 of 16.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Hồng Duyên

ĐẶC ĐIỂM
THƠ VÀ TỪ ĐÀO TẤN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐOÀN THỊ THU VÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
Footer Page 2 of 16.


Header Page 3 of 16.

MỤC LỤC
Trang phụ bìa .............................................................................................................. 1
Mục lục
DẪN NHẬP ................................................................................................................ 1
Chương 1: ĐÀO TẤN – CON NGƯỜI, THỜI ĐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC .....11
1.1. Con người và thời đại ......................................................................................... 11
1.1.1. Con người .............................................................................................. 11
1.1.2. Thời đại.................................................................................................. 24
1.2. Sự nghiệp sáng tác ....................................................................................... 29
1.2.1. Kịch bản tuồng ...................................................................................... 29
1.2.2. Thơ và Từ khúc ..................................................................................... 35
Chương 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH TRONG NỘI DUNG THƠ VÀ TỪ
ĐÀO TẤN ............................................................................................. 37
2.1. Tấm lòng ưu quốc ái dân ............................................................................. 37
2.1.1. Nỗi niềm ưu tư quốc nạn ....................................................................... 37
2.1.2. Tấm lòng yêu thương nhân dân ............................................................ 49
2.2. Tâm sự lữ khách tha phương và ước vọng hoàn hương ẩn dật.................... 55
2.2.1. Nỗi niềm thương nhớ quê nhà .............................................................. 55
2.2.2. Giấc mộng hoàn hương ẩn dật .............................................................. 64
2.3. Tình yêu thiên nhiên và tình cảm thân tộc, bằng hữu .................................. 70
2.3.1. Tình yêu thiên nhiên ............................................................................. 70

2.3.2. Tình cảm thân tộc sâu nặng, thiêng liêng ............................................. 77
2.3.3. Tình bằng hữu keo sơn, thân thiết ........................................................ 90
Chương 3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH TRONG NGHỆ THUẬT THƠ VÀ
TỪ ĐÀO TẤN ...................................................................................... 94
3.1 Ngôn ngữ ...................................................................................................... 94
3.1.1 Từ ngữ .................................................................................................... 95
3.1.2 Câu thơ ................................................................................................. 104
3.2 Thể loại ....................................................................................................... 119

Footer Page 3 of 16.


Header Page 4 of 16.

3.2.1. Thơ tứ tuyệt......................................................................................... 119
3.2.2. Từ khúc ............................................................................................... 127
3.3. Giọng điệu.................................................................................................. 133
3.3.1 Giọng trăn trở, cảm thương.................................................................. 134
3.3.2 Giọng châm biếm, phê phán ................................................................ 138
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 144

Footer Page 4 of 16.


Header Page 5 of 16.

1

DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài
Năm 1858, giặc Pháp chính thức nổ súng tấn công nước ta, bằng thủ đoạn
“tằm ăn dâu” nham hiểm, chỉ trong một thời gian ngắn, chúng nhanh chóng chiếm
được sáu tỉnh Nam Kì. Trong lúc đất nước khốn nguy “Nước về Phú lãng lương
tiền cạn, Dân mắc cu li cốt nhục tàn”, chính quyền phong kiến nhà Nguyễn đã
chẳng hết lòng cùng nhân dân chống giặc lại còn vô cùng ươn hèn và khiếp nhược
khi liên tiếp kí các hiệp ước giao đất cho kẻ thù. Chẳng mấy chốc, giang sơn Việt
Nam hoàn toàn rơi vào tay giặc.
Trước sự xâm lăng của quân Pháp và sự đầu hàng của triều Nguyễn, tầng lớp
sĩ phu yêu nước đồng loạt nổi dậy lãnh đạo nhân dân chống giặc và chống chính
quyền. Trong không khí sục sôi nhiệt huyết cứu quốc đó, các văn sĩ chân chính đã
chọn cho họ những con đường đi khác nhau. Có người chọn con đường cứu nước,
cứu dân, sẵn sàng hi sinh tất cả vì sự nghiệp giải phóng quê hương như Trương
Định, Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trọng
Trì… có người chọn con đường cáo quan về ở ẩn để giữ trọn khí tiết, kí thác bao
luyến tiếc cho giang sơn hào hùng một thuở vào thơ phú như Nguyễn Khuyến, Tú
Xương… và cũng có những người tuy ra làm quan với nhà Nguyễn nhưng vẫn giữ
“chút lòng trinh bạch” với nước, với dân. Họ cộng tác với triều đình chẳng qua là vì
chưa thể thoát khỏi sự ràng buộc cố hữu của Nho gia về lí tưởng trung quân: mọi
việc trên thế gian đều do ý Trời quyết định, Trời giao phó tất cả cho vua – người
mang chân mệnh thiên tử – “thế thiên hành đạo”, mọi sự phải trái vua chịu trách
nhiệm với trời, còn nghĩa vụ của kẻ sĩ là phải lo sao cho trọn đạo “quân thần”. Bề
ngoài, họ lãnh đạm giữ những chức vụ quan trọng trong triều nhưng bên trong, họ
đau buồn, tủi nhục trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân rên xiết dưới làn mưa
đạn của kẻ thù... Đào Tấn là một trong số những văn sĩ như thế. Trong khi ở Bình
Định, hàng loạt nghĩa sĩ hồ hởi tham gia phong trào Cần Vương, mấy nghìn sĩ tử bỏ
thi về quê tụ nghĩa đánh Tây thì Đào Tấn thêm một lần nữa, bị ngụy triều đình của

Footer Page 5 of 16.



Header Page 6 of 16.

2

Đồng Khánh trưng tập ra kinh thành Huế. Nhìn vào sự hanh thông trên con đường
hoạn lộ của Đào Tấn, có người đã từng thắc mắc: một ông quan làm đến chức Cơ
mật viện đại thần, hưởng nhiều ân sủng của các triều vua từ Tự Đức đến Thành
Thái, lại còn trốn tránh phong trào Cần Vương, chẳng dám chống lại kẻ thù như
Đào Tấn thì có gì đáng để biện minh? Thật ra, khi đánh giá một con người chúng ta
“không nên dùng cái thước đo giữa họ với mình” (K. Marx), không thể chỉ căn cứ
vào những hành động, biểu hiện bề ngoài của họ. Đào Tấn làm một ông quan to, áo
mũ xênh xang nhưng trước sau ông không có hành động phản nước, hại dân và
trong ông quan to ấy lại là một người dân nô lệ ôm nỗi đau đất nước tang thương,
nhân dân điêu linh, một nhà Nho yêu nước, yêu dân nhưng ngơ ngác, bơ vơ, trĩu
nặng những giằng xé về hai chữ trung quân trong cơn sóng gió của thời đại. Hơn
nữa, theo đồng bào Bình Định, Đào Tấn thăng quan tiến chức nhanh là nhờ tiếng
hay chữ và tiếng làm nghệ sĩ (thầy tuồng) hơn là vì làm “việc quan” giỏi.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh đã từng nói, đại ý: để tìm hiểu tư tưởng
của một con người, đặc biệt là người nghệ sĩ, người ta có thể căn cứ vào thành phần
của anh ta, vào những lời anh ta phát biểu đây đó, trong gia đình hay ngoài xã hội,
vào những tác phẩm chính luận nhưng “phần tư tưởng sâu kín và trung thực nhất
của anh ta, phần có sức thuyết phục nhất đối với người đọc lại nằm ngay trong tác
phẩm nghệ thuật”. Điều đó đúng với tất cả mọi nghệ sĩ và đúng với Đào Tấn. Vị
“trạng nguyên tuồng hát” (Nguyễn Hiến Dĩnh) ấy không có những tác phẩm chính
luận đanh thép, hùng hồn nhưng ông gói trọn tấc lòng ưu quân ái quốc, nỗi sầu
thương đất nước nô lệ, nhân dân cơ cực, lầm than trong rất nhiều kịch bản tuồng,
hàng trăm bài thơ, từ, văn biểu. Với hàng chục vở tuồng xuất sắc đã sáng tác, nhuận
sắc và những đóng góp to lớn cho sự phát triển nghệ thuật tuồng, Đào Tấn được
người đời yêu mến, kính trọng và tôn phong là hậu tổ của nghệ thuật hát bội.

Nhưng, bên cạnh vị thế tác giả xuất sắc của hàng chục kịch bản tuồng nổi tiếng, ông
còn được người đời xưng tụng với cương vị nhà thơ, “nhà viết từ khúc lỗi lạc” (Đỗ
Văn Hỷ). Tìm hiểu thơ và từ Đào Tấn, chúng ta không chỉ có cái nhìn trọn vẹn hơn
về con người, nhân cách, tư tưởng và tâm hồn “mai hoa” cao quý của nhà thơ, hiểu

Footer Page 6 of 16.


Header Page 7 of 16.

3

thêm nỗi lòng, tâm trạng của một vị quan chính trực, có “đủ lương tri trí tuệ sáng
suốt để thấy rõ kẻ thù chủ yếu của mình nhưng bất lực và bế tắc trong một thời kì
hoàn toàn bế tắc” [52,231] mà còn thấy được bút pháp tinh tế, uyển chuyển, tài hoa
của tác giả khi sáng tác thơ ca và từ khúc. Đó cũng là lí do người viết chọn đề tài
“Đặc điểm thơ và từ Đào Tấn”.

2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về Đào Tấn và sự nghiệp văn chương của ông đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu và không ít các bài phê bình, đánh giá. Đặc biệt, tháng 12
năm 1977, Ty Văn hóa và Thông Tin Nghĩa Bình đã tổ chức hội nghị khoa học
nghiên cứu nghệ thuật tuồng Đào Tấn để làm sáng tỏ thân thế và sự nghiệp của tác
giả, qua đó đánh giá toàn bộ con người và sự nghiệp của một nghệ sĩ lớn trót sinh
vào thời đại mà “mọi điều đều đảo ngược” (Bế Kiến Quốc). Trong các bản tham
luận đó, bên cạnh những bản tập trung tìm hiểu tâm trạng Đào Tấn qua các vở
tuồng, nghiên cứu về nghệ thuật tuồng Đào Tấn nói chung cũng như đi sâu phân
tích từng vở tuồng nói riêng để xác định tiếng nói nhân đạo hay tâm trạng bế tắc, bi
phẫn của nhà soạn giả lỗi lạc còn có những bản tham luận nghiên cứu và đánh giá
về thơ và từ khúc của Đào Tấn.

Trong bài “Tìm hiểu Đào Tấn” (Kỷ yếu hội nghị Đào Tấn, nhà thơ, nghệ sĩ
tuồng xuất sắc, Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình), Xuân Diệu tỏ ra đặc biệt
quan tâm đến từ khúc của Đào Tấn. “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” cho
rằng “người viết tuồng Đào Tấn và người làm từ khúc Đào Tấn là một, có người
tâm hồn bên trong dào dạt mà viết từ, mới có người hành động xã hội bằng viết
tuồng. Người viết tuồng Đào Tấn phấn đấu để viết tuồng cho tốt, cho có tác dụng xã
hội, đồng thời người làm từ Đào Tấn lắng nghe tâm hồn mình, tâm trạng mình... ”.
Qua việc giới thiệu một số bài từ, chỉ ra nội dung của từ Đào Tấn (“những tâm tình,
tình cảm của một con người đứng trước thiên nhiên, trước xã hội và nhất là trước
cái thực tiễn có thật là bản thân tâm trạng của mình”,“nói đến cao độ cái buồn đau
của mình” [11,242]), đánh giá về “không khí nhạc điệu tâm tình” các bài từ, Xuân
Diệu có nhận định “Từ của Đào Tấn báo hiệu chủ nghĩa lãng mạn” [11, 242].

Footer Page 7 of 16.


Header Page 8 of 16.

4

Tác giả Thu Hoài trong bản tham luận “Đất nước và tâm trạng Đào Tấn
qua một số thơ và từ” (Kỷ yếu hội nghị Đào Tấn, nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc,
Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình) cũng đưa ra một số nội dung cơ bản của thơ
và từ Đào Tấn như ghi lại hiện tình đất nước (ở nơi kinh thành và quê hương Quy
Nhơn của tác giả) trong những năm cuối thế kỉ XIX, thể hiện nỗi buồn, sự băn
khoăn, nỗi cô đơn, sự bế tắc trong tư tưởng của nhà thơ, phản ánh tấm lòng yêu
thương, trân trọng nhân dân lao động của vị “quan to song lại lắm phen thăng
trầm”: “Thi sĩ rất mực yêu con người, tình ông thăm thẳm đậm đà, mọi vật dưới
ngòi bút ông đều sinh động, đáng yêu như một tâm hồn quyến rũ” [16,443], thể hiện
“khối mâu thuẫn lớn trong ý thức hệ của bản thân tác giả” [16,446] Ngoài ra, còn

có một số nội dung được tác giả Thu Hoài nhắc đến như tình cảm bè bạn, tình cảm
với người vợ hiền. Trong phần cuối bản tham luận của mình, tác giả bài viết đã đưa
ra một nhận định về thơ và từ của cụ Đào: “Con người trong thơ chữ Hán của ông
đã bắt đầu có cá tính, thế giới nội tâm đã được miêu tả, tái hiện trung thực và đa
dạng. Trước kia Phạm Thái đã viết từ, song phải đến Đào Tấn, từ mới được sử
dụng một cách uyển chuyển tài tình” [16,449].
Cũng tại hội nghị khoa học nghiên cứu nghệ thuật tuồng Đào Tấn năm 1977,
tác giả Lê Xuân Lít đã trình bày những nghiên cứu của mình về nỗi lòng cụ Đào qua
những trang thơ và từ viết về đề tài mùa xuân. Trong bản tham luận “Mùa xuân
trong thơ và từ của Đào Tấn”, tác giả đã viết: “Đào Tấn mong đừng thay đổi ước
mơ hay đúng hơn là đừng thay lòng. Nhưng thực tại bộc con người lúc ấy phải thay
lòng, nếu không mọi ước mơ đều bị tan vỡ. Cái bi kịch của tâm trạng nhà thơ họ
Đào là chỗ ấy.” [26,433]
Nhà nghiên cứu Hồ Đắc Bích với bản tham luận “Đào Tấn qua thơ, từ và
kịch bản tuồng” (Kỷ yếu hội nghị Đào Tấn, nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc, Ty
Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình) cũng đã đưa ra một số ý kiến của mình về con
người và một vài nội dung cơ bản trong thơ và từ của Đào Tấn. Theo tác giả, “khi
được đi ra ngoài (ra khỏi bốn bức tường của thư phòng), được tiếp xúc với thực tế,
khi phải gánh vác vai trò phụ mẫu chi dân” tư tưởng của Đào Tấn đã có sự chuyển

Footer Page 8 of 16.


Header Page 9 of 16.

5

đổi từ việc coi “ý vua là ý trời”, ca ngợi chính sách “dĩ hòa vi quý” của triều đình
trước thủ đoạn tằm ăn dâu của thực dân Pháp” sang băn khoăn, chông chênh với tư
tưởng trung quân. “Ông cảm thấy buồn cùng cái buồn của quê hương […] buồn cái

buồn của đất nước […] và Đào Tấn suy nghĩ về trách nhiệm của mình trước cảnh
đau buồn ấy” [3,169]. Tất cả những tâm sự, phiền muộn, những day dứt, trăn trở ấy
được Đào Tấn kí gửi trong cả tuồng cũng như thơ, từ khúc.
Ở bài viết “Thơ Đào Tấn” đăng trên báo Đại đoàn kết số 45 năm 1977, qua
việc phân tích một số bài thơ trong “Mộng Mai từ lục”, tác giả Hồ Sĩ Hiệp đã giới
thiệu khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Đào Tấn. Trong bài viết của mình tác giả
cũng khẳng định rằng, mặc dù Đào Tấn không tham gia phong trào Cần Vương,
nhưng ông đã tỏ ra có cảm tình với cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng, Phan
Đình Phùng, với phong trào yêu nước do Phan Bội Châu đề xướng. Tuy làm quan
cho triều đình nhà Nguyễn, thậm chí là một ông quan to được vua và triều thần
trọng vọng nhưng trong một số bài thơ, tâm trạng u uất đối với thực trạng đất nước
và tấm lòng yêu nước sâu kín của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Đó cũng là tâm sự
chung của các nhà thơ yêu nước đương thời.
Năm 1978, nhà thơ Xuân Diệu một lần nữa nói đến một số nội dung của thơ
và từ của Đào Tấn với bài viết “Tìm hiểu nhà thơ Đào Tấn” (Tạp chí văn học, số
1). Theo Xuân Diệu, “Có một số bài thơ (và câu đối) của Đào Tấn phản ánh cái
chí, cái hoài bão của mình bắt nguồn từ thái độ ẩn sâu của Đào Tấn”. Qua phân
tích bài thơ “Đề Chùa Ông Núi” của Đào Tấn, nhà thơ họ Ngô cho rằng: “Tâm trí
ông (Đào Tấn) dập dồi giữa hai đường đi, hai thái cực: con đường đẹp nhất cao cả
nhất là đi cứu nước, chống địch, và con đường lẩn tránh, ẩn náu là đi tu”. Cũng
trong bài viết này, Xuân Diệu đã khẳng định: Từ chính là “nhật kí tâm hồn” của
Đào Tấn và “Hai từ chính của từ khúc họ Đào, là “Thậm cảm hưng vong việc nước
nhà” và nỗi buồn thân thế […] thân thế đây là cái thân thế hoài bão, thân thế ý chí,
xét về mặt ấy thì Đào Tấn mãi mãi lênh đênh”. [7]
Tác giả Hồ Sĩ Vịnh cũng đưa ra một số nhận định cá nhân về thơ và từ Đào
Tấn trong bài viết “Thơ và từ của Đào Tấn – mấy cảm nhận” trên báo Khoa học

Footer Page 9 of 16.



Header Page 10 of 16.

6

xã hội, Số 33, năm 1997. Theo tác giả, có “hai nội dung chính thường lặp đi lặp lại
trong từ của Đào Tấn, đó là: Nặng lòng cảm hoài về số phận hưng vong của đất
nước trước thảm kịch mới của lịch sử và nỗi buồn của đấng nam nhi chưa làm tròn
phận sự”. Ngoài ra, bài viết cũng điểm qua vài nét về nghệ thuật trong một số bài
thơ của cụ Đào: “Thơ Đào Tấn có nhiều bài như một bức tranh, một bức tranh có
một nét chấm phá. Người ta tổng kết thơ Trung Hoa có đặc điểm “thi trung hữu
họa”, có lẽ cũng đúng với nhà thơ họ Đào […] Nhân vật trữ tình trong thơ Đào Tấn
thường nói ít, im lặng nhiều. Dường như nhà thơ cố tình để “ý tại ngôn
ngoại””[62].
Trên tạp chí Sông Hương, số 104 (tháng 10), năm 1997, tác giả Đặng Hiếu
Trưng (cháu ngoại của Đào Tấn) đã đưa ra một vài ý kiến về thơ và từ của nhà thơ
họ Đào. Ở bài viết “Cảm nhận về tâm hồn và tài năng Đào Tấn qua thơ và từ của
ông”, tác giả đã nhận xét: “Về căn bản, dòng thơ ông Đào đẫm chất trữ tình. Ý thơ
buồn hơn vui, dòng thơ lãng mạn và đẹp đẽ của ông đã cống hiến cho người đọc,
người xem, người nghe những phút gần như xuất thần, […] những bài thơ hay như
những món bổ dưỡng tinh thần” [60]
Tác giả Trường Lưu với bài viết “Thơ Đào Tấn và nỗi lòng ưu thời mẫn
thế của ông (Qua tác phẩm Mộng Mai thi tập)” trên báo Văn nghệ Bình Định, Số
30 năm 2000 cũng đã đánh giá rất cao thơ Đào Tấn. Theo tác giả, nhiều bài thơ của
Đào Tấn đã “đạt đến chiều cao sâu của nghệ thuật ngôn từ” và qua việc tìm hiểu
“những gì trong kho tàng văn chương của ông được công bố, chúng ta bước đầu
thấy được tài nghệ và tâm sự của ông gửi gắm trong đó, và cảm động nhất là những
vần thơ ưu thời mẫn thế”.[28]
Ở mục “Đào Tấn” trong Từ điển Văn học (bộ mới), 2003, sau khi giới thiệu
sơ lược cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của cụ Đào, Nguyễn Lộc có bàn luận về thơ
và từ của ông. Tác giả viết: “Đào Tấn có một số bài thơ kín đáo ca ngợi những nhà

chí sĩ yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ như Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Phan
Bội Châu. Nhiều bài thơ của ông nói lên nỗi buồn sâu lắng trước cảnh đất nước
ngày một rơi vào tay giặc mà mình vẫn bó tay, bất lực. Trong sáng tác thơ, Đào

Footer Page 10 of 16.


Header Page 11 of 16.

7

Tấn sở trường về các thể từ điệu. Những bài từ của ông thường nhẹ nhàng, tình tứ,
có phong cách lãng mạn khá rõ”. [27,382].
Tác giả Nguyễn Thị Ánh trong luận văn Thạc sĩ Ngữ văn “Thế giới nghệ
thuật thơ Đào Tấn” đã tập trung phân tích cảm quan về cuộc sống và con người
cũng như phương thức thể hiện của thơ Đào Tấn.
Gần đây, trong hai bài nghiên cứu của mình về thơ Đào Tấn, tác giả Nguyễn
Đình Thu cũng đã đưa ra một số ý kiến đáng quan tâm. Nếu ở bài “Giọng điệu thơ
Đào Tấn”, sau khi khảo cứu toàn bộ thơ chữ Hán của Đào Tấn và đi sâu phân tích
các giọng điệu chủ yếu trong thơ ông như: sôi nổi, thiết tha, ngợi ca, thương cảm,
chua xót, phê phán, đả kích, trăn trở, suy tư... tác giả đã đi đến kết luận: “Qua
giọng điệu thơ Đào Tấn, chúng ta có thể khẳng định ông là con người có nhiều
phẩm chất đáng quý của một bậc hiền nho, yêu thiên nhiên, có tư tưởng thân dân,
có khát vọng cứu nước. Đó còn là một người vừa sôi nổi, thiết tha nhưng cũng hay
yên lặng trong những trăn trở, suy tư. Tất cả điều đó là biểu hiện của một vị quan
đầy trách nhiệm nhưng cũng là con người cá nhân đa tình, đa cảm” [55] thì trong
bài “Con người thiền nhân Đào Tấn trong thơ”, tác giả lại tập trung nghiên cứu
mảng thơ viết về đạo Phật của Mộng Mai tiên sinh và chỉ ra rằng “chính chất Thiền
trong con người Đào Tấn đã góp phần làm cho một trọng quan triều đình mà lại rất
gần gũi với nhân dân, sống nhân ái chan hòa, thấu hiểu được thế thái nhân tình

trong xã hội ba đào đầy biến động” [56]
Nhận xét chung:
Bước đầu tìm hiểu, chúng tôi đã thu thập được một số tài liệu nghiên cứu,
đánh giá về thơ và từ của Đào Tấn. Các bài viết này đã ít nhiều đưa ra được một vài
phương diện cơ bản trong nội dung cũng như nghệ thuật thể hiện trong thơ và từ
khúc của cụ Đào, đồng thời phác họa đôi nét về tâm hồn, nhân cách, những trăn trở,
day dứt trong lòng vị quan lớn liêm khiết, trinh bạch triều Nguyễn. Tuy nhiên, chưa
có một công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh về nội dung và nghệ thuật của hai
mảng sáng tác này trong di sản nghệ thuật mà Đào Tấn để lại.

Footer Page 11 of 16.


Header Page 12 of 16.

8

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu là các sáng tác thơ và từ của tác
giả Đào Tấn. Qua thơ và từ của Mộng Mai tiên sinh, luận văn hướng đến làm rõ
những nét cơ bản trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện của các sáng tác, đồng thời
góp phần khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao quý của tác giả.
Tài liệu khảo sát chủ yếu của luận văn là tập văn bản: Thơ và từ Đào Tấn,
Vũ Ngọc Liễn (chủ biên), Nguyễn Thanh Hiện, Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng,
Đỗ Văn Hỷ hiệu đính, Xuân Diệu giới thiệu, Hoàng Trung Thông bạt (Nxb Văn
học, Hà Nội, 1987)

4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Đặc điểm thơ và từ Đào Tấn, chúng tôi vận dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

− Phương pháp thống kê: phương pháp này được áp dụng để thống kê các nội
dung thường lặp đi lặp lại trong 110 bài thơ và từ của Đào Tấn. Kết quả thống
kê này cho phép người viết bước xác định được tâm trạng, những tình cảm,
suy tư, trăn trở chủ yếu của tác giả khi mượn thơ ca, từ khúc để ký thác nỗi
lòng.
− Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này được vận dụng nhằm
tiếp cận và khảo sát từng tác phẩm thơ và từ cụ thể, từ kết quả phân tích,
chúng tôi sẽ khái quát nên những luận điểm chính trong nội dung cũng như
nghệ thuật thể hiện của các tác phẩm.
− Phương pháp loại hình: Thơ của Đào Tấn là thơ cổ điển, mang những đặc
điểm của thơ chữ Hán (hàm súc, cô đọng, “ý tại ngôn ngoại”…), còn Từ thì
mang đặc điểm ngôn ngữ của thể loại từ (uyển ước, thanh tân, giàu nhạc
điệu). Luận văn sử dụng phương pháp loại hình nhằm xác định những điểm
gặp gỡ về nghệ thuật thể hiện của thơ, từ Đào Tấn so với thơ chữ Hán, từ
khúc nói chung và những nét độc đáo, sáng tạo của riêng tác giả.
Ngoài các phương pháp trên, luận văn còn kết hợp sử dụng một số phương
pháp khác như phương pháp lịch sử (nghiên cứu những ảnh hưởng của thời đại,

Footer Page 12 of 16.


Header Page 13 of 16.

9

các yếu tố văn hóa đến nội dung sáng tác và nghệ thuật biểu hiện của các bài thơ,
từ), phương pháp so sánh để làm rõ đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ và từ
Đào Tấn.

5. Đóng góp của luận văn

Bằng việc phân tích, tìm hiểu, lí giải các tác phẩm thơ và từ cụ thể, luận văn
cố gắng đưa ra cái nhìn hoàn chỉnh, bao quát về những đặc điểm chính trong nội
dung của thơ và từ Đào Tấn. Từ đó, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và tấm
lòng yêu nước, yêu dân của Mộng Mai thi sĩ.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật thể hiện của hai mảng
sáng tác này của Đào Tấn, người viết mong muốn chỉ ra những điểm đặc sắc trong
thơ và từ khúc, đặc biệt là ở thể loại từ vì Đào Tấn là tác giả được đánh giá là “nhà
viết từ khúc lỗi lạc” với số lượng từ khá phong phú về số lượng, sâu sắc về nội dung
và tinh tế trong hình thức thể hiện.

6. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn gồm các phần cơ bản sau:
− Phần mở đầu
− Phần nội dung: gồm 3 chương
+ Chương 1: Đào Tấn – con người, thời đại và sự nghiệp sáng tác
Trong chương này, luận văn sẽ giới thiệu về thân thế, quan nghiệp, sự nghiệp
sáng tác cũng như thời đại mà Đào Tấn sinh trưởng, tham chính để từ đó tìm hiểu
những tác động của quê hương, gia đình, bối cảnh xã hội đến tâm trạng, tư tưởng
của nhà thơ cũng như tìm hiểu những tình cảm của ông với đất nước, dân tộc, với
gia đình, bằng hữu...
+ Chương 2: Những đặc điểm chính trong nội dung thơ và từ Đào Tấn
Ở chương hai, chúng tôi sẽ tập trung phân tích và chỉ rõ những đặc điểm
chính về nội dung của thơ và từ Đào Tấn, từ đó khám phá những miền tâm trạng ẩn
kín, những ưu tư, trăn trở trong suy nghĩ cũng như hiểu thêm nỗi lòng, tâm trạng
của một con người trung lương, chính trực.
+ Chương 3: Những đặc điểm chính trong nghệ thuật thơ và từ Đào Tấn

Footer Page 13 of 16.



Header Page 14 of 16.

10

Trong chương ba, luận văn sẽ tìm hiểu những đặc điểm về mặt ngôn ngữ, thể
loại và giọng điệu của thơ và từ Đào Tấn. Việc phân tích những đặc điểm nghệ
thuật ở đây sẽ góp phần cùng với việc chỉ ra những đặc điểm nội dung làm sáng tỏ
con người, nhân cách, tư tưởng và tâm hồn thanh sạch của nhà thơ.
− Phần kết luận
− Danh mục tài liệu tham khảo

Footer Page 14 of 16.


Header Page 15 of 16.

11

Chương 1: ĐÀO TẤN – CON NGƯỜI,
THỜI ĐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1.1. Con người và thời đại
1.1.1. Con người
1.1.1.1. Thân thế
Đào Tấn tên thật là Đào Đăng Tấn, tự là Chỉ Thúc, hiệu là Mộng Mai và Tô
Giang, tiểu hiệu là Mai Tăng. Ông sinh ngày 27 tháng 2 năm Ất Tỵ (1845) (năm
Thiệu Trị thứ 5), mất ngày rằm tháng 7 năm Đinh Mùi tức ngày 28 tháng 8 năm
1907, thọ 63 tuổi. Tuy nguyên quán Đào Tấn ở làng Vinh Thạnh, tổng Nhơn Ân,
phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định (nay là Vĩnh Thạnh, Phước Lộc, Tuy Phước, Bình
Định) nhưng từ thuở lọt lòng cho đến khi theo gia đình trở về quê cha mưu sinh,
tránh nạn cường hào, ông gắn bó chủ yếu với mảnh đất Tùng Giản (tục gọi là Gò

Bồi, cũng thuộc phủ Tuy Phước). Đào Tấn sinh ra và lớn lên trong một gia đình
nông dân thanh bần, nền nếp, đức độ, chuộng nghĩa mến nhân. Những di sản tinh
thần tốt đẹp đó chính là nền tảng vững chắc cho sự hình thành nhân cách cao đẹp
của ông về sau. Thân phụ Đào Tấn là cụ Đào Đức Ngạc, một nho sĩ nghèo, chuyên
nghề thầy thuốc và nghề coi tướng số. Sau khi kết duyên cùng cô thôn nữ Hà Thị
Loan, con gái một gia đình người Huế di dân vào Bình Định sinh sống, chàng nho sĩ
nghèo làng Vinh Thạnh quyết định lập nghiệp tại vùng Gò Bồi. Chồng tiếp tục nghề
cũ, vợ bán quán và đổi nước chè, họ sống thanh bạch, yên ấm trong một mái nhà
tranh đơn sơ, nhỏ hẹp phía dưới chợ Gò Bồi, dọc theo bờ đê, đường xuống Tân
Giản để tới bến đò qua Quy Nhơn. Gia đình cụ Đào Đức Ngạc có ba người con trai,
song người con cả là ông Đào Đức Hanh và người con út là ông Đào Tịnh Viễn đều
không có gì xuất sắc, chỉ có Đào Tấn sau này thi đỗ làm quan, chức cao quyền
trọng, lập nhiều công trạng có ích cho dân, cho nước, đồng thời có nhiều đóng góp
xuất sắc cho nền văn học nước nhà.
Với bản chất thông minh, lanh lẹ, ngay từ nhỏ Đào Tấn đã sớm yêu thích văn
chương, say mê tuồng hát bội. Những lúc thư nhàn, rảnh rỗi ông thường hay cùng
bạn bè bắt chước diễn trò tuồng hát mua vui. Tuy ham chơi và không chuyên chú

Footer Page 15 of 16.


Header Page 16 of 16.

12

vào việc học với các thầy đồ quanh vùng Gò Bồi nhưng Đào Tấn rất sáng dạ, học
đâu nhớ đó, 13, 14 tuổi đã tinh thông nghĩa sách và biết làm thơ. Người dân vùng
Gò Bồi vẫn truyền tai nhau câu chuyện cậu bé Đào Tấn làm thơ giễu ba người
khách cao ngạo khi xưa. Hôm ấy, có ba người khách vào quán bà cụ thân sinh của
Đào Tấn uống nước. Trời trưa có gió nồm, không gian trong quán lại thoáng đãng,

ba người cao hứng làm thơ. Chuyện sẽ chẳng có gì nếu họ không kiêu căng, đắc ý,
không coi người xung quanh ra gì. Thấy điều chướng tai, gai mắt, cậu bé Đào Tấn –
khi ấy đang ngồi giúp mẹ quạt nước bên cạnh – liền lấy cây quạt lửa quạt lia quạt lịa
trước mũi. Một người khách thấy vậy bèn hỏi:
− Chú nhỏ biết làm thơ à?
Đào Tấn đáp:
− Biết chút chút.
Người khách lại nói:
− Vậy hãy vịnh Bát nước chè. Hễ hay thì thưởng tiền, dở thì đánh 10 cán quạt.
Đào Tấn nghĩ ngợi chốc lát rồi đọc:
Trên thời bọt nước lênh đênh nổi
Dưới lại con rồng dấp dới bay
Ba ông khách đều kinh ngạc, đang định lấy tiền thưởng thì cậu bé họ Đào ngăn lại
và đọc tiếp hai câu:
Mỗi chữ nghìn vàng cân mới xứng
Ba thầy một nhúm thấm chi khoe.
Nói xong bỏ chạy mất.
Lớn hơn một chút, Đào Tấn thường hay làm thơ, vè hài hước đem dán tại
chợ Gò Bồi để bài xích, giễu nhạo lũ cường hào, hương thân hay hà hiếp, sách
nhiễu dân lành. Năm Đào Tấn 18 tuổi, vua Tự Đức ban bố 10 điều răn (Thập điều)
để cải tạo tư tưởng, tổ chức xã hội và buộc nhân dân phải học tập. Hàng trăm nhân
khẩu làng Tùng Giản bị bắt đến đình làng nghe giảng những điều vô bổ, vừa mệt
vừa bất mãn song chẳng ai đủ can đảm lên tiếng phàn nàn. Một hôm, giữa chợ Gò
Bồi xuất hiện một bài thơ giễu như sau:

Footer Page 16 of 16.


Header Page 17 of 16.


13

Thập điều là cái chi chi?
Hàng đêm nói mãi ra gì mà nghe!
Hương thân giảng giải lè nhè,
Bắt dân tập hợp mà nghe thập điều.
Vậy có thơ rằng:
Cả làng đều sợ một hương thân,
Ông cũng người ta không phải thần!
Ông giảng thập điều không phải gián,
Khác ông Văn Trọng gián hôn quân.
Gò Bồi dân chúng đã kêu vang,
Hết việc quan gia đến việc làng,
Xâu thuế quanh năm lo muốn chết,
Mà đêm nằm ngủ cũng không an.
Chỉ trong một thời gian ngắn, bài thơ nhanh chóng được đông đảo nhân dân
vùng Gò Bồi ưa thích và lưu truyền sang các vùng lân cận. Mọi người đều biết rõ
tác giả của bài thơ ấy là Đào Tấn nhưng người dân trong làng yêu mến, phục tài
chàng trai họ Đào bao nhiêu thì lũ hương thân, cường hào càng “ngứa mắt” gia đình
Đào Tấn bấy nhiêu. Biết không thể sống yên ổn với lũ cầm quyền làng Gò Bồi
ngang ngược, tàn bạo, cụ Đào Đức Ngạc liền đưa cả gia đình về lại sinh quán ở làng
Vinh Thạnh. Tại đây, Đào Tấn đã được theo học một trong bốn vị “tứ hiền” vùng
Tuy Phước, cụ Tú Diêu (Nguyễn Diêu), người rất tinh thông Nho học, Hán văn,
Quốc văn, lại có khả năng sáng tác tuồng, làm thơ xuất chúng. Nhân tài, tri kỉ gặp
nhau. Cụ Tú đã đem tất cả sở học của mình truyền thụ cho người học trò yêu. Chỉ
sau năm năm chuyên tâm học tập cộng thêm tài năng thiên bẩm và sự tiếp thu tài
nghệ uyên bác của thầy, tại khoa thi Đinh Mão, năm Tự Đức thứ 20 (1867), cậu học
trò tài hạnh kiêm toàn Đào Tấn đã đỗ cử nhân hạng ưu tú.
Theo thông lệ của triều đình, cử nhân của mỗi kì thi Hương phải đến Kinh đô
thi Hội. Song vì gia thế khó khăn, lại thêm lòng chẳng mấy ham thích chen chân


Footer Page 17 of 16.


Header Page 18 of 16.

14

vào đường công danh nên Đào Tấn đã cáo bệnh không đi cũng chẳng xin bổ quan.
Mãi đến năm 1871 (Tự Đức thứ 24), triều đình Huế mới xét lại danh sách cử nhân
còn chưa được bổ nhiệm để trưng tập, Đào Tấn được bổ vào Hàn Lâm Điển Tịch,
sung chức Hiệu thư ở Nội Các. Trong bốn năm thư rỗi ở quê nhà, Đào Tấn dành
phần lớn thời gian đi ngao du sơn thủy, thăm thú cảnh đẹp trong tỉnh đồng thời theo
đuổi văn chương và hát bội, tìm những người có học, có tài để kết bạn. Ông còn
thường cùng thầy học và các ca công rành nghề như ông bầu Thường (Quản ca
Thường), ông Mười Hiệp (Đội Hiệp)... trao đổi văn lý, tình lý, điệu nghệ…của nghệ
thuật hát bội, nhờ đó mà kiến thức về văn chương cũng như sự hiểu biết về tuồng
hát của Đào Tấn ngày một uyên thâm.
Khi còn ở Vinh Thạnh, lúc mới đậu cử nhân, Đào Tấn kết duyên cùng bà
Phạm Thị Trận. Trong suốt thời gian ông nhậm chức ở Kinh đô, bà ở lại quê nhà
Bình Định, thay ông phụng dưỡng mẹ cha. Sau đám tang cụ Đào Đức Ngạc, mặc dù
Đào Tấn muốn đưa bà cùng trở lại Huế để hưởng cuộc sống an nhàn nhưng người
vợ từ thuở tào khang ấy của ông từ chối. Bà nguyện ở lại quê nhà để coi sóc việc
khói hương, thờ phượng, lòng chẳng mơ phú quý, vinh hoa.
Trong thời gian làm quan ở Huế, Đào Tấn gặp hai người con gái tài sắc là bà
Tôn Nữ Ngọc Triêm và bà Tôn Nữ Nhuận Khanh (thường gọi là bà Diêu Tiên). Vậy
là, “Trai phong lưu Bình Định, Gái thanh lịch Thừa Thiên”, chẳng mấy chốc:
Ba sinh dù chẳng hương nguyền
Khuôn xanh sẵn mối lương duyên buộc ràng
Khi Đào Tấn được thăng Hiệp Biện Đại học sĩ và được phong Tử Tước thì

theo lệ của triều đình, vợ ông cũng sẽ được phong tặng tước hiệu. Tuy nhiên do bà
Phạm Thị Trận cảm thấy mình không thích hợp nhận lấy phẩm hàm quá cao nên từ
chối sắc phong Nhất phẩm mệnh phụ. Vinh dự ấy thuộc về bà Tôn Nữ Ngọc Triêm.
Lúc bấy giờ, do dư luận không hiểu nội tình nên chê bai Đào Tấn “đeo thói bạc của
kẻ giàu sang”, phụ bạc người vợ đã gắn bó với mình từ thuở hàn vi. Các vị túc nho
ở Bình Định cũng trách móc:

Footer Page 18 of 16.


Header Page 19 of 16.



15

Bụng Đào Tấn chứa thiên kinh vạn quyển nhưng bỏ sót câu nói của Tống

Hoằng chép trong Hậu Hán Thư: “Tào khang chi thê bất khả hạ đường”.
Sau này, khi bà Phạm Thị Trận mất, Đào Tấn bày tỏ sự tiếc thương vô hạn
trong bài văn điếu thống thiết:
Tự cổ sinh ly túc cảm thương
Tranh giao tử biệt tự tương vương
Hoàng pha hà xứ phần tam xích
Lão nhãn tha hương lệ sổ hàng
Đa sự xuân phong xuy mộng tán
Vô tình hàn nguyệt chiếu canh trường
Hoàn gia nhật thị tân hàn tiết
Nhẫn kiến đường không chỉ quải tường.
(Sinh ly lòng chịu lắm đau thương

Tử biệt thêm bao nỗi đoạn trường
Gò vắng chôn đâu tình cựu chẩm
Mắt già tuôn mối lệ tha hương
Đìu hiu thổi gió xuân tàn mộng
Lạnh lẽo soi canh nguyệt gác rường
Hàn thực ngày về thăm chốn cũ
Còn trơ lưng vách mảnh thê lương)
(Quách Tấn dịch)
Những lời lẽ yêu thương chân thành ấy chắc chắn không thể xuất phát từ trái
tim một con người bạc nghĩa, vong ân.
Trong số ba bà vợ, sáu nàng hầu của mình, Đào Tấn yêu quý bà Diêu Tiên
hơn cả. Sinh thời, ông từng bày tỏ tình cảm yêu mến đó với bà trong một bài thơ tứ
tuyệt (Thọ Diêu Tiên phu nhân ngũ thập sơ độ).
Theo tác giả của “Đào Tấn và hát bội Bình Định”, Đào Tấn có bốn người
con gái là bà Đào Thị Kim Anh, Đào Thị Kim Yến, Đào Thị Bích Tiên (tức Trúc
Tiên), bà Đào Thị Cẩm Cầu (tức Chi Tiên) và bảy người con trai. Ông Đào Bá

Footer Page 19 of 16.


Header Page 20 of 16.

16

Quát, con bà Phạm Thị Trận, đỗ cử nhân nhưng mất sớm. Ông Đào Thụy Thạch đỗ
cử nhân, làm quan đến chức Án sát. Ông Thạch nổi tiếng hay chữ song cũng như
người anh trai cùng cha khác mẹ, ông mất khi chưa kịp thi thố tài năng với đời. Ông
Đào Nhữ Tuyên đỗ cử nhân, làm quan đến chức Án sát, sau khi về trí sĩ, ông được
phong Bố chánh. Ông Đào Nhữ Thuần đậu tú tài, làm ấm thọ và tri phủ Hàm Thuận
(nay là Bình Thuận). Ông Đào Nhữ Tiếu đỗ tú tài nhưng không ra làm quan. Ngoài

ra, Đào Tấn còn có hai người con trai nữa là Đào Khả Kiện và Đào Binh Thứ (tục
gọi là Ấm Bồ). Ấm Bồ tính nết đã hung hăng, diện mạo lại dữ tợn, thường hay cậy
quyền thế làm nhiều điều phi pháp. Để giữ gìn thanh danh cho Đào Tấn, người nhà
phải đem Ấm Bồ về Vinh Thạnh coi giữ nghiêm ngặt. Ấm Bồ ra đời khi Bồi Ba (tên
bồi Tây hống hách, hay ỷ thế chủ ức hiếp dân lành) bị Đào Tấn xử chém cho nên
dân gian thường truyền tai nhau rằng Ấm Bồ chính là do Bồi Ba đầu thai để báo thù
Đào Tấn. Khi nhắc đến người con trai này, bà Chi Tiên đã từng than thở rằng:
− Ấm Bồ là một cục bùn dơ ném vào dòng suối trong mát của họ Đào...!
Nhưng cuối cùng “bùn dơ đã trôi đi sạch, dòng suối trong mát họ Đào vẫn
trong mát nghìn thu” (Quách Tấn) bởi:
Thanh tuyền tế ẩm tri chân vị
Bất phụ nhân gian phất diệm truyền
(Nước suối trong uống từng ngụm nhỏ mới biết được chân vị
Chẳng phụ với người đời thì hương thơm mãi mãi truyền).
1.1.1.2. Quan nghiệp
Đào Tấn làm quan từ đời Tự Đức đến đời Thành Thái (1871 – 1904), kinh
qua nhiều chức vụ lớn trong triều đình nhà Nguyễn. Tuy phẩm cao quyền trọng
song không vì thế mà ông tỏ ra lộng hành, phách lối. Trọn đời, Đào Tấn luôn giữ
cho mình cốt cách thanh sạch, cao quý, ông là một vị quan thanh liêm, cương trực,
được giới sĩ phu nể trọng và nhân dân yêu mến.
Dưới thời Tự Đức, sau khi được triều đình Huế bổ nhiệm, giữ chức Hiệu thư
chưa bao lâu thì một năm sau, năm 1872 (Tự Đức thứ 25), Đào Tấn được vua giao
cho soạn thảo ba vở tuồng có tính thời sự: Đãng khấu, Bình địch, Tam Bảo thái

Footer Page 20 of 16.


Header Page 21 of 16.

17


giám thủ bửu. Mỗi vở có ba hồi, chỉ được diễn trong cung đình nhưng ai cũng biết
chủ trương, chính sách của Tự Đức và triều Nguyễn lúc bấy giờ: bằng mọi cách
phải quét (đãng) cho sạch những cuộc nổi dậy chống chính quyền của nhân dân – lũ
giặc cỏ (khấu) trong mắt triều đình, phải “bình” cho xong những cuộc xâm lăng của
bọn ngoại lai cướp nước (địch), phải bang giao với giặc Pháp, thực hiện chính sách
“dĩ hòa vi quý” với kẻ thù để có thể giữ vững (thủ) đất nước. Tuy nhiên dù quan
quân nhà Nguyễn đã cố gắng “quét” cho sạch, “dẹp” cho yên, “thủ” cho vững song
thế cuộc lại chẳng như ý vua mong đợi. Giặc Pháp mưu mô, quỷ quyệt đã chiếm hết
Nam Kì, lăm le uy hiếp Bắc Kì và dòm ngó dải đất Trung Kì. Quan binh triều đình
hoảng loạn, càng đánh càng thua. Khắp nơi, nông dân nổi dậy chống giặc ngoại xâm
và chống cả triều đình phong kiến ươn hèn, phản động. Đứng trước tình cảnh đất
nước đang lâm vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Đào Tấn cũng như bao người có tâm
huyết với dân, với nước đều mong triều đình và nhân dân cùng nhau đánh đuổi kẻ
thù, nhưng sâu xa trong tư tưởng của ông, “mê thuyết tôn quân” và những ràng
buộc khe khắt của đạo đức Nho gia vẫn luôn ngự trị. Hai chữ trung quân mù quáng
đã khiến ông chưa lập tức nhìn thấy ngay tội lỗi của vua mà chỉ đổ tội cho bọn quan
lại hèn nhát xúi vua làm bậy. Ông chủ trương chống lại kẻ thù, ông mỉa mai, lên án
lũ quan lại nhà nho phản động, cam tâm làm tay sai đắc lực cho giặc như bọn
Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân, nhưng lại chưa đứng hẳn về phía cách mạng và vẫn
còn vấn vương, day dứt với tư tưởng “trung quân” đã không còn phù hợp với hiện
thực mới của xã hội.
Năm 1874 (Tự Đức thứ 27), Đào Tấn được thăng Biên tu, sung chức Hiệu
thư, kế đó lĩnh chức tri phủ Quảng Trạch (Quảng Bình). Trong thời gian này, nhờ
làm việc trong Nội Các, được tiếp xúc với nhiều tập sách quý trong thư viện, vốn tri
thức của ông ngày càng thêm rộng mở. Vua Tự Đức cũng vì thế mà ưu ái ông hơn
dù khi ấy ông chỉ là một tiểu thần.
Trong những tháng ngày làm tri phủ Quảng Trạch, nhờ đức độ và nhân cách
cao đẹp của mình, Đào Tấn được nhân dân nơi đây hết lòng tôn kính, cảm phục.


Footer Page 21 of 16.


Header Page 22 of 16.

18

Giữ chức tri phủ Quảng Trạch chưa lâu, đến năm 1876 (Tự Đức thứ 29), Đào
Tấn được triệu về kinh, thăng Thừa chỉ nội các, hai năm sau (1878) thăng Thị độc
học sĩ. Đây cũng là thời gian ông phụng chỉ sáng tác các vở tuồng: Tứ quốc lai
vương, Quần trân hiến thụy và viết tiếp vở Vạn bửu trình tường do Diên Khánh
vương chấp bút còn dang dở. Văn tuồng Đào Tấn lúc này chuyên chú hơn về mặt
văn chương thuần túy. Ba năm sau đó (1881), Đào Tấn được thăng Hồng lô tự
khanh nhưng vẫn chỉ là hữu danh vô thực. Năm 1882, Đào Tấn được lãnh chức
Thừa Thiên phủ doãn, không còn phải thuộc quyền quan trên như khi còn làm Hồng
lô tự khanh. Trong hai năm 1882 – 1883, ông phụ trách cai quản 6 huyện tỉnh Thừa
Thiên, lập nhiều công tích cho dân, cho nước, được triều đình tặng 3 chữ “Thanh,
Thận, Cần” (trong sạch, thận trọng, chuyên cần) và được vua Tự Đức phê tặng 4
chữ “bất úy cường ngự” (không sợ uy mạnh nhà vua).
Đầu xuân 1883, thế nước đã vô cùng nguy khốn. Mặc dù rất muốn cứu nguy
cho giang sơn nhưng vì lực bất tòng tâm, Đào Tấn chỉ đành đau lòng thở than cho
thời vận đất nước. Con người tận lực vì dân vì nước ấy tủi hổ vô cùng khi bản thân
hưởng lộc nước, chịu ơn vua mà không thể báo đền. Ít lâu sau, mượn cớ phụng
dưỡng cha mẹ già, Đào Tấn dâng sớ xin từ quan. Vua Tự Đức chẳng những không
chuẩn y mà còn tức giận giáng ông bốn cấp. Sự việc xảy ra chưa được bao lâu thì cụ
Đào Đức Ngạc mất, Đào Tấn được phép về lại nguyên quán chịu tang cha.
Trong khi ông đang thọ tang tại quê nhà thì ở kinh thành Huế, vua Tự Đức
băng hà (1883). Chẳng bao lâu sau, triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước “bán nốt” hai
miền Bắc Kì và Trung Kì cho Pháp. Cơ nghiệp nghìn năm của cha ông trong phút
chốc đã hoàn toàn rơi vào tay kẻ thù. Mặc dù đã biết trước, mặc dù đã cố ý từ quan

lánh về quê xa để không phải tận mắt chứng kiến cuộc thế tang thương song khi
nghe tin xã tắc, giang sơn mất vào tay ngoại bang, nhân dân cơ khổ dưới trời loạn
lạc, Đào Tấn vẫn không khỏi đau lòng rơi lệ. Từ sâu trong thâm tâm, con người ấy
rất muốn “ra sức đoạn kình”, “ra tay bộ hổ”, chống giặc cứu nước nhưng cũng như
Phạm Như Xương, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh... tự biết mình không thể

Footer Page 22 of 16.


Header Page 23 of 16.

19

xoay chuyển thế thời, ông đành ngậm ngùi lui về ở ẩn, tìm đến cõi Phật tại núi Linh
Phong.
Từ năm 1885 trở đi, phong trào Cần Vương ở Bình Định nổi dậy mạnh mẽ.
Bi quan trước tình hình trong nước lúc bấy giờ (thế giặc hùng hậu, triều thần chẳng
đồng lòng đánh đuổi kẻ thù, người thật sự yêu nước thì ít kẻ thừa cơ trục lợi thì
nhiều, nghĩa sĩ tuy hăng hái, nhiệt tình nhưng vũ khí thì quá ít ỏi, thô sơ, nghĩa quân
chưa có đường hướng chiến đấu) lại thêm nặng gánh ưu phiền của bản thân (thân cô
thế cô, danh vị còn thấp, mẹ già đơn chiếc), Đào Tấn không tham gia ứng nghĩa.
Tuy vậy ông vẫn giữ lòng tôn kính với các sĩ phu, nghĩa đảng.
Tham thiền tại Linh Phong tự được hai năm, đến năm 1887, Đào Tấn bất ngờ
nhận được chiếu chỉ triệu về kinh đô của vua Đồng Khánh (Đồng Khánh lên ngôi,
thay vua Hàm Nghi năm 1885). Thực ra đây chỉ là âm mưu của Pháp, mượn tay
Đồng Khánh để gọi Đào Tấn về làm con bài chiêu an sĩ phu, học giả cả nước. Trước
tình thế éo le này, Đào công vô cùng khó xử. Bởi lẽ khi xưa ông đã chẳng ứng nghĩa
Cần Vương, nay sao có thể muối mặt ra làm quan dưới triều ông vua bù nhìn của
giặc Pháp. Nhưng cuối cùng vì biết kẻ thù chẳng bao giờ để mình ở yên nơi núi
thẳm rừng sâu, hơn nữa mẹ già còn đó, phận làm con đâu thể buông xuôi, Đào Tấn

đành vâng chỉ về kinh. Đồng Khánh cho ông tái lĩnh chức Thừa Thiên Phủ doãn,
thăng hàm Quang lộc Tự khanh lại còn ban Thượng phương bảo kiếm, cho phép
ông được tiền trảm hậu tấu. Nhân cơ hội ấy, ông quyết tâm đem tài năng ra giúp
dân, giúp nước cho vẹn nghĩa sơ chung.
Trong thời gian Đào Tấn làm Phủ doãn ở Huế, có tên tay sai của viên Khâm
sứ Pháp (dân ta thường gọi là Bồi Ba) rất hống hách, ngang ngược, hay ỷ thế chủ hà
hiếp, sách nhiễu nhân dân, không coi triều đình, chính quyền sở tại ra gì. Các quan
lại ở Huế vì e ngại đụng chạm đến quan lớn của chính phủ Pháp nên đều kiêng dè
hắn, mặc cho hắn công nhiên lộng quyền. Người dân trong vùng bị hắn cưỡng bức,
bóc lột trắng trợn cũng chỉ đành im lặng, không dám hé môi phản ứng.
Biết chuyện, Thừa Thiên phủ doãn lặng lẽ cho người theo dõi Bồi Ba, hễ
thấy hắn ức hiếp dân lành, vi phạm luật pháp triều đình thì bắt ngay. Một hôm, vợ

Footer Page 23 of 16.


Header Page 24 of 16.

20

Bồi Ba quen thói hiếp đáp dân lành, ngang nhiên đánh người giữa chợ Đông Ba.
Quan quân theo dõi bắt thị về phủ nhốt lại. Bồi Ba hay tin, hùng hổ dẫn người xông
đến phủ Đào công toan làm lộng thì bị tống giam. Y cho nô bộc về báo với chủ.
Viên Khâm sứ Pháp đến tận phủ đường ra mặt bênh vực. Lúc bấy giờ Đào Tấn mới
từ tốn luận tội của gã tay sai từ xưa đến nay. Viên khâm sứ biện minh:


Hiện thời còn một số người Việt Nam có não bài Pháp. Họ thấy tên Bồi Ba

trung thành với tôi nên ghét mà bịa đặt chuyện kia chuyện nọ, khiến ngài nghe trái

lẽ mà giận đó thôi, chớ hắn đâu dám làm chuyện phi pháp thế ấy.
Đào Tấn truyền lệnh dẫn Bồi Ba ra. Tên đầy tớ hống hách thấy chủ thân
hành đến can thiệp nên quen thói cũ, chỉ thẳng mặt Đào Tấn mắng nhiếc, mạt sát
không tiếc lời. Phủ doãn Thừa Thiên nổi trận lôi phong, đập bàn thét lính đem
chém. Viên Khâm sứ Pháp tái mặt, cản lại:
− Tôi khuyên ngài hãy nể mặt tôi.
Đào Tấn đáp trả:


Tôi mong quan lớn biết trọng pháp luật Nam triều. Tôi thay mặt vua để cai

trị dân, để giữ an ninh trật tự trong nước. Những kẻ phạm pháp, tôi phải trừng trị,
không ai được phép can thiệp. Như tên bồi này, quan lớn thử nghĩ, đối với tôi đây
và có mặt quan lớn đó mà hắn còn dám hành hung bậc ấy, huống hồ đối với dân
chúng và sau lưng quan lớn. Mà vì sao hắn lại có những hành động không kể đến
phép nước như thế? Có phải tại vì quan lớn dung ẩn hay không? Quan lớn đã trưởng
ác cho hắn mà quan lớn không biết. Nếu quan lớn muốn tha hắn thì kiếm đây ấn
đây, tôi xin giao cho quan lớn.
Viên Khâm sứ thất kinh, đứng dậy xin lỗi Đào Tấn sau đó quay sang mắng
tên Bồi Ba:
− Mày làm thì mày chịu, tao không phương cứu mày.
rồi cau có bỏ ra về.
Tất nhiên, tên Bồi Ba bị xử chém, bêu đầu ngoài chợ. Nhân dân trong thành
vui mừng bày hương án, ngoài miệng thì cảm tạ trời đất song trong lòng thì biết ơn
Đào Tấn vô cùng.

Footer Page 24 of 16.


Header Page 25 of 16.


21

Sau vụ chém Bồi Ba, triều đình Huế sợ Đào Tấn lại “gây chuyện” với chính
phủ Pháp nên đổi ông sang Thị lang Bộ Hộ, sung Tham tá cơ mật viện rồi Khâm
phái đi công cán Gia Định về việc bang giao Pháp – Nam.
Năm 1888 (Đồng Khánh thứ 3), Đào Tấn được thăng Tham tri Bộ Hộ, một
năm sau (1889 – Thành Thái nguyên niên), ông lĩnh chức Tổng đốc An Tịnh lần thứ
nhất. Trong thời gian làm Tổng đốc, ông rất chú trọng việc chăm lo cho bách tính,
cố gắng lựa chọn đường lối cai quản phù hợp để có thể làm cho nhân dân an cư lạc
nghiệp. Với những nhân sĩ cựu đảng Cần Vương, những học giả ưu tú, ông lấy tình
bằng hữu chân thành để kết giao. Với lê dân trăm họ, ông trải lòng phụ mẫu yêu
thương để đối đãi. Với những người nông nổi trót sa chân phạm tội ông lấy lượng
bao dung, nghiêm mà khoan để cải biến con người. Tình ấy, đức ấy của quan Tổng
đốc được đông đảo nhân dân, sĩ phu trong vùng hết lời ca ngợi.
Thời gian làm Phủ doãn Thừa Thiên cũng là thời gian người nghệ sĩ lớn
trong lốt ông quan to Đào Tấn được thỏa sở nguyện của mình. Nhậm chức Tổng
đốc chưa lâu, ông đã cho người lập rạp hát lấy tên là Như Thị Quan, mời tất cả các
danh ca Bình Định đưa ra đất Nghệ để vừa học nghề vừa diễn tuồng. Những lúc thư
rỗi, ông thường cùng con đọc sách, viết văn và tổ chức những đêm hát bội cho nhân
dân đến xem. Bên cạnh một Tổng đốc Đào Tấn hiền hậu, uy nghiêm, người ta còn
thấy một đạo diễn, một diễn viên Đào Tấn có tâm, có tài thực sự.
Năm 1894 (Thành Thái thứ 6), Đào Tấn về Thượng thư Bộ Công lần thứ
nhất, đến năm 1896 (Thành Thái thứ 8), ông đổi qua Binh Bộ Thượng thư. Qua năm
sau, ông giữ chức Hình Bộ Thượng thư. Tháng 5 năm ấy, cụ bà thân sinh ông mất
tại Kinh thành Huế, ông được cho về chịu tang mẹ.
Tháng 3 năm 1898 (Thành Thái thứ 10), Đào Tấn được thăng Hiệp biện đại
học sĩ, lãnh chức Nam Nghĩa Tổng đốc. Tại đây ông kết thâm giao với nhiều nhân
sĩ ưu tú như Nguyễn Thuật, Nguyễn Thành, Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh...
Tám tháng sau ngày nhậm chức Tồng đốc Nam Nghĩa, Đào Tấn được đổi

sang làm Tổng đốc An Tịnh lần thứ hai, nắm quyền tiết chế trong tay, triều thần đều
nể trọng. Lần này, ông quảng giao không còn dè dặt nữa.

Footer Page 25 of 16.


×