Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH. SỨ MỆNH CỦA TÀI CHÍNH CÔNG TRONG KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở MỘT SỐ NƯỚC TIÊU BIỂU, LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.89 KB, 28 trang )

Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1.

Tổng quan về thị trường tài chính

Xung quanh vấn đề tài chính có rất nhiều quan niệm khác nhau. Nhưng tổng
kết lại, tài chính mang những đặc điểm sau : tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong
những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có những hiện tượng kinh tế xã hội
khách quan nhất định xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những hiện tượng kinh tế xã
hội khách quan đó như tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển
của tài chính với tư cách là phạm trù lịch sử. Tài chính thuộc lĩnh vực phân phối
dưới hình thái giá trị. Nó là tổng thể các quan hệ kinh tế trong quá trình hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân, nó gắn liền với sự ra đời và
tồn tại và hoạt động của nhà nước, phát triển trong các mối quan hệ hữu cơ với nền
sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hay nói cách khác tài chính là quá
trình phân phối các nguồn lực tài chính có hạn nhằm đáp ứng nhu cầu các chủ thể
trong nền kinh tế.
Bản chất của tài chính thể hiện ở những khía cạnh sau : tài chính là những
quan hệ kinh tế nhưng không phải mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều thuộc phạm
trù tài chính. Tài chính chỉ bao gồm những quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị.
Tài chính là những quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ. Đây là một đặc trưng quan trọng của tài chính. Tài chính là
những quan hệ kinh tế chịu sự tác động trực tiếp của nhà nước, của pháp luật,
nhưng tài chính không phải là luật lệ tài chính. Luật tài chính là công cụ của nhà
nước để điều tiết các quan hệ tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu của nhà nước.
Trong nền kinh tế các quan hệ tài chính xuất hiện đan xen nhau liên hệ, tác
động ràng buộc lẫn nhau trong một thể thống nhất tạo nên hệ thống tài chính. Có


thể chia hệ thống tài chính làm 2 kênh dẫn vốn : kênh dẫn vốn qua thị trường tài
chính (trực tiếp), kênh dẫn vốn qua các trung gian tài chính như ngân hàng thương
mại, quỹ bảo hiểm, quỹ tín dụng… (gián tiếp). Nhờ 2 kênh này mà vốn được lưu

NHÓM 5

1


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

chuyển thuận lợi, giảm được rất nhiều chi phí giao dịch giữa hai bên cung và cầu
vốn.
1.2.

Khái niệm khủng hoảng tài chính

Khủng hoảng tài chính xảy ra trong các mối quan hệ tài chính và các kênh
dẫn vốn trong nền kinh tế. Khủng hoảng tài chính nảy sinh khi các mối quan hệ này
đạt tới mức thấp có nghĩa là bên cung vốn không muốn tài sản tài chính mà mình có
cho bên cầu vốn nữa. Và điều này tác động lên các kênh dẫn vốn, làm cho nó bị tê
liệt không phát huy được tác dụng và do đó sẽ làm sụp đổ hoặc suy yếu các tổ chức,
định chế tài chính. Các tổ chức định chế tài chính này không bao giờ biệt lập với
nhau mà chúng có quan hệ mật thiết, do đó khủng hoảng tài chính thường làm sụp
đổ hàng loạt tổ chức, định chế, gây thiệt hại to lớn.
Khủng hoảng tài chính là vấn đề có liên quan đến một phạm trù, đó là chu kì
kinh doanh. Quy luật chung của con đường phát triển được miêu tả như đồ thị hình
sin. Đó là bất kì một lĩnh vực nào cũng có thời kì phát triển rực rỡ, huy hoàng, có

lúc ổn định và có thời gian thoái trào. Nghiên cứu kinh tế Mỹ đã chỉ ra rằng tiền tệ
-tài chính đóng góp một vai trò quan trọng trong việc tạo ra chu kì kinh doanh. Mỗi
cơn suy thoái trong thế kỉ XX đã đứng liền sau một sự suy giảm tỉ lệ tăng trưởng
tiền tệ. Ngược lại nếu nền kinh tế lâm vào suy thoái cũng là nguyên nhân không nhỏ
dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính. Điều này được giải thích bởi quan hệ tài
chính có mối liên hệ hữu cơ, mật thiết với nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng
hoá tiền tệ.
Các khái niệm về khủng hoảng tài chính :
Khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ của thị trường tài chính mà trong đó những lưa


chọn bất lợi và tâm lý hoang mang đã trở nên xấu đi, dẫn đến hậu quả thị trường tài
chính không thể có những quỹ hiệu quả cũng như cơ hội đầu tư tốt nhất. (Định
nghĩa của Frederic Mishkin, tác giả cuốn sách The Economics of Money,
Banking and Financial Markets).

NHÓM 5

2


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Khủng hoảng tài chính là tình trạng mà trong đó một bộ phận của nền tài chính có
những khoản nợ lớn hơn giá trị tài sản thực có trên thị trường gây ảnh hưởng tới các
cán cân đầu tư khác, dẫn tới sự sụp đổ của không ít công ty tài chính, dẫn tới việc
Chính phủ bắt buộc phải có những can thiệp. (Định nghĩa của Sundarajan và
Balino năm 1991).

Khủng hoảng tài chính là việc mất niềm tin vào giá trị của đồng tiền hoặc những tài
sản tài chính khác khiến cho các nhà đầu tư quốc tế thu hồi quỹ đầu tư của họ ra
khỏi quốc gia bị khủng hoảng.
1.3.
Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính
Tùy theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm
-

sau đây :
Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền.
Tỷ giá hối đoái tăng đột biến và dây chuyền.
Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng sụt giảm
làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
Hệ thống ngân hàng bị tê liệt.
Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng.
Các hoạt động kinh tế bị suy giảm.
1.4.
Phân loại khủng hoảng tài chính
1.4.1. Khủng hoảng tiền tệ (Currency crisis)
Khủng hoảng tiền tệ còn được gọi là khủng hoảng tỷ giá hối đoái nổ ra khi
hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn đến sự giảm giá một cách đột ngột của đồng nội tệ
hoặc trường hợp buộc các cơ quan có trách nhiệm phải bảo vệ đồng tiền của nước
mình bằng cách nâng cao lãi suất hay chi ra một khối lượng lớn dự trữ ngoại hối.
1.4.2. Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis)

Khủng hoảng ngân hàng rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính
nhận tiền gửi của các cá nhân và pháp nhân cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số
lương, thời hạn cũng như chùng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng
do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho
ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ

thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống.
Trong trường hợp khủng hoảng, các ngân hàng thương mại thường có xu hướng siết

NHÓM 5

3


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các
doanh nghiệp vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.
1.4.3. Khủng hoảng kép (Twin Crisis)
Khủng hoảng kép xảy ra khi khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng
xảy ra đồng thời với nhau.
1.4.4. Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis)
Trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thức, vay thương mại) quá
nhiều, sử dụng không hiệu quả vốn nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng
hoảng buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (như trường hợp
của CHDCND Triều Tiên). Có nhiều tiêu chí đánh giá khả năng thanh toán nguồn
vay nước ngoài của một quốc gia, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là tỷ lệ giữa
nguồn vay nước ngoài cả gốc và lãi mà quốc gia đó trả trong một năm trên tổng kin
ngạch xuất khẩu của quốc gia đó trong năm đó hoặc năm trước đó. Bình thương chỉ
tiêu này nằm dưới 20%, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 20% chứng tỏ lượng vốn vay nước
ngoài của quốc gia đó quá lớn. Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều (Argentina, hay
nhiều nước châu Phi vừa qua) cùng với tiến trình toàn cần hóa kinh tế do các điều
kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
1.4.5. Khủng hoảng thị trường chứng khoán (Crisis of Security

Market)
Với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất
ngạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng khoáng
xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “giảm không phanh”
quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị
“bán đổ”, “bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự
thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ
chứng khoán).
1.4.6. Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân

vốn (Crisis of Balance of Payment/ Crisis of Current Account/
Crisis of Capital Account)
Khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và
không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân

NHÓM 5

4


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

thương mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt. Khủng hoảng cán cân thanh toán khi
tổng các luồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào gây nên thâm hụt nặng nề.
1.4.7. Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản (Crisis of Liquidity)
Nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả ba mặt : số lượng,
thời hạn và chủng loại tiển thì khủng hoảng tính thanh khoản là sự mất cân đối chủ
yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của tài sản “giống như tiền” và một số loại

tài sản đặc thù.
1.4.8. Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis)

Ngân sách nhà nước thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù
đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm
dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
1.5.
Các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính
1.5.1. Nguyên nhân bên ngoài
Như đã đề cập ở trên, các quan hệ tài chính là một phần của quan hệ kinh tế,
có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá
tiền tệ. Hệ thống tài chính được coi như huyết mạch trong nền kinh tế. Khi nền kinh
tế suy thoái, tức là nền sản xuất hàng hoá giảm sút, không thu được lợi nhuận. Để
đảm bảo an toàn cho tiền của mình bên cung vốn muốn rút vốn lại hoặc không
muốn cho vay vì sợ không thu hồi được nợ. Do đó các ngân hàng, tổ chức tài chính
sẽ phải đối mặt với một lượng tiền mặt lớn để trả cho người gửi, dẫn đến nguy cơ
phá sản. Trên thị trường chứng khoán lúc này giá trị thực của các công ty niêm yết
sẽ tụt dốc làm xuất hiện tình trạng bán tháo cổ phiếu, trái phiếu…
Ngoài ra các tài sản do các tổ chức định chế tài chính nắm giữ cũng bị mất
giá nghiêm trọng làm giá trị thực của chúng bị giảm, gây nên tình trạng khủng
hoảng. Tính thanh khoản của thị trường theo đó cũng đi xuống.
Chẳng những thế, tình trạng làm ăn thua lỗ, phá sản của các công ty, tập
đoàn sản xuất cũng kéo theo những khoản đền bù khổng lồ từ các công ty bảo hiểm
làm cho các công ti này cũng bị sụp đổ theo do không đủ khả năng chi trả.
Suy thoái kinh tế là vấn đề mang tính chu kì do đó khủng hoảng tài chính bắt
nguồn từ suy thoái kinh tế cũng mang tính chu kì. Nền kinh tế suy thoái chứng kiến

NHÓM 5

5



Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

sự thua lỗ, phá sản của hàng loạt không những của hãng sản xuất mà còn cả sự sụp
đổ trong lĩnh vực tài chính. Suy cho cùng tài chính cũng là một bộ phận của kinh tế.
1.5.2. Nguyên nhân bên trong
Trên thị trường tài chính, khủng hoảng có thể do nguyên nhân từ hoạt động

bên trong của chính nền tài chính ấy. Trong nền tài chính của bất kì một quốc gia
nào dù phát triển đến đâu cũng phải đối mặt với những vấn đề như: thông tin không
cân xứng, chọn lựa đối nghịch, rủi ro đạo đức…
1.6.
Hệ quả của khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính, nói chung, thường gây ra những tác động lớn đối với
xã hội. Bởi kinh tế đóng vai trò then chốt trong việc ổn định trật tự xã hội, nên khi
nền kinh tế bị tác động mạnh, nó sẽ kéo theo những ảnh hưởng (cả tích cực lẫn tiêu
cực) trong mọi lĩng vực, mọi khía cạnh của đời sống.
Xét về mặt tiêu cực, khủng hoảng tài chính góp phần không nhỏ làm đảo lộn
trật tự xã hội. Trong tất cả các doanh nghiệp, tài chính luôn là vấn đề cốt lõi nhằm
duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp và cuộc sống của người lao động. Khi gặp
phải khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp khó có khả năng mở rộng đầu tư và
phát triển, gây sự đình trệ trong công việc, thậm chí phá sản. Theo hiệu ứng dây
chuyền, sự phá sản của doanh nghiệp này sẽ tác động tới các doanh nghiệp khác và
cao hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế (tùy theo quy mô của doanh nghiệp). Không
những thế, khủng hoảng tài chính còn góp phần gây ra những bất ổn về xã hội do
lượng người thất nghiệp gia tăng.
Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính cũng có những tác động tích cực lên nền

kinh tế. Nó báo hiệu sự chấm dứt thể độc tôn của các “ông lớn” trên thị trường tài
chính, góp phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế. Đồng thời, khủng hoảng tài
chính cũng buộc người ta phải xem xét, sửa đổi các nguyên tắc đã quy định lên hệ
thống tài chính từ trước tới nay, loại bỏ những nguyên tắc đã không còn thích hợp
để thích ứng với những biến đổi trong xã hội, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn và chủ
động ứng phó với những cuộc khủng hoảng trong tương lai.

NHÓM 5

6


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Một số phương pháp ngăn ngừa cơ bản
• Tại cuộc họp các bộ trưởng tài chính tại Washington tháng 5 năm 1999,
1.7.

-

người ta thông qua bản kế hoạch ngăn ngừa khủng hoảng như sau :
Tránh tác động qua lại giữa mất cân đối bảng cân đối tài chính của ngân hàng với tỷ

-

giá cố định.
Nhiều ý kiến cho rằng chính ngân hàng ở các thị trường mới nổi cần phải ngăn cản
những khoản vay ngoại tệ ngắn hạn nhiều rủi ro.


NHÓM 5

7


Bài tiểu luận

-

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Tránh áp dụng chế độ tỷ giá cố định là một biện pháp quan trọng làm cho rủi ro tiền
tệ không được bảo hiểm trở nên rõ ràng và đơn giản hơn, song vẫn chưa đủ về

-

những biến động tiền tệ vẫn xảy ra cả khi đã áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi.
Áp dụng biện pháp kiểm soát vốn nghĩa là sử dụng các hình thức cấm đoán song
phải đặc biệt chú ý để không dẫn tới sự lạm dụng, tham nhũng hay tạo ra những kẽ

-

hở.
Thuế có vẻ như là biện pháp được ưa chuộng, chẳng hạn Chilê đã thành công trong

-

việc đánh thuế những khoản vay bằng ngoại tệ mặc dù biện pháp này khá thô bạo.
• Nhiều nhà kinh tế đề xuất các giải pháp ngăn ngừa như sau :

Nền kinh tế quốc gia không thể dựa chủ yếu vào vốn bên ngoài đặc biệt là vốn vay
ngắn hạn và đầu tư vào thị trường cổ phiếu. Nhà nước cần theo dõi và có chính sách
hạn chế vay mượn nước ngoài dù tư nhân hay Nhà nước ở mức độ nền kinh tế có

-

thể chịu đựng được.
Xác định đúng tỷ giá hối đoái nhằm tạo tính cạnh tranh cho xuất khẩu, tăng hiểu
quả sử dụng hàng nhập khẩu. Cân bằng cán cân thương mại đồng thời có biện pháp

-

ngăn chặn dòng vốn ngắn hạn có tính chất đầu cơ.
Cần có biện pháp giảm áp lực tăng giá bất động sản tránh tình trạng nền kinh tế
“bong bóng” nhằm tạo môi trường ổn định cho đầu tư và đời sống nhân dân. Tăng
thuế thu nhập do mua đi bán lại trong thời gian ngắn là biện pháp hữu hiệu nhằm

-

giảm bớt nhu cầu đầu cơ.
Ngăn chặn tình trạng “bong bóng” trên thị thường cổ phiếu, cần hạn chế người
nước ngoài mua cổ phiếu và vay tín dụng ngân hàng để mua cổ phiếu cũng như
dùng chứng khoán để thế chấp vay mượn.
Kết luận: Theo như trên thì kiểm soát vốn là công cụ ngăn ngừa khủng hoảng

-

tài chính – tiền tệ hữu hiệu nhất vì :
Kiểm soát vốn có thể được sử dụng như một phương pháp để đảm bảo sự độc lập


-

của chính sách tiền tệ.
Kiểm soát vốn có thể được biện minh như một công cụ nhằm cải thiện an ninh kinh
tế. Sự đảm bảo tuyệt đối của Chính phủ đối với các khoản nợ nước ngoài đi kèm
với hệ thống thông tin tương xứng giữa ngân hàng và các cổ đông (những người gửi

-

tiết kiệm) cũng đưa đến an sinh xã hội.
Tự do hóa tài chính là tất yếu khách quan với một quốc gia mong muốn tăng lợi ích
đầu tư, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nâng cao mức sống. Tuy nhiên, với các thị

NHÓM 5

8


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

trường tài chính chưa hoàn thiện, các dòng chuyển dịch vốn không ổn định thì việc
kiểm soát vốn sẽ giảm bớt những rủi ro đạo đức, lựa chọn nghịch, đối xử không
công bằng… nếu có các chính sách hợp lý như thuế, giám sát ngân hàng sự đảm
bảo của Chính phủ và pháp luật…

CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH CỦA TÀI CHÍNH CÔNG TRONG KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH Ở MỸ GIAI ĐOẠN 2007-2009
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều

lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007. Cuộc
khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản
thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 20072010. Cuộc khủng hoảng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, lộ rõ những điểm yếu
tràn lan trong khuôn khổ luật lệ của hệ thống tài chính toàn cầu.
2.1 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính

Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ
nói riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp
mà chính các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình.

NHÓM 5

9


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau –
đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ như sau:
2.1.1. Sự suy sụp của thị trường bất động sản - nguyên nhân trực
tiếp và rõ ràng nhất
Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng sau đó trả vốn
lẫn lãi trong một thời gian dài (20-30 năm) với lãi suất thả nổi. Do đó, có một sự
liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất
thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi
suất cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà cửa xuống thấp. Đây
chính là cơ chế tạo nên hiện tượng bong bóng bất động sản – hiện tượng chỉ tình
trạng thị trường trong đó giá bất động sản hoặc tài sản bất động sản được giao dịch

tăng đột biến đến một mức giá vô lí hoặc không bền vững.
Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng bất động sản ở Mỹ:
-

Thứ nhất, từ đầu năm 2011, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 / 9, khi mà sau vụ
khủng bố giá các cổ phiếu Mỹ sụt giảm, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục
dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System – Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn
đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa
năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục

-

được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của
Chính phủ lúc bấy giờ là tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn để
mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi
Chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị
trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng
thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được đảm bảo bằng các khoản vay
thế chấp, rồi bái lại cho các nhà đầu tư ở phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư

-

khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Ba là, khế ước nhận nợ của người mua nhà trở thánh một loại chứng khoán (chứng
khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào giao dịch trên

NHÓM 5

10



Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

thị trường thứ cấp. Trên thị trường này, nhiều nhà đầu tư cá nhân thông qua người
môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng khoán này để nhận lãi hằng năm mà không
biết rõ nó là cái gì.
 Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất sôi động, có rất nhiều người thu nhập

thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay,
nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thương được cho mượn dưới
hính thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này
đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ
USD năm 2004 và trên 1.300 tỉ USD vào năm 2007 (10% GDP của Mỹ). Fannie
Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải
đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman
Brothers.
 Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc tăng liên tục giá bất
động sản. Giá nhà bình quân đã tăng lên 54% chỉ trong vòng 4 năm từ 2001 đên
2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ
quả là người ta sẵn sang mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ
sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Nhưng sau
đó, giá bất động sản không ngừng giảm xuống, giá trị các căn hộ ngày càng thấp
hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức tín dụng giảm xuống thì ngân hàng thu hồi
nợ, nhưng người mua nhà không có khả năng thanh toán.
2.1.2. Cho vay dưới chuẩn – nguyên nhân sụp đổ thị trường bất
động sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ
Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách

tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm làm nảy sinh những
dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lương lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn
vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dễ
dàng trong việc định lại giá tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm trả cho
khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như : không cần tài sản
thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật
sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được

NHÓM 5

11


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

vay đã làm gia tăng rủi ro cho các ngân hàng. Về phía ngân hàng, tuy hình thức cho
vay này rủi ro rất lớn, nhưng đổi lại là mức lãi suất rất cao. Mặt khác, các công ty
tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro
qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài chính gọi là “mua lại các
khoản nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiếc
khấu cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hóa các
khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất cao. Rõ
ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín
nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không có
mức độ xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận
do lãi suất siêu hạng.
Một lương vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động

sản Mỹ và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền
đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất
động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu này sụt
giá thê thảm, các ngân hàng không đủ khả năng trả các khoản nợ lâm vào tình trạng
phá sản.
2.1.3.

Mua bán khống

Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến
cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo
nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức
nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền
chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.
Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short
sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh
xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư
pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của sau một cơn
bão”.

NHÓM 5

12


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ

Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng
2.1.4.

đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân
hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền.
Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà
đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần định mức
tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài
chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua CK này,
nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường BĐS ở Mỹ tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế
2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách
nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính
Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản
phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của
mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt
giá”.
2.1.5.

Khủng hoảng niềm tin

Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc
của niềm tin. Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư
của Mỹ đã làm người dân chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Hệ thống các ngân hàng
trong con mắt mọi người trở nên mong manh khi mà ba trong năm ông lớn tại thị
trường phố Wall sụp đổ là Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bearstearns.
Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó
đã bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman - ngân hàng tồn tại hơn 158 năm,
cùng nước Mỹ trải qua rất nhiều khó khăn, trải qua các cuộc suy thoái là biểu tượng

đánh dấu mức độ tin cậy đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp
tục.
2.2.

NHÓM 5

Tác động của khủng hoảng kinh tế đối với nền kinh tế
2.2.1. Đối với Mỹ

13


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Mỹ rơi vào suy
thoái từ tháng 12 năm 2007. NBER dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng
nhất ở Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng từ tháng 1
tới tháng 9 năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao động Mỹ bị mất việc làm.
Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và
lâu đời bị phá sản đã đẩy kinh tế Mỹ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình
trạng đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu
hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia
tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình
lại làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá
sản hoặc có nguy cơ bị phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Mỹ
là General Motors, Ford Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này
đã nỗ lực vận động Quốc hội Mỹ cứu trợ, nhưng không thành công. Hôm 12 tháng
12 năm 2008, GM đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu

vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền
kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Mỹ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương
tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua
dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này
làm cho xuất khẩu của Mỹ bị thiệt hại.
2.2.2. Đối với Thế giới

Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy
thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất
khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Singapore, Hong Kong và
Đài Loan rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại. Châu
Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Mỹ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài
chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành khủng
hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực
là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng

NHÓM 5

14


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ
ngày thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Mỹ, nên
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá

dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ
cho sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho
các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra
đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao
trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộckhủng hoảng giá
lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp phải đợt mất
giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình
sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho
các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn cho xuất
khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải
xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tiền
tệ khi won liên tục mất giá từ đầu năm 2008.
2.3.

Sứ mệnh của tài chính công

-

19/9/2008: Quan chức Chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai kế hoạch 700 tỷ USD giúp

-

các ngân hàng thoát khỏi tình trạng nợ xấu.
6/10/2008: FED công bố kế hoạch mua một lượng lớn các khoản nợ ngắn hạn từ

-

các công ty nhằm khai thông thị trường tiền tệ đang đóng băng.
14/10/2008: Chính phủ Mỹ dùng 250 tỷ USD trong gói 700 tỷ để mua lại cổ phiếu


-

của một số ngân hàng quan trọng.
9/11/2008: Tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG có thêm hỗ trợ tài chính của Chính
phủ Mỹ, nâng tổng khoản tiền nhận cứu trợ lên 150 tỷ USD (khoản cứu trợ ban đầu

-

là 85 tỷ USD).
12/11/2008: Từ bỏ kế hoạch dùng một phần trong 700 tỷ USD mua lại khoản nợ
xấu của các ngân hàng. Thay vào đó, chính phủ sẽ tập trung mua cổ phiếu của các
tổ chức cho vay đang gặp khó khăn.

NHÓM 5

15


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

-

15/11/2008: Hội nghị thượng đỉnh của nhóm các nền kinh tế giàu nhất thế giới được

-

tổ chức tại Washington (Mỹ), do Tổng thống Bush chủ trì.

23/11/2008: Các cơ quan quản lý tài chính chủ chốt của Mỹ, gồm Bộ Tài chính, Cục
Dự trữ liên bang (FED) và Hãng bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) thông báo các
biện pháp lập lại ổn định tại Citigroup Inc. Bộ Tài chính sẽ bỏ ra 20 tỷ từ gói 700 tỷ
USD để hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng có mạng lưới dịch vụ rộng nhất thế giới
này. Trước đó, Citi đã nhận 25 tỷ USD và là một trong những ngân hàng đầu tiên

-

nhận được hỗ trợ của Chính phủ Mỹ.
25/11/2008: Gói giải pháp mới với tổng số tiền lên tới 800 tỷ USD được công bố.
Ngày 13/1/2009: Tổng thống đắc cử Mỹ B.Obama yêu cầu QH nước này giải ngân
tiếp 350 tỷ USD trong Chương trình cứu trợ các tài sản đang gặp khó khăn (TARP)

-

trị giá 700 tỷ USD giúp nước Mỹ đối phó cuộc khủng hoảng tài chính.
Ngày 15/1/2009: Thượng viện Mỹ bỏ phiếu chấp thuận cho Chính phủ giải ngân
tiếp 350 tỷ USD kích thích kinh tế với tỷ lệ phiếu thuận/phiếu chống là 52/42. Một
nửa còn lại của gói kích thích kinh tế 700 tỷ USD đã được chấp thuận để mua lại

-

các tài sản đang gặp khó khăn tại Mỹ.
Đầu tháng 2/2009: Bộ trưởng bộ Tài chính Mỹ Timothy Geithner vừa mới tiết lộ
một kế hoạch cứu trợ ngân hàng toàn diện trị giá ít nhất 1,5 nghìn tỷ USD với các
mục tiêu sẽ hâm nóng lại thị trường tín dụng, củng cố các ngân hàng và hỗ trợ tích
cực cho những người sở hữu nhà và các doanh nghiệp nhỏ; và đồng thời với việc
triển khai này là áp dụng các tiêu chuẩn mới và cao hơn về tính minh bạch cũng như

-


trách nhiệm giải trình.
 Các nước khác (tháng 11/2008)
Nhật Bản: Thủ tướng Nhật Bản Taro Aso đã thông báo khoản cứu trợ cả gói trị giá
27 nghìn tỷ yên (275 triệu đôla) trong đó có việc tăng cường hỗ trợ tín dụng cho các

-

doanh nghiệp nhỏ.
Liên minh châu Âu: Đưa ra dự thảo cho chương trình cả gói kích thích kinh tế
trong vòng 2 năm. Gói này sẽ chiếm ít nhất 1% tổng thu nhập của khối, tương

-

đương khoảng 130 tỷ euro (170 tỷ USD).
Trung Quốc: Công bố gói giải pháp kinh tế trị giá 586 tỷ USD nhằm ngăn chặn tác
động của khủng hoảng tài chính. Khoản tiền 586 tỷ USD được dành cho 10 lĩnh
vực, trong đó có cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội từ nay đến năm 2010, tiêu dùng của

NHÓM 5

16


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

người dân, đặc biệt là nhà ở giá rẻ, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và tái thiết các
vùng bị thiên tai, như khu vực bị động đất tại tỉnh Tứ Xuyên. Một phần của gói kích

-

thích cũng được dành cho khu vực tư nhân.
Hàn quốc: Chính phủ Hàn Quốc công bố khoản cứu trợ trị giá 100 tỷ đôla trong
thời hạn 3 năm để hỗ trợ cho tất cả các khoản nợ nước ngoài do các tổ chức tài
chính trong nước đang phải gánh chịu; đồng thời là khoản hỗ trợ 30 tỷ đôla bơm
vào các ngân hàng nhằm tăng tính thanh khoản.
Ngoài ra, trong khu vực Đông Á, Trung quốc, Hàn quốc, Nhật Bản xem xét
đóng góp dự trữ ngoại hối trong một quỹ chung trị giá 80 tỷ đôla nhằm đối phó với
khủng hoảng.

-

Tại Mỹ Latinh: Ác-hen-ti-na trở thành nước đầu tiên có các động thái ngăn chặn đà
suy giảm kinh tế. Tổng thống nước này Cristina Kirchner đã đề xuất giảm thuế và
tăng đầu tư, nhằm giúp hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới nền
kinh tế. Tổng thống cũng công bố quyết định bơm hơn 21 tỷ USD cho đầu tư hạ
tầng của nước này.
Ngoài ra, các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng chuẩn bị phương án cứu trợ cho
chính phủ một số nước nếu có nhu cầu. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thông báo chuẩn bị
một khoản trị giá 200 tỷ đôla nhằm sẵn sàng cứu trợ các nền kinh tế gặp khủng
hoảng. Ukraine, Hungary và Iceland là những nước đầu tiên nhận cứu trợ của IMF.
Ngân hàng thế giới thông qua Ngân hàng tái thiết phát triển quốc tế thuộc nhóm
Ngân hàng thế giới năm trước đã cho vay 13,5 tỷ USD cho các nước có thu nhập
trung bình; năm nay trong bối cảnh khủng hoảng, Ngân hàng này thông báo có khả
năng tăng gấp đôi số vốn cho vay trên. Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) trực thuộc
WB cũng đang xem xét thành lập một quỹ đặc biệt để đầu tư và tái cấp vốn cho
ngân hàng vừa và nhỏ tại các nước nghèo nếu chính phủ các nước không đủ khả
năng hỗ trợ. Dự kiến IFC đóng góp khoảng 1 tỷ USD và gây vốn thêm khoảng 2 tỷ
USD từ các định chế tài chính quốc tế, ngân hàng thương mại, cơ quan tài chính của

các chính phủ và nhà đầu tư khác.

NHÓM 5

17


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH CÔNG Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2008 – 2010
Trong giai đoạn 2008 – 2010, vai trò tài chính công ở nước ta được thể hiện rõ
ràng nhất trong điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm ổn định kinh tế,
hạn chế đã suy giảm trước tác động của khủng hoảng toàn cầu đồng thời đưa đất
nước dần phục hồi sau khủng hoảng.
3.1. Tài chính công năm 2008
 Tình hình kinh tế

Trong nửa đầu năm, Việt Nam gánh chịu ảnh hưởng của tình trạng phát triển quá
nóng khởi nguồn từ dòng vốn vào ồ ạt. Kết quả là lạm phát gia tăng, thâm hụt
thương mại, bong bóng bất động sản và giảm sút chất lượng đầu tư.
Chịu tác động từ cuộc khủng hoảng KT thế giới 2007 – 2010.
Các doanh nghiệp sản xuất gặp phải nhiều khó khăn.
 Tình hình xã hội
Lạm phát những tháng đầu năm cao -> khó khăn cho nhân dân.
Doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm lao động. Vào tháng 7/2008,
tổng số người thất nghiệp ở thành thị tăng 2,7% so với năm 2007, đưa tỷ lệ thất
nghiệp của khu vực thành thị lên 4,7% so với 4,6% năm 2007. Con số người thất

nghiệp, mất việc làm và phải giảm giờ làm còn tăng cao hơn nữa trong nửa cuối
năm 2008. Hơn nữa, lạm phát cao càng làm giảm thu nhập thực của đa số dân cư và
có tác động rất xấu đến nhóm người nghèo, thu nhập thấp.
Để đảm bảo ổn định KT vĩ mô và an sinh xã hội chính phủ đã sử dụng TCC như
một công cụ hữu hiệu để tác động và nền kinh tế thông qua chính sách thuế và chi
tiêu công.
3.1.1. Chính sách thuế ( Điểu chỉnh tăng và giảm)
 Điều chỉnh tăng

Điều chỉnh tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu bằng mức trần tối đa theo cam kết
trong WTO của năm 2008 đối với các hàng hoá tiêu dùng không khuyến khích nhập

NHÓM 5

18


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

khẩu (ô tô nguyên chiếc, linh kiện và phụ tùng ô tô; một số mặt hàng điện tử, điện
lạnh,...).
Điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu đối với hàng hoá là tài nguyên thiên nhiên,
khoáng sản (dầu thô, than đá, quặng kim loại…).
Điều chỉnh tăng lệ phí trước bạ đối với ôtô con nguyên chiếc dưới 10 chỗ ngồi.
 Điều chỉnh giảm
Tiếp tục giảm thuế đối với khoảng 1.700 mặt hàng thuộc 26 ngành hàng khác nhau,
với mức giảm thuế từ 1 - 6% (chủ yếu là 2 - 3%).
Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm mặt hàng thiết thực phục vụ

sản xuất (clinke, một số mặt hàng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, giấy in
báo…).
Giãn thời hạn nộp thuế và giảm thuế đối với các đơn vị sản xuất - kinh doanh hoạt
động chế biến hàng XK.
Rà soát, bãi bỏ một số khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân không



còn phù hợp, giảm đóng góp của nhân dân trong điều kiện giá cả tăng.
Giảm giá nguyên liệu đầu vào -> Giảm giá thành sản phẩm.
Giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp trong đk kinh tế trong nước và thế giới gặp

phải nhiều khó khăn.
 Giảm gánh nặng thuế cho người dân.
3.1.2. Chi tiêu tài chính công.
 Cắt giảm 10% chi thường xuyên của các cơ quan Nhà nước (trừ chi
lương)
Nội dung:
Theo chỉ đạo, việc cắt giảm 10% chi tiêu sẽ tập trung vào các nội dung chính
như: tạm dừng mua sắm ôtô công, tài sản có giá trị lớn, sửa chữa trụ sở làm việc;
hạn chế tối đa các khoản chi hội nghị, hội thảo, lễ hội, đi công tác trong và ngoài
nước bằng ngân sách; tiết giảm tối thiểu 10% trong sử dụng điện, nước, điện thoại;
ngừng các khoản chi cho nhiệm vụ chưa cấp bách và nội dung không thiết thực.
Đối với nguồn vốn trái phiếu chính phủ, các bộ, ngành và địa phương sẽ phải
rà soát lại việc phân bổ và xác định nhu cầu vốn trong năm 2008. Trên cơ sở đó, Bộ
Kế hoạch - Đầu tư sẽ xây dựng phương án cắt giảm khoảng 25% kế hoạch vốn đầu
tư từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ năm 2008.
Kết quả: Tiết kiệm chi thường xuyên gần 3 nghìn tỷ đồng

NHÓM 5


19


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm chỉ đạo
của Chính phủ về tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong năm 2008 (trừ các khoản
liên quan đến người lao động).
Số tiền tiết kiệm này được bổ sung vào nguồn thực hiện chính sách an sinh xã
hội; phòng, chống khắc phục thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác.
Rà soát lại danh mục các dự án đầu tư bằng vốn Nhà nước và không tăng tổng
vốn đầu tư
 Giảm 25% tổng vốn đầu tư vào các dự án tài trợ bằng trái phiếu chính

phủ.
Nội dung:
Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương sẽ đình hoãn khởi công các dự án
không có trong quy hoạch được phê duyệt, chưa đủ thủ tục, chưa giải phóng mặt
bằng hoặc còn nhiều vướng mắc về thủ tục. Ngừng triển khai các dự án chưa thực
sự cấp bách, không mang lại hiệu quả. Đình hoãn các dự án xây dựng trụ sở các cơ
quan, xây dựng hội trường, bảo tàng, nhà văn hóa đã có kế hoạch năm 2008 nhưng
chưa khởi công. Thực hiện giãn tiến độ các dự án: đã được duyệt hoàn thành đưa
vào sử dụng năm 2007 trở về trước nhưng bố trí vốn không đủ tiến độ mà đến hết
năm 2007 số vốn bố trí chưa được 50% khối lượng dự án; các dự án còn vướng mắc
trong thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng.
Các bộ, ngành và địa phương không thực hiện rà soát sẽ không được tạm ứng
vốn. Số vốn có được từ các biện pháp này sẽ được chuyển cho các dự án có hiệu

quả, cấp bách, hoàn thành trong năm 2008 - 2009.
Kết quả: Đình hoãn, giãn tiến độ gần 2 nghìn dự án, công trình
Việc rà soát lại các công trình, dự án, danh mục dự án đầu tư sử dụng vốn từ
nguồn ngân sách nhà nước cần phải đình hoãn hoặc giãn tiến độ cũng được các Bộ,
ngành, địa phương triển khai nghiêm túc. Theo đó, tổng số công trình, dự án đình
hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008
là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng.
Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng.

NHÓM 5

20


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

 Tăng cường thu hút và giải ngân ODA

Nội dung:
Năm 2008, Bộ Tài chính đã tiến hành thẩm định và phê duyệt cho 08 dự án.
Các dự án này hỗ trợ cho Bộ Tài chính trong lĩnh vực: quản lý doanh nghiệp, quản
lý nợ, phân tích chính sách tài chính, quản lý rủi ro hải quan, nâng cao năng lực,
hậu WTO, quản lý thuế và quản lý giá.
Tình hình đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA:Tổng vốn đầu
tư của 08 dự án này gần 10 triệu USD, quy đổi ra là gần 141 tỷ VNĐ (trong đó vốn
ODA viện trợ không hoàn lại gần 9 triệu USD).
Kết quả: Tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA năm 2008

Năm 2008, Bộ Tài chính tiếp nhận thêm 08 dự án mới, kết thúc 01 dự án, đưa
tổng số dự án đang thực hiện lên 25 chương trình, dự án với tổng giá trị cam kết lên
đến gần 248 triệu USD (trong đó 203 triệu ODA vay và 45 triệu ODA không hoàn
lại). Các dự án của Bộ Tài chính chủ yếu là dự án có quy mô vừa (10 dự án) và nhỏ
(11 dự án).

Biểu đồ 2.1 - Số lượng dự án theo quy mô vốn
Các dự án do nước ngoài tài trợ cho Bộ Tài chính tập trung hỗ trợ cho các lĩnh
vực quản lý thu NSNN (64%), quản lý chi NSNN (26%), quản lý nợ, lĩnh vực bảo
hiểm….

NHÓM 5

21


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Hình 2.2: Biểu đồ phân loại theo lĩnh vực
Phân loại dự án theo loại hình tài trợ thì số lượng các dự án do các Tổ chức tài
chính quốc tế và tổ chức quốc tế tài trợ (11 dự án) gần tương đương với số lượng dự
án do các song phương (12 dự án). Tuy nhiên, quy mô vốn thì hoàn toàn khác biệt
(dự án do TCTCQT và TCQT chiếm tỷ lệ cao nhất và chủ yếu nhất (88%).
Tóm lại, có thể nói, những kết quả đạt được trong thu hút và sử dụng ODA của
Việt Nam trong năm qua đã cho thấy cộng đồng tài trợ quốc tế đã khẳng định sự
đồng tình và ủng hộ chính sách ngoại giao mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá
của Việt Nam. Đồng thời, việc tiếp nhận và sử dụng ODA đã góp phần tăng cường
và củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác góp phần quan trọng

cho tổng đầu tư toàn xã hội, chiếm khoảng 12-13%. Song điều quan trọng hơn cả là
nguồn vốn ODA đã được tập trung để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, góp
phần tạo lập môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu vực tư
nhân nhằm xoá đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh những kết quả khả quan trong thu hút và sử dụng ODA thì vẫn còn
một số yếu kém:
Thứ nhất, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực nêu trên song có thể thấy
tỷ lệ giải ngân ODA của Việt Nam còn thấp so với mức trung bình của khu vực.

NHÓM 5

22


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Thứ hai, các văn bản pháp quy về ODA chưa được thực hiện đầy đủ; Chất
lượng văn kiện chương trình, dự án chưa cao; Năng lực nhà thầu/tư vấn không đáp
ứng được yêu cầu công việc; Cơ chế bố trí vốn đối ứng giữa Trung ương và địa
phương chưa phù hợp; Năng lực tổ chức và quản lý ODA ở cấp địa phương còn
nhiều hạn chế; Cơ chế phối hợp giữa Ban QLDA Trung ương và Ban QLDA của địa
phương chưa chặt chẽ; Công tác xây dựng kế hoạch hoạt động, kế hoạch chuẩn bị
đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án của các Sở, ngành, Ban QLDA địa phương thường
chậm và bị động; Sự khác biệt về quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ,
đặc biệt trong lĩnh vực đấu thầu, chính sách về an sinh xã hội làm chậm tiến độ
thực hiện và giải ngân; Thay đổi quy hoạch ở địa bàn nơi thực hiện dự án là một
trong những nhân tố đã tác động không nhỏ đến tiến độ của dự án...
Thường xuyên rà soát, kiểm tra chi tiêu vay nợ của các DNNN

Đề xuất quy định mới về quản lí tài chính của các DNNN, trong đó yêu cầu
DNNN tập trung vào lĩnh vực kinh doanh và các khoản đầu tư của DNNN vào
ngân hang và chứng khoán phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt trong 2008 nhà nước có chính sách tiền lương cho người nghỉ hưu và CNV
thu nhập thấp. Cụ thể:
Ngày 12/9/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định 101/2008/NĐ-CP điều chỉnh
tăng lương hưu nói chung và trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ
xã, phường đã nghỉ việc thêm 15% từ ngày 1/10 tới.
Cũng từ ngày 1/10/2008, dự kiến sẽ áp dụng trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công
chức, viên chức và người hưởng lương thuộc LLVT có mức thu nhập thấp (hệ số
lương từ 3,0 trở xuống) với mức trợ cấp 270.000 đồng/người/quý.
3.2. Tài chính công 2009
• Tình hình KT – XH:
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế
thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị
trường vốn, thị trường lao động.
Việc thực thi chính sách kích thích kinh tế, ở một chừng mực nhất định nào đó, sẽ
gây áp lực làm tăng lạm phát và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội
khác của nước ta.

NHÓM 5

23


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Chính phủ đã sử dụng công cụ tài chính công như thế nào để giảm tốc độ theo

đà suy thoái kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội?
3.2.1. Những chính sách điều chỉnh thuế 2009

Chính sách thuế 2009 có thay đổi đáng kể so với các năm trước được thể hiện cụ
thể nhất qua 3 loại thuế:
Thuế TNCN.
Thuế TNDN.
Thuế VAT.
 Thuế thu nhập DN
Giảm thuế suất thuế TNDN từ 28% xuống 25%.
Giảm 30% thuế TNDN cho các DNVN.
Giãn nộp thuế TNDN trong 9 tháng cho 1 số DN.
Giảm bớt gánh nặng thuế cho DN, tạo điều kiện cho DN tập trung vốn vào
phục vụ sản xuất.
 Thuế thu nhập cá nhân
Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các khoản thu nhập chịu thuế
Kể từ năm 2009, thu nhập chịu thuế không chỉ gói gọn trong thu nhập từ tiền lương,
tiền công, mà còn bao gồm thu nhập từ đầu tư chứng khoán, đầu tư vốn, chuyển
nhượng vốn, thừa kế, quà tặng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tiền bản quyền
tác giả… Những thay đổi này không chỉ giúp thuế TNCN của Việt Nam phù hợp
với thông lệ quốc tế, mà còn góp phần bù đắp phần nào sự giảm về số thu ngân sách
nhà nước từ thuế gián thu, chẳng hạn như thuế nhập khẩu do thực hiện các cam kết
quốc tế sau khi gia nhập WTO.
Hoãn huế thu nhập cá nhân trong vòng 6 tháng ( bắt đầu từ 6/2/2009)
 Thuế giá trị gia tăng
Thu hẹp từ 28 xuống còn 25 nhóm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế VAT.
Giảm 50% thuế VAT cho một số HHDV và hàng NK.
Áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với các dịch vụ xuất khẩu, mà không
cần thiết là phải có điều kiện tiêu thụ ngoài Việt Nam như trước đây.
3.2.2. Chính sách chi tiêu công

Chính phủ đưa ra gói cứu trợ nhằm trị giá 8 tỷ USD nhằm giải quyết cấp thiết các
vấn đề trước mắt đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội
 Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô

NHÓM 5

24


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Đáng chú ý nhất là việc chính phủ hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp: với tổng trị giá
17000 tỷ đồng. Động thái này có tác động tích cực về cả 2 phía doanh nghiệp và hệ
thống ngân hàng.
Đối với DN: như một chiếc phao cứu sinh làm gia tăng tức thời lòng tin của các
doanh nghiệp, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm
và quyền năng của Nhà nước trong giải cứu các doanh nghiệp đang gặp khó khăn,
cũng như vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước. Đồng thời
“Gói kích cầu” còn trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn
ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó góp phần giảm giá, tăng cạnh tranh và tăng tiêu
thụ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản
xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.
Đối với hoạt động ngân hàng, “gói kích cầu” còn giúp các ngân hàng cải thiện hoạt
động huy động và cho vay tín dụng do không phải hạ thấp lãi suất huy động, vừa
mở rộng đầu ra nhờ không phải nâng lãi suất cho vay dễ làm thu hẹp cầu tín dụng
trên thị trường. Sự ổn định và hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng trong
khi gia tăng dòng tiền bơm vào thị trường là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định
kinh tế vĩ mô và gia tăng các hoạt động đầu tư xã hội.

3.3. Tài chính công 2010
Cùng với những tác động tích cực từ các chính sách TCC 2009 đến nền kinh tế,
các chính sách đã bộc lộ một số điểm hạn chế như viêc: sự lạm dụng, thiếu kiểm
soát và sử dụng không hiệu quả các “gói các kích cầu” sẽ có thể gây ra một số hệ
lụy tiêu cực nặng nề khó đo lường, như: Làm thất thoát, lãng phí các nguồn vốn
vay, gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng “đầu cơ nóng” , lạm phát…
 Chính sách thuế trong năm 2010 nổi bật với 3 lần giảm thuế nhập khẩu xăng
Từ ngày 21/4/2010, thuế nhập khẩu xăng giảm từ 20% xuống 17%, thuế nhập khẩu

các loại dầu giảm từ 15% xuống 10%.
Từ ngày 1/12/2010, thuế nhập khẩu xăng giảm từ 17% xuống 12%, thuế nhập khẩu
dầu giảm từ 10% xuống còn 5%.
Từ ngày 22/12/2010, thuế nhập khẩu xăng giảm còn 6% từ mức 12% trước đó, thuế
nhập khẩu dầu giảm còn 2% từ mức 5% trước đó.
 Về chính sách chi tiêu tài chính công
Tăng lương cơ bản.

NHÓM 5

25


×