Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua trò chơi dân gian tại trường mầm non Tiền Phong, Mê Linh, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.01 KB, 67 trang )

Header Page 1 of 16.

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
========

NGUYỄN THU TRANG

PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
THƠNG QUA TRỊ CHƠI DÂN GIAN
TẠI TRƢỜNG MẦM NON TIỀN PHONG,
MÊ LINH, HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp phát triển ngôn ngữ

HÀ NỘI, 2016
Footer Page 1 of 16.

HÀ NỘI, 2016


Header Page 2 of 16.

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, các thầy cô khoa giáo dục mầm non đã giúp đỡ em trong quá trình học
tập tại trường và tạo điều kiện cho em được làm khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Vũ Thị Tuyết đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn em để em có thể hồn thành khóa luận một cách tốt nhất.


Trong q trình nghiên cứu khơng tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nên
em rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Nguyễn Thu Trang

Footer Page 2 of 16.


Header Page 3 of 16.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị
chơi dân gian tại trường mầm non Tiền Phong” là kết quả nghiên cứu của riêng tơi,
những số liệu và kết quả trong khóa luận là hồn tồn trung thực. Đề tài chưa được
cơng bố trong bất cứ một cơng trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày…tháng…năm…
Sinh viên

Nguyễn Thu Trang

Footer Page 3 of 16.


Header Page 4 of 16.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................5
5. Đối tượng nghiên cứu ..........................................................................................5
6. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................6
7. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................6
NỘI DUNG ................................................................................................................7
Chương 1. Cơ sở lý luận .............................................................................................7
1.1. Khái niệm chung về ngôn ngữ, phát triển ngôn ngữ .....................................7
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ ...................................................................................7
1.1.2. Phát triển ngôn ngữ ....................................................................................9
1.2. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ 5-6 tuổi ............................................................10
1.3. Vai trị của việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi ...............................14
1.3.1. Vai trò của ngơn ngữ trong việc phát triển tồn diện cho trẻ mẫu giáo lớn
............................................................................................................................14
1.4. Khái lược về các trò chơi được sử dụng trong trường mầm non ................16
1.4.1. Khái quát về các trò chơi được sử dụng trong trường mầm non..............16
1.4.2. Trị chơi dân gian .....................................................................................21
Chương 2. Phát triển ngơn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị chơi dân gian .......33
2.1. Vai trò của trò chơi dân gian trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi
...............................................................................................................................33
2.2. Tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị chơi dân gian 35
2.2.1. Khảo sát đề xuất hoạt động ......................................................................35
KẾT LUẬN ..............................................................................................................60

Footer Page 4 of 16.


Header Page 5 of 16.


DANH MỤC VIẾT TẮT
NXB: Nhà xuất bản
PGS. TS: Phó giáo sư Tiến sĩ

Footer Page 5 of 16.


Header Page 6 of 16.

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những giai đoạn trước, việc giáo dục mầm non ở đất nước ta chưa
thực sự được xã hội quan tâm, chú trọng. Trẻ em hầu hết được chăm sóc về mặt thể
chất, việc trẻ đi mẫu giáo trong quan niệm của người lớn chỉ dừng lại ở mức “gửi
trẻ” để các bậc cha mẹ có thời gian lo toan cuộc sống thường nhật. Nhưng đối với
xã hội hiện nay, giáo dục trong đó giáo dục mầm non là một trong những nhiệm vụ
được đưa lên hàng đầu, bởi trường mầm non là nền móng, là mắt xích đầu tiên của
hệ thống giáo dục quốc dân. Nói cách khác, muốn xây một ngơi nhà bền vững cần
có một móng nhà chắc chắn – muốn có một con người tài đức cần chuẩn bị nền tảng
vững vàng.
Nhiệm vụ giáo dục cho trẻ mầm non hướng đến sự phát triển toàn diện trên
các khía cạnh: đức, trí, thể, mĩ. Trong đó, ngơn ngữ là một trong những công cụ
thiết yếu và quan trọng nhất để trẻ phát triển tồn diện thơng qua hoạt động giao
tiếp, học tập, vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trị quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ
em, là phương tiện để giáo dục trẻ bao gồm sự phát triển về đạo đức, nhận thức, tư
duy, các chuẩn mực hành vi văn hóa.
Vào tuổi mẫu giáo, các hình thức hoạt động của trẻ khá phong phú như: học
tập, vui chơi, lao động… nhưng hoạt động vui chơi được coi là hoạt động chủ đạo.
Lí do khơng phải vì ngẫu nhiên hay vì trẻ dành nhiều thời gian để vui chơi mà chính

vì các trị chơi đã gây ra những biến đổi về chất, chi phối toàn bộ tâm lí trẻ. Điều đó
khiến tuổi thơ của trẻ mang nhiều nét đặc trưng riêng ở từng cá nhân, từng lứa tuổi,
mang nhiều màu sắc độc đáo và theo trẻ suốt cuộc đời sau này.
Hệ thống trò chơi trong trường mầm non khá đa dạng, được sử dụng đan xen
trong các hoạt động học tập, vui chơi, hoạt động ngoài giờ lên lớp, trải nghiệm sáng
tạo, hoạt động giáo dục kĩ năng mềm,… Có thể kể đến một số loại hình trị chơi tiêu
biểu như: trị chơi vận động, trị chơi đóng vai theo chủ đề, trị chơi học tập… Hiện

Footer Page 6 of 16.

1


Header Page 7 of 16.

nay phổ biến trị chơi tích hợp các loại hình với nhau khiến trị chơi lơi cuốn, trẻ
được hoạt động tích cực hơn.
Trị chơi và tuổi thơ là hai người bạn gắn bó thân thiết. Trong lịch sử mỗi
dân tộc đều có một kho tàng lớn trị chơi dành cho trẻ em được tích lũy và truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Trò chơi dân gian là một trong những loại hình văn hóa
kết tinh tinh hoa của dân tộc ta từ truyền thống Âu Lạc với nền văn minh lúa nước
lâu đời. Mỗi một trị chơi đều mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, khơng phải những
thứ cầu kì cao sang, mà dân dã, dung dị, chân chất nhưng hết sức đáng trân trọng
đúng như tính cách vốn có của người dân Việt Nam từ xưa đến nay. Trò chơi dân
gian khá phổ biến được các em nhỏ u thích vì mang lại nhiều điều bổ ích, thỏa
mãn tâm lí vui chơi. Đúng như PGS. TS Nguyễn Văn Huy đã nói: “ Trị chơi dân
gian nó chứa đựng cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc.
Những tâm hồn được chắp thêm đôi cánh, giúp trẻ phát triển tư duy, sáng tạo những
cái mới và cho trẻ sự khéo léo. Khơng chỉ có vậy mà trẻ cịn hiểu thêm về tình bạn,
tình yêu gia đình, tình yêu q hương đất nước”.

Thơng qua trị chơi dân gian , trẻ được tự do hoạt động, vừa học vừa chơi.
Ngoài việc học về văn hóa – lịch sử dân tộc, khám phá thế giới tự nhiên, thế giới xã
hội của người lớn… trẻ cịn được rèn luyện phát triển ngơn ngữ. Khi chơi, trẻ vừa
được chơi, vừa được đọc, vừa được hát những bài vè, đồng dao, câu đố… vừa được
rèn luyện ngôn ngữ.
5 – 6 tuổi là giai đoạn quan trọng trong sự hình thành nhân cách, trong sự
phát triển ngôn ngữ đối với trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ trong giai đoạn này có thể
thực hiện qua nhiều đường kênh khác nhau. Và phát triển ngôn ngữ cho trẻ thơng
qua trị chơi dân gian là một đường kênh. Hình thức này đem lại cho trẻ sự hào
hứng khi tham gia, việc rèn luyện phát triển ngôn ngữ cũng trở nên dễ dàng hơn.
Do vậy, là một giáo viên mầm non tương lai, tôi đã nhận thức rõ được tầm
quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thơng qua trị chơi dân gian . Vì thế

Footer Page 7 of 16.

2


Header Page 8 of 16.

chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng
qua trị chơi dân gian tại trường mầm non Tiền Phong, Mê Linh, Hà Nội”.
2. Lịch sử vấn đề
Từ xa xưa, trị chơi là hình thức giải trí khơng thể thiếu trong đời sống con
người, nó mơ tả lại đời sống tự nhiên, xã hội, mô tả lại những hoạt động, cơng việc
của con người và nó được truyền từ đời này qua đời khác, trở thành nét văn hóa, giá
trị văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Trò chơi thỏa mãn được nhu cầu của cá
nhân, tập thể thậm chí cộng đồng người. Chúng ta khơng thể phủ nhận giá trị mà trị
chơi đem lại trong đời sống. Trong hoạt động học tập trò chơi có tác dụng phát triển
trí tuệ như rèn trí thơng minh, óc sáng tạo, phát triển phản xạ nhanh nhẹn, hoạt bát,

góp phần tăng thêm sự đồn kết, tương thân, tương ái, ngồi ra nó cịn là phương
tiện dạy học rất hiệu quả mà lại ít tốn kém. Thực tế cho thấy hoạt động vui chơi nói
chung, trị chơi dân gian nói riêng từ lâu đã cuốn hút sự quan tâm của các nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như sinh học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục
học… Nhưng đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX các nhà khoa học mới nghiên
cứu hoạt động này một cách sâu sắc. Vấn đề lý luận và phương pháp tổ chức trị
chơi nói chung và trị chơi dân gian nói riêng được các nhà sư phạm thế giới và Việt
Nam quan tâm, bởi lẽ họ thấy được ý nghĩa đích thực của trị chơi trong việc giáo
dục và dạy học cho trẻ.
Trên Thế giới đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về sự phát triển ngơn
ngữ của trẻ như:
Winhem Preyer với Trí óc của trẻ em: Một tác phẩm miêu tả chi tiết về sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ em phát triển về vận động, hình thành ngơn ngữ và trí
nhớ cụ thể thơng qua cậu bé Alex.
A. N. Xookolop với Lời nói bên trong và tư duy: Tác giả nghiên cứu những
vấn đề lí luận về ngơn ngữ và tư duy của trẻ em.
Ở Việt Nam tiêu biểu là tác giả Nguyễn Xuân Khoa với Phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mầm non dưới 6 tuổi đã đưa ra các phương pháp cụ thể giúp trẻ phát triển

Footer Page 8 of 16.

3


Header Page 9 of 16.

ngơn ngữ, vốn từ của mình. PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết trong tác phẩm Trò chơi
của trẻ em đã giới thiệu về khái niệm chơi, đồ chơi và vai trò của đồ chơi, sự phân
loại các trò chơi và tác dụng giáo dục của trò chơi đối với sự phát triển toàn diện
của trẻ lứa tuổi mẫu giáo; tập trung nghiên cứu khai thác trò chơi với tư cách là một

phương pháp, phương tiện phát triển trí tuệ cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo.
Bên cạnh những thành tựu trên đã có nhiều cơng trình đi sâu nghiên cứu về
sự phát triển trí tuệ như các cơng trình của Nguyễn Kế Hào nghiên cứu về sự phát
triển trí tuệ của trẻ em trước tuổi học, Phạm Hồng Gia về trí thơng minh. . . Tác giả
Nguyễn Th Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy, Trần Hoàn sưu tập và biên
soạn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt, Bộ với khúc đồng dao của NXB Giáo
dục. Chính nội dung của những bài đồng dao đã góp phần phát triển ngôn ngữ, mở
rộng vốn hiểu biết cho trẻ về mơi trường xung quanh và phát triển óc sáng tạo. . .
đặc biệt nó làm tăng tính hấp dẫn của trò chơi dân gian với trẻ.
Trò chơi dân gian rất phong phú, đa dạng và có ý nghĩa sâu sắc trong việc
giáo dục trẻ. Vì vậy, nó được các nhà tâm lý, giáo dục quan tâm nghiên cứu tiêu
biểu như: PGS. TS. Nguyễn Ánh Tuyết, Trương Kim Oanh, Đào Thu Trang, Huy
Hà… Họ đã đề cập đến lý luận và phương pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ
mẫu giáo. Các tác giả đã sưu tầm và giới thiệu được một số tài liệu tham khảo về trò
chơi như: Hướng dẫn trẻ chơi như thế nào, Trò chơi của trẻ em, Trò chơi dân gian
cho trẻ em dưới 6 tuổi, đặc biệt là đã sưu tầm và lựa chọn được những trị chơi dân
gian mang tính trí tuệ như trị chơi ơ ăn quan, chơi chuyền, chơi cờ, chơi tang…
Đây là những tài liệu giúp giáo viên mầm non thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc,
giáo dục trẻ trong trường mầm non, nhất là những nơi không đủ điều kiện tổ chức
các loại trò chơi cho trẻ mẫu giáo.
Để trò chơi dân gian trở thành một trong những phương tiện giáo dục và phát
triển toàn diện cho trẻ mầm non, trong những năm gần đây có một số tác giả đi sâu
nghiên cứu biện pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo như: Thạc sĩ
Huỳnh Kim Vui với Một số biện pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo

Footer Page 9 of 16.

4



Header Page 10 of 16.

bé nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất cho trẻ; Thạc sĩ Đặng Thị Sáu với
Một số biện pháp gây hứng thú đối với trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo lớn…
Điểm qua các cơng trình nghiên cứu trên cho thấy, từ trước đến nay trị chơi
nói chung, trị chơi dân gian nói riêng được sử dụng nhiều trong các trường mầm
non Việt Nam và được coi là một bộ phận quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Nhưng trên thực tế giáo viên chưa khai thác hết tiềm năng
của các loại trò chơi, đặc biệt là trò chơi nhằm mục đích phát triển trí tuệ, ngơn ngữ
cho trẻ.
3. Mục đích nghiên cứu
- Thiết kế một số trị chơi dân gian phù hợp với lứu tuổi trẻ 5 – 6 tuổi và mục
đích giáo dục.
- Xây dựng quy trình phát triển ngơn ngữ cho trẻ mầm non thơng qua trò
chơi dân gian .
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi.
- Xây dựng cơ sở lý luận của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi
thơng qua trị chơi dân gian ..
- Thực trạng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị
chơi dân gian .
- Đề xuất cách tổ chức một số trò chơi dân gian .
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị chơi dân gian .
Nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua các trị chơi
dân gian ở trường mầm non Tiền Phong, Mê Linh, Hà Nội.

Footer Page 10 of 16.

5



Header Page 11 of 16.

6. Phạm vi nghiên cứu
Trẻ mầm non 5 – 6 tuổi trường mầm non Tiền Phong, Mê Linh, Hà Nội.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp xử lí thơng tin
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra

Footer Page 11 of 16.

6


Header Page 12 of 16.

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ Sở LÝ LUậN
1.1. Khái niệm chung về ngôn ngữ, phát triển ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ
V. Lênin đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người”. Ngôn ngữ là một hệ thống các ký hiệu có cấu
trúc, quy tắc và ý nghĩa. Đồng thời, ngôn ngữ cũng là phương tiện để phát
triển tư duy, truyền đạt và tiếp nhận những nét đẹp của truyền thống văn hóa lịch sử
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cũng có khái niệm khác về ngơn ngữ, theo E. L.
Tikhêeva – Nhà giáo dục học Liên xô cũ đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là công cụ
để tư duy, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của
dân tộc, của nhân loại. Do ngơn ngữ giữ vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống

con người…”
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, là hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương
tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của con người. Ngôn ngữ là phương tiện để
tư duy.
1.1.2. Bản chất và chức năng của ngôn ngữ
a. Bản chất của ngôn ngữ
* Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội
Con người khác với con vật ở chỗ là con người có ngơn ngữ. Ngơn ngữ của
con người khơng phải là một hiện tượng tự nhiên, cũng không phải là sự phản xạ có
tính bản năng như phản xạ có điều kiện ở một số sinh vật. Nó cũng khơng phải là
hiện tượng có tính cá nhân, Tuy rằng ngơn ngữ có liên quan tới mỗi cá nhân con
người, nhưng lại không lệ thuộc vào cá nhân con người. Ngơn ngữ là sản phẩm của
tập thể, nó tồn tại và phát triển với sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi người.
Ngơn ngữ chỉ sinh ra trong xã hội do ý muốn và nhu cầu của con người phải
giao tiếp với nhau trong quá trình sống, lao động, sinh hoạt, tồn tại và phát triển.

Footer Page 12 of 16.

7


Header Page 13 of 16.

Ngôn ngữ là tài sản chung của xã hội tuy nhiên khơng mang tính di truyền, tự có.
Con người hình thành ngơn ngữ là nhờ có sự học tập, tiếp thu từ những người xung
quanh, trong cộng đồng. Nhất là ở trẻ em, để có ngơn ngữ nhất định trẻ phải trải qua
một quá trình học tập và rèn luyện lâu dài.
Sự đa dạng của ngôn ngữ thể hiện ở việc mỗi quốc gia, mỗi dân tộc lại có
một ngơn ngữ riêng, trong đó lại chia nhỏ ở các cộng đồng người nhỏ hơn (gọi là
tiếng địa phương). Trong q trình phát triển, ngơn ngữ ln tiếp thu những yếu tố

mới để hoàn thiện thêm và phong phú hơn.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác, ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội, sự tồn
tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tôn tại và phát triển của xã hội. Do
vậy ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, không thuộc hạ tầng, không thuộc
thượng tầng,cũng không phải là công cụ sản xuất. Đặc thù riêng biệt của ngôn ngữ
giúp ngôn ngữ phân biệt với các hiện tượng xã hội khác đó là ngơn ngữ phuỵc vụ xã
hội, làm phương tiện giao tiếp giữa con người với con người.
b. Chức năng của ngơn ngữ
* Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và
quan trọng nhất của con người
Theo các nhà ngôn ngữ học thì ngơn ngữ là một hệ thống bao gồm các bộ
phận: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách ngôn ngữ. Các đơn vị của ngơn ngữ
là: âm vị, hình vị, từ, câu, đoạn văn, văn bản. Từ đó, ngơn ngữ hình thành nên cấu
trúc riêng, có các quy tắc ý và ý nghĩa riêng được sử dụng trong giao tiếp. Các kí
hiệu có thể được kết hợp, được tổ chức để truyền đạt một khối lượng thông điệp vô
cùng đa dạng và phức tap. Vì là một hệ thống tín hiệu đặc biệt nên ngơn ngữ có
phạm vi sử dụng vơ cùng to lớn, ln ln có tính sang tạo. Các nhà tâm lí học cho
rằng: “ Ngơn ngữ là quá trình con người sử dụng trực tiếp tiếng nói để giao tiếp với
người khác”. Ngồi ngơn ngữ ra, con người cịn có các phương tiện giao tiếp khác
như cử chỉ, điệu bộ, các loại dấu hiệu, kí hiệu khác nhau (kí hiệu tốn học, tín hiệu

Footer Page 13 of 16.

8


Header Page 14 of 16.

giao thông…), những kết hợp âm thanh của âm nhạc, sự pha trộn đường nét và màu
sắc của hội họa,… nhưng ngôn ngữ vẫn là phương tiện trọng yếu nhất.

Trong quá trình sống của mình, con người dùng ngôn ngữ với tư cách là một
công cụ để giao tiếp và tư duy, từ đó xác lập mối quan hệ với thế giới xung quanh,
với cộng đồng để nhận thức và cải tạo trở lại. Hai chức năng này của ngôn ngữ
được thể hiện không tách rời nhau, trong một số trường hợp nhất định chúng xuất
hiện cùng nhau bổ sung hỗ trợ cho nhau.
* Ngôn ngữ là phương tiện để tư duy
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư duy của
nó bởi vì việc giao tiếp bằng ngơn ngữ có thể giúp ta trao đổi tư tưởng tình cảm với
nhau. Do đó chúng ta có sự hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức công việc chung
trên mọi lĩnh vực hoạt động nếu bản thân ngơn ngữ đó tích trữ kinh nghiệm, tư
tưởng, tình cảm của con người. Chức năng này thể hiện tư duy của ngôn ngữ ở hai
khía cạnh:
+ Ngơn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Khơng có từ ngữ, khơng có
câu nói, câu văn nào biểu hiện được khái niệm hay tư tưởng của người nói, ngươi
viết. Ngược lại, khơng có ý nghĩ tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của tư tưởng.
+ Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. Mọi ý nghĩ,
tư tưởng chỉ trở nên rõ rang khi được biểu hiện bằng ngơn ngữ. Khơng có ngơn ngữ
thì khơng có tư duy. Khơng có tư duy thì ngơn ngữ chỉ là những âm thanh trống
rỗng, vơ nghĩa, thực chất là khơng có ngơn ngữ.
1.1.3. Phát triển ngôn ngữ
Khái niệm phát triển: Theo từ điển tiếng việt thì phát triển là sự mở mang, từ
bé thành lớn, từ yếu thành mạnh. Phát triển cũng có thể được hiểu là diễn biến khi
nó đứng trong chiều hướng tang từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp.

Footer Page 14 of 16.

9



Header Page 15 of 16.

Ngôn ngữ bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách ngơn ngữ. Vì thế
phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo là việc mở rộng vốn từ, khả năng đặt câu, giúp
trẻ nghe hiểu lời nói của lồi người và có thể sử dụng hệ thống kí hiệu từ ngữ thành
thạo, từ đó trẻ nhận thức được về xã hội loài người.
1.2. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi
Giai đoạn 5 – 6 tuổi là giai đoạn mà trẻ rất nhạy cảm với sự hình thành ngơn
ngữ. Đây là bước ngoặt quan trọng nhất cần có những biện pháp tác động đúng lúc
và kịp thời vì mọi sự chậm trễ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển toàn diện của
trẻ. Muốn đưa ra được hướng phát triển phù hợp, nhà giáo dục cần nắm rõ đặc điểm
ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn này.
Về vốn từ:
Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn tăng lên đáng kể. Trẻ nắm được khoảng 3000 –
4000 từ vào cuối tuổi lên 5. Trong đó trẻ thường xun sử dụng khoảng 1033 từ tích
lũy khá phong phú về danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ… Danh từ, động
từ được sử dụng đa số nhưng trẻ cũng đã biết vận dụng tính từ và các loại từ khác
một cách linh hoạt. Khả năng hiểu nghĩa của từ tăng lên. Trẻ đã biết sử dụng các từ
chỉ khái niệm thời gian , các từ đồng nghĩa, các từ mang sắc thái biểu cảm hay các
từ chỉ mức độ chính xác hơn.
Về ngữ âm và ngữ điệu:
Do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng, tai nghe của trẻ được rèn
luyện thường xuyên để tiếp nhận các ngữ âm khi nghe người lớn nói. Cơ quan phát
âm dần tiến bộ nên trẻ có thể phát âm những âm khó như “khúc khuỷu”, “nghuệch
ngoạc”… Tuy nhiên do một số yếu tố như bộ máy phát âm bị tổn thương hay chịu
ảnh hưởng của tiếng địa phương, lời nói ngọng của người lớn mà trẻ phạm lỗi trong
phát âm một cách vô thức.
Trong ngôn ngữ nói chung, sự lên xuống giọng nói ln truyền tải ý nghĩa
nhất định. Chẳng hạn, ta thường lên giọng khi hỏi và hạ giọng khi ra lệnh hay có


Footer Page 15 of 16.

10


Header Page 16 of 16.

một âm điệu đặc biệt khi cảm thán. Sự biến đổi giọng khi ấy tác động lên tồn bộ
câu nói và hiện tượng này gọi là ngữ điệu. Trẻ mầm non cũng vậy. Trẻ biết sử dụng
ngữ điệu khi giao tiếp hay khi kể chuyện, khi biểu lộ cảm xúc. Ngữ điệu của trẻ
thay đổi theo tâm trạng, đó là đặc điểm phổ biến nhất ở trẻ mầm non. Trẻ thường
nhẹ nhàng, ngọt ngào, trìu mến để biểu lộ sự yêu thương, nũng nịu khi giận dỗi hay
thô và mạnh khi giận dữ.
Về ngữ pháp:
Vào cuối tuổi mẫu giáo, trẻ đã có thể sử dụng câu Tiếng Việt một cách thành
thạo mặc dù q trình đó diễn ra khơng có ý thức, khác với q trình học ngữ pháp
ở phổ thơng. Những trẻ tích cực giao tiếp, tích cực tìm hiểu các hiện tượng ngơn
ngữ thì không những trẻ hiểu từ ngữ và nắm một cách sâu sắc mà còn sáng tạo ra
những từ ngữ, những ý niệm, cách nói chưa hề có trong ngơn ngữ của người lớn.
Về sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc:
Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện tốc độ phát triển tương đối cao khơng những về
phương diện ngơn ngữ mà cịn cả về phương diện tư duy. Đây chính là hình thức cao
nhất của ngơn ngữ, là kỹ năng khó nhất phải đến tuổi mẫu giáo lớn mới thể hiện rõ.
Ngôn ngữ mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn xuất phát từ nhu cầu vốn từ tăng
nhanh, trẻ muốn diễn đạt những suy nghĩ có liên quan đến nhau về một chủ đề nhất
định được diễn đạt bởi từ ngữ chính xác, có hình ảnh, trong đó câu nói được xây
dựng đúng theo các quy luật ngữ pháp, logic chặt chẽ.
Ngôn ngữ muốn được coi là mạch lạc cần đầy đủ những yếu tố sau:
+ Các câu phải đúng ngữ pháp và có nghĩa

+ Nội dung thơng báo phải đầy đủ, khúc chiết, chính xác, hợp lí, có chủ đề
nhất định
+ Có sử dụng các phép liên kết hợp lí

Footer Page 16 of 16.

11


Header Page 17 of 16.

+ Các hoạt động, chức năng của ngôn ngữ được thể hiện trong các câu phải
dung hợp nhau và thể hiện được chức năng giao tiếp của ngơn ngữ
+ Có sắc thái biểu cảm trong lời nói
Khác với lứa tuổi 1 – 2 tuổi mới có thể sử dụng được một từ, 2 – 3 tuổi sử
dụng được một câu, trẻ 5 – 6 tuổi nhờ có ngơn ngữ mạch lạc mà có thể giao tiếp đầy
đủ và trọn vẹn nhất, đem đến hiệu quả tốt nhất. Trẻ được thể hiện một cách đầy đủ
suy nghĩ của mình, lĩnh hội được thơng tin truyền đạt từ người khác thơng qua ngơn
ngữ chính xác hơn.
Ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ sử dụng ngơn ngữ tình huống là chủ yếu. Khi giao
tiếp với những người xung quanh, trẻ sử dụng nhiều yếu tố trong tình huống giao
tiếp để hỗ trợ cho ngơn ngữ của mình. Vì vậy, chỉ có những người đang giao tiếp
với trẻ lúc đó mới hiểu trẻ muốn nói gì. Dần dần cuộc sống địi hỏi trẻ em cần phải
xây dựng cho mình kiểu ngơn ngữ mới phụ thuộc vào tình huống hơn, nhất là khi
trẻ phải mô tả lại cho người khác những điều mà mình mắt thấy tai nghe. Ở đây, trẻ
phải nói năng sao cho người khác có thể hình dung ra được những điều mình định
mơ tả mà khơng thể dựa vào tình huống cụ thể trước mắt. Kiểu ngơn ngữ này là
ngơn ngữ ngữ cảnh mang tính rõ rang, khúc chiết. Mặt khác ở tuổi này trẻ có nhu
cầu giải thích cho các bạn cùng tuổi về nội dung trị chơi, cách tạo ra đồ chơi và
nhiều chuyện khác, trẻ muốn giải thích cho người lớn (cha mẹ, anh chị, cô giáo,…)

những điều mà trẻ cần họ hiểu. Ngôn ngữ giải thích địi hỏi trẻ phải trình bày ý kiến
của mình theo một trình tự nhất định, phải nêu bật được những điểm chủ yếu và mối
quan hệ lien kết các sự vật và hiện tượng một cách hợp lí để người nghe dễ đồng
tính, có nghĩa và nó u cầu phải có tính chặt chẽ và mạch lạc, do đó cịn gọi là
ngơn ngữ mạch lạc.
Kiểu ngơn ngữ mạch lạc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc hình
thành những mối quan hệ qua lại trong nhóm trẻ em và những người xung quanh,
đặc biệt là đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ em. Muốn cho ngơn ngữ được mạch
lạc thì những điều trẻ định nói ra cần phải được suy nghĩ kĩ càng, mạch lạc ngay từ

Footer Page 17 of 16.

12


Header Page 18 of 16.

trong đầu, tức là cần được tư duy hỗ trợ. Mặt khác chính ngơn ngữ mạch lạc là
phương tiện làm cho tư duy của trẻ phát triển lên một chất lượng mới đó là việc nảy
sinh yếu tố tư duy logic, nhờ đó mà tồn bộ sự hát triển của trẻ nâng lên một trình
độ mới cao hơn.
Tóm lại, trong các độ tuổi của mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ được phát triển
dần dần về các mặt: vốn từ, ngữ âm, ngữ pháp và xuất hiện dần kiểu ngôn ngữ mạch
lạc. Đến cuối tuổi mẫu giáo (5 – 6 tuổi) trẻ đã có khả năng nắm được ý nghĩa của từ
vựng thông dụng, phát âm gần đúng sự phát âm của người lớn, biết dùng ngữ điệu
phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và đặc biệt là nắm được hệ thống ngữ pháp phức
tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về cú pháp, trẻ nói năng mạch lạc
và thoải mái. Trẻ đã thực sự nắm vững tiếng mẹ đẻ trong phong cách sinh hoạt và ở
một mức độ nào đó là phong cách nghệ thuật (tức là nói năng có văn hóa).
Tuy nhiên, trong thực tế cịn khá nhiều trẻ em nói năng chưa đúng, phát âm

ngọng, dùng từ sai, nói câu què cụt, ngôn ngữ chưa mạch lạc, điều này đáng để cho
giáo dục phải suy nghĩ, cần phải có dạy đúng đắn để khi ra trường mẫu giáo, trẻ
nắm vững được tiếng mẹ đẻ, nếu khơng trẻ sẽ khó khăn trong những năm tháng học
tập phổ thông và trong bước đường trưởng thành sau này.
Để làm việc đó một cách tích cực, ở gia đình cũng như ở trường mẫu giáo
cần phải coi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nội dung quan
trọng nhất của giáo dục mầm non và nhiệm vụ đó cần phải được thực hiện ngay từ
năm đầu tiên cho tới cuối tuổi mẫu giáo đặc biệt là thời kì phát cảm ngơn ngữ (2 – 5
tuổi). Tất nhiên sau này cá nhân cần phải học thêm nhiều ở trường phổ thông, trong
sách báo và ngoài cuộc sống để nắm vững một cách có ý thức hơn, tồn diện hơn,
sâu sắc hơn tiếng mẹ đẻ với tư cách là một nhà khoa học, từ đó nắm vững nhiều
phong cách đa dạng của ngơn ngữ có thể sử dụng trong nghề nghiệp và để nâng cao
trình độ văn hóa chung của mình.

Footer Page 18 of 16.

13


Header Page 19 of 16.

1.3. Vai trò của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.1. Vai trị của ngơn ngữ trong việc phát triển tồn diện cho trẻ mẫu giáo lớn
*Vai trị của ngơn ngữ đối với giáo dục trí tuệ
Ngơn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh. Trẻ em đặc biệt là trẻ
mẫu giáo lớn ln có nhu cầu muốn tìm hiểu thế giới xung quanh. Thơng qua ngơn
ngữ lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự vật hiện tượng và tìm hiểu những
đặc điểm tính chất, cấu tạo, cơng dụng… của chúng và học được từ tương ứng.
Ví dụ:
Trẻ làm quen với tàu hỏa, nắm được hình dáng, đặc điểm, cấu tạo, công dụng…

của xe đạp và gọi tên được sự vật hiện tượng “tàu hỏa”. Trẻ tiếp thu kiến thức từ môi
trường xung quanh thông qua khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó trẻ
khái qt về sự vật hiện tượng. Khơng chỉ nhận biết các sự vật hiện tượng xung quanh
gần gũi, trẻ cịn tìm hiểu những sự vật hiện tượng khơng xuất hiện trực tiếp trước mắt
trẻ, những sự vật hiện tượng xảy ra trong quá khứ và tương lai.
Như vậy, ngôn ngữ không chỉ giúp trẻ củng cố kiến thức mà còn mở rộng
hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ phát triển tư duy ở trẻ do trẻ
hiểu được những lời giải thích của người lớn nên hoạt động trí tuệ, các thao tác tư
duy ngày càng được hồn thiện, kích thích trẻ tích cực hoạt động trí tuệ.
Ngơn ngữ là phương tiện hữu hiệu giúp trẻ nhận thức. Khi trẻ đã nhận thức
được thế giới khách quan, trẻ tiến hành các hành động động với nó và sử dụng ngơn
ngữ để kể lại, miêu tả sự vật hiện tượng.
Trong giao tiếp hàng ngày với mọi người xung quanh, trẻ sử dụng lời nói để
trình bày ý nghĩ, tình cảm, hiểu biết của mình với mọi người xung quanh. Cho nên
việc tạo cho trẻ nghe hiểu và được nói là hết sức cần thiết trong giáo dục ngơn ngữ.
*Vai trị của ngơn ngữ đối với việc giáo dục đạo đức

Footer Page 19 of 16.

14


Header Page 20 of 16.

Ngơn ngữ đóng vai trị rất lớn trong việc điều chỉnh những hành vi và việc
làm của trẻ. Trong giao tiếp hàng ngày, thông qua chuyện kể, ca dao, đồng dao,…
trẻ cảm nhận được cái hay cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành
vi, cuộc sống.
Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên – khơng nên, qua đó rèn luyện
những phẩm chất đạo đức tốt, dần dần hình thành những khái niệm ban đầu về đạo

đức: ngoan – hư, tốt – xấu,…
*Vai trị của ngơn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mĩ
Trong giao tiếp với người lớn, trẻ nhận thức được cái đẹp trong thế giới xung
quanh, khiến tâm hồn trẻ càng thêm bay bổng, trí tưởng tượng thêm phong phú,
đồng thời trẻ biết yêu quý cái đẹp, trân trọng và có ý thức sáng tạo ra cái đẹp.
Thơng qua ngôn ngữ văn học, trẻ cảm nhận được cái hay cái đẹp trong ngôn
ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi cuộc sống. Từ đó giáo dục trẻ có ý thức trân
trọng những sản phẩm văn hóa của dân tộc mình.
*Vai trị của ngơn ngữ đối với việc giáo dục thể lực
Trong các buổi tập thể dục, giáo viên dùng lời để diễn đạt, hướng dẫn, giải
thích cách thực hiện vận động. Trẻ nghe và điều chỉnh vận động theo yêu cầu của
giáo viên. Hàng ngày, giáo viên hướng dẫn trẻ làm vệ sinh cá nhân, cách sử dụng
thực phẩm, đồng thời giáo viên dùng lời nói hướng dẫn trẻ ăn uống có vệ sinh, có
văn hóa.
Như vậy, ngơn ngữ đóng vai trị quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Sự phát
triển chậm trễ về ngơn ngữ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển toàn diện cho trẻ.
Cho nên việc phát triển lời nói đúng lúc và phù hợp từng lứa tuổi là rất cần thiết.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn đóng vai trị quan trọng giúp các
quá trình nhận thức của trẻ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn, từ đó góp phần
giáo dục toàn diện, tạo cơ sở nền tảng để trẻ bước chân vào lớp 1.

Footer Page 20 of 16.

15


Header Page 21 of 16.

1.3.2. Ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Ở trẻ 5 – 6 tuổi, vốn ngôn ngữ xã hội phát triển nhanh. Do đó trẻ khơng sử

dụng ngơn ngữ như phương tiện thông báo mà bắt đầu sử dụng nó với ý nghĩa trao
đổi và gián tiếp, ở lứa tuổi này trẻ đã có khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ tương đối
thành thạo. Trẻ có nhu cầu nắm bắt kĩ năng nghe ở những mức độ cao hơn trước
đây – đó là kĩ năng diễn đạt mạch lạc trong lời nói. Chính vì vậy việc phát triển
ngơn ngữ cho trẻ cả về vốn từ và lời nói mạch lạc và rất cần thiết và có vai trị quan
trọng đối với sự phát triển chung của trẻ ở giai đoạn này.
Tư duy của trẻ mẫu giáo lớn chủ yếu là tư duy trực quan hành động và tư duy
trực quan hình tượng. Song trình độ tư duy của trẻ cũng được phát triển ngày càng
cao theo lứa tuổi. Đến cuối tuổi mẫu giáo lớn, ở trẻ đã xuất hiện kiểu tư duy trực
quan hình tượng mới đó là tư duy trực quan sơ đồ. Khi trẻ thực hiện hoạt động tư
duy này, để thể hiện kết quả tư duy của mình trẻ phải dùng ngơn ngữ để giải thích,
lập luận cho người khác hiểu theo trình tự các bước tư duy.
Như vậy muốn phát triển tư duy logic cho trẻ cần tạo nền tảng về ngôn ngữ
đặc biệt là vốn từ và lời nói mạch lạc, để có ngơn ngữ mạch lạc, trẻ cần phải có tư
duy mạch lạc.
1.4. Khái quát về trò chơi đƣợc sử dụng trong trƣờng mầm non
1.4.1. Khái niệm trò chơi
Theo những quan điểm giáo dục, trò chơi vừa là phương tiện phát triển tồn
diện nhân cách vừa là hình thái tổ chức cuộc sống. Đối với trẻ em, trò chơi là hoạt
động giúp trẻ tái tạo các hành động của người lớn và các quan hệ giữa họ, định
hướng nhận thức đồ vật và nhận thức xã hội. Trong trò chơi, nhu cầu và các phẩm
chất của trẻ về thể lực, trí tuệ, đạo đức và ý chí được hình thành, thỏa mãn, thể hiện
và phát triển. Do vậy, chơi là hoạt động chủ đạo trong giáo dục trẻ em.
Tina Bruce, một tác giả hàng đầu về Giáo dục mầm non đã tóm tắt về giá trị
của việc chơi đùa như sau: "Các nghiên cứu về não bộ, cũng như nghiên cứu trong

Footer Page 21 of 16.

16



Header Page 22 of 16.

các lĩnh vực khác, đã cho thấy ngày càng rõ hơn về nhu cầu được vui chơi của tuổi
thơ. Chơi đùa đóng vai trị là cơ chế tiếp sức cho những suy nghĩ mang tính can
đảm, sáng tạo và nghiêm túc ở tuổi trưởng thành". Vui chơi đóng vai trị quan trọng
đối với sự phát triển của trẻ vì thơng qua đó trẻ học được rất nhiều thứ về môi
trường xung quanh, phát triển các giác quan, tìm hiểu sở thích của bản thân v. v. .
Cha mẹ cần hiểu về việc chơi đùa của trẻ cũng như vai trị của mình trong việc này.
Thay vì việc mua những đồ chơi đắt tiền và để đó cho trẻ chơi, người lớn cần chơi
cùng trẻ, hịa mình vào cuộc sống của trẻ thơ. Việc vui chơi cho phép trẻ hiểu được
tương tác xã hội là thế nào, để tìm ra cách giải quyết vấn đề, để tưởng tượng, để
khám phá và tìm ra những gì là an tồn và những gì thì khơng. Nói một cách khác,
trẻ em học thông qua việc chơi. Nhiều người trong chúng ta cịn chưa đánh giá đúng
mức sự ích lợi của trị chơi trong việc giáo dục trẻ em. Đơi khi họ cịn cho rằng đó
là một thứ cơng việc vơ bổ, mất thời giờ. . . quan niệm đó hồn tồn sai lầm.
Với người lớn, trị chơi là giải trí, thư giãn, giúp cho đầu óc bớt căng thẳng
sau những giờ làm việc mệt nhọc. Với trẻ em, ngoài sự giải trí, trị chơi cịn là một
nhu cầu cần thiết cho sự phát triển trí, đức, thể và nhân cách con người. Đối với
việc phát triển ngơn ngữ, trị chơi là một con đường hiệu quả trong những phương
pháp giáo dục, giúp trẻ em rèn luyện ngôn ngữ và phát triển tồn mỹ các giác quan
chính, làm cho trẻ khéo léo hơn, trí tưởng tượng phong phú hơn. Trị chơi còn giúp
trẻ biết quan sát và phản ứng nhanh, biết tơn trọng kỷ luật, biết tự chủ, từ đó nảy nở
tình đồng đội, đồn kết thương u nhau.
Trong phương pháp giáo dục hiện đại, trị chơi là một mơn huấn luyện quan
trọng. Nước Bỉ đứng hàng đầu về tiến bộ sư phạm, thấy rõ sự quan trọng và ích lợi
của trị chơi trong cơng tác giáo dục nên đã đưa bộ mơn trị chơi vào trong chương
trình giáo dục quốc gia. Nhà tâm lý học Kunkel người Anh nói: “Trị chơi là một
phương tiện để tái tạo lại tâm lý ổn định cho một số em khó tính, dở người, vơ trật
tự…vì trong lúc chơi, trẻ em khơng thu mình lại, chúng sẽ vui vẻ hẳn lên, thích hoạt

động hơn… Khi bị khép vào luật chơi, các em sẽ dần dần có trật tự, kỷ luật và sinh
động hơn…”. Thơng qua trò chơi, các nhà giáo dục sẽ hiểu rõ hơn về tính tình của

Footer Page 22 of 16.

17


Header Page 23 of 16.

từng em như: mạnh bạo, nhút nhát, ích kỷ, vị tha, nóng nảy, điềm đạm, thơng minh,
khéo léo, vụng về…
Trong quan điểm giáo dục mầm non, hoạt động vui chơi là một trong các loại
hình hoạt động của trẻ ở trường mầm non, là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo
được người lớn tổ chức, hướng dẫn nhằm giúp trẻ thỏa mãn các nhu cầu vui chơi và
nhận thức, đồng thời nhằm giáo dục và phát triển tồn diện cho trẻ.
1.4.2. Phân loại trị chơi
Trị chơi của trẻ mẫu giáo rất đa dạng, phong phú về nội dung, tính chất cũng
như cách thức thức tổ chức. Trong nhà trường mầm non, các trò chơi bao gồm:
• Trị chơi đóng vai theo chủ đề, trị chơi đóng kịch
• Trị chơi xây dựng – lắp ghép
• Trị chơi học tập
• Trị chơi vận động
• Trị chơi dân gian
1.4.3. Tác dụng của trị chơi
Ích lợi của trị chơi cũng được thể hiện rất rõ trong hiệu quả mà trò chơi
mang lại. Bất kỳ trò chơi nào cũng mang một ích lợi trong việc giáo dục và rèn
luyện nhất định:
- Tăng cường sức khỏe: Trò chơi thường được tổ chức ngồi thiên nhiên
thống đãng, khơng khí trong lành. Có nhiều trò chơi cần đến sự vận động cơ bắp

như: chạy nhảy, kéo đẩy, mang vác…
- Luyện giác quan: Với những trị chơi phản ứng nhanh, ghi nhớ, nhanh mắt,
thính tai, lẹ tay, quan sát, tập trung tư tưởng… (trò chơi Kim, thò thụt, cái tát bất
ngờ, bịt mắt bắt dê...)

Footer Page 23 of 16.

18


Header Page 24 of 16.

- Luyện ý chí và ý thức: Hăng say đua tranh để giành chiến thắng; tự chủ,
không rụt rè, sợ hãi, không bị lôi cuốn bởi nhiệt tình bồng bột; chấp hành kỷ luật
của trị chơi; kiên nhẫn trong khi chơi; biết sáng tạo, linh động.
- Luyện tính tình: Các em trở nên vui vẻ, sơi động; rèn luyện tính đồng đội,
biết đồn kết gắn bó với nhau để giành chiến thắng, phát triển năng khiếu tốt, sự can
đảm, gan dạ, lòng vị tha…
Trò chơi còn giáo dục các em biết ý thức công dân, những em biết tự giác tôn
trọng luật chơi, khi lớn lên, cũng sẽ tự giác giữ đúng pháp luật của quốc gia, luật lệ
của hàng xóm... nếu các em khơng tự giác thì chúng ta phải uốn nắn dần dần.
Trị chơi cũng có thể chữa trị cho những em bị trầm uất, bị căng thẳng hay
suy nhược thần kinh… Đối với đối tượng nghiên cứu là trẻ mầm non, hoạt động vui
chơi mang lại những lợi ích đặc thù riêng biệt.
Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ
mẫu giáo. Hoạt động vui chơi góp phần củng cố, chính xác hóa, cụ thể hóa, làm
phong phú vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh vì nội dung hoạt động vui
chơi của trẻ phản ánh thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về thế giới
xung quanh. Để thỏa mãn nhu cầu chơi, trẻ không những vận dụng những hiểu biết
đã có mà trong q trình chơi hấp dẫn, sự hứng thú và tính chủ thể hoạt động thúc

đẩy trẻ tới chiếm lĩnh tri thức mới. Điều này ảnh hưởng tích cực đến nhu cầu nhận
thức của trẻ.
- Hoạt động vui chơi là mảnh đất tốt để phát triển hoạt động thức của trẻ như
cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, đặc biệt là trí tưởng tượng và ngơn ngữ.
- Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục và phát triển đạo đức cho trẻ
mẫu giáo. Chơi là hoạt động có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm, đạo đức
của trẻ.

Footer Page 24 of 16.

19


Header Page 25 of 16.

Có thể nói rằng vui chơi là mắt xích nối liền trẻ với các qui tắc đạo đức, giúp
các quá trình hình thành các phẩm chất đạo đức diễn ra dễ dàng, tự nhiên và bền
vững hơn.
- Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục và phát triển thể chất cho trẻ
mẫu giáo. Vui chơi mang lại niềm vui cho trẻ giúp phát triển thể lực và tinh thần
khỏe mạnh, sảng khối. Các trị chơi vận động phù hợp giúp đẩy mạnh trao đổi chất,
tăng cường hơ hấp và tuần hồn máu, giúp trẻ phát triển thể chất và hoàn thiện các
vận động cở bản nhưng cần có sự hướng dẫn của giáo viên.
- Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục và phát triển thẩm mỹ cho trẻ
mẫu giáo. Thơng qua các trị chơi, trẻ cảm nhận được cái đẹp ở màu sắc, hình dạng,
kích thước của đồ chơi, cảm nhận được cái đẹp trong hành vi, cách ứng xử, lời nói
khi tre thực hiện vai chơi. Trẻ cịn có cơ hội, điều kiện để tạo ta cái đẹp thơng qua
trị chơi trong quá trình chơi. Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục và phát
triển lao động cho trẻ mẫu giáo. Khi chơi, dưới sự hướng dẫn của cô, trẻ sẽ hình
thành được một số kỹ năng sử dụng đồ dùng, đồ chơi và hình thành các phẩm chất

đạo đức của người lao động trong tương lai như tính mục đích, sáng tạo, kiên trì,
u lao động.
Hoạt động vui chơi có tầm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn. Thơng qua trị chơi, việc tiếp thu ngơn
ngữ, cách trẻ học ngơn ngữ trở nên dễ dàng và lí thú hơn rất nhiều bởi trò chơi là
con đường tự nhiên nhất đưa trẻ đến với ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp. Trẻ
khơng cảm thấy bị áp lực khi nói chuyện trao đổi, thể hiện suy nghĩ tình cảm bằng
lời nói, hay quá khó khăn trong việc hiểu nghĩa của từ, cách dung từ đặt câu. Trẻ
học được cách giao tiếp có văn hóa với ngơn từ trong sang, giàu hình ảnh phù hợp
với lứa tuổi của mình.

Footer Page 25 of 16.

20


×