Header Page 1 of 16.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
---------------------
LÊ THỊ LỆ
RÈN KỸ NĂNG DIỄN ĐẠT MẠCH LẠC CHO TRẺ
5-6 TUỔI QUA VIỆC DẠY TRẺ KỂ LẠI NHỮNG
CHUYỆN ĐÃ CHỨNG KIẾN HOẶC THAM GIA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học Mầm non
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thu Hương
Hà Nội - 2016
Footer Page 1 of 16.
Header Page 2 of 16.
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHSP Hà Nội 2, các
thày cô giáo trong khoa Giáo dục Mầm non đã giúp đỡ em trong quá trình học
tập tại trường và tạo điều kiện cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo - TS. Nguyễn Thu Hương
là người đã giúp đỡ, tận tình hướng dẫn chỉ bảo em trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh những thiếu sót và hạn chế,
em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thày cô giáo và các bạn
để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Lê Thị Lệ
Footer Page 2 of 16.
Header Page 3 of 16.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; những số
liệu và kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đề tài chưa được
công bố trong bất kỳ một công trình khoa học nào.
Hà Nội, Ngày tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Lê Thị Lệ
Footer Page 3 of 16.
Header Page 4 of 16.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 3
3. Mục đích ................................................................................................................ 4
4. Nhiệm vụ ............................................................................................................... 5
5. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 5
6. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 5
7. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 5
8. Cấu trúc khóa luận ................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................... 6
1.1. Diễn đạt mạch lạc .............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm diễn đạt mạch lạc ................................................................ 6
1.1.2. Yêu cầu về kỹ năng diễn đạt mạch lạc ................................................. 6
1.2. Kể chuyện........................................................................................................... 9
1.2.1. Khái niệm kể chuyện............................................................................ 9
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện của trẻ ............................................... 11
1.2.3. Vai trò hoạt động dạy trẻ kể lại chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia
với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi ................................................ 13
1.3. Đặc điểm của trẻ 5 - 6 tuổi .............................................................................. 13
1.3.1. Cơ sở sinh học .................................................................................... 13
1.3.2. Cơ sở tâm lý học ................................................................................ 15
1.3.3. Cơ sở giáo dục học ............................................................................. 16
CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG DIỄN ĐẠT MẠCH LẠC
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI QUA VIỆC DẠY TRẺ KỂ LẠI NHỮNG CHUYỆN
ĐÃ CHỨNG KIẾN HOẶC THAM GIA .................................................... 18
2.1. Thực trạng việc dạy trẻ kể lại chuyện ở trường mầm non ....................... 18
Footer Page 4 of 16.
Header Page 5 of 16.
2.2. Những điều cần lưu ý giáo viên khi dạy trẻ 5 - 6 tuổi kể lại những chuyện đã
chứng kiến hoặc tham gia ....................................................................................... 22
2.3. Các chủ đề chính về những chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia của trẻ... 24
2.3.1. Chủ đề tham quan du lịch …………………………………………25
2.3.2. Chủ đề lễ hội, văn nghệ ...................................................................... 25
2.3.3. Chủ đề thể thao................................................................................... 25
2.3.4. Chủ đề gia đình .................................................................................. 26
2.3.5. Chủ đề lớp học của bé ........................................................................ 26
2.3.6. Chủ đề những nghề em biết ............................................................... 27
2.3.7. Chủ đề những con vật đáng yêu ......................................................... 27
2.3.8. Chủ đề cây, hoa quanh bé .................................................................. 27
2.4. Biện pháp dạy trẻ 5 - 6 tuổi kể lại chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia.... 28
2.4.1. Định hướng chủ đề kể lại chuyện cho trẻ .......................................... 28
2.4.2. Xây dựng dàn ý cho câu chuyện ........................................................ 28
2.4.3. Dạy trẻ kể lại chuyện theo vai............................................................ 29
2.4.4. Luyện tập kể chuyện thường xuyên ................................................... 29
2.4.5. Thi kể chuyện ..................................................................................... 30
2.4.6. Phối hợp với gia đình của trẻ ............................................................. 30
2.4.7. Tham quan, thực tiễn.......................................................................... 31
2.5. Thể nghiệm sư phạm ................................................................................ 31
2.5.1. Mục đích thể nghiệm.......................................................................... 31
2.5.2. Đối tượng thể nghiệm ........................................................................ 31
2.5.3. Tiêu chí đánh giá ................................................................................ 32
2.5.4. Giáo án thể nghiệm ............................................................................ 32
2.5.5. Kết quả thể nghiệm và đánh giá ......................................................... 39
2.5.6. Bài học kinh nghiệm .......................................................................... 42
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 46
Footer Page 5 of 16.
Header Page 6 of 16.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là bậc học đầu
tiên và cũng là bậc học giữ vai trò quan trọng nhất. Trẻ em là niềm vui, niềm
tự hào, hạnh phúc của không chỉ gia đình mà của toàn xã hội. Công tác chăm
sóc, giáo dục trẻ phải giữ vị trí hàng đầu, có như vậy những mầm non mới lớn
lên khỏe mạnh, trở thành những công dân tốt, có ích cho xã hội. Giáo dục
mầm non đã đặt ra rất nhiều kế hoạch nhằm phát triển mọi mặt cho trẻ: trí tuệ,
đạo đức, thẩm mỹ, ngôn ngữ, thể chất,… để trẻ có thể sẵn sàng đáp ứng mọi
yêu cầu của một xã hội tiên tiến.
Ngôn ngữ phục vụ cho tất cả các thành viên trong xã hội từ học tập lao
động đến giải trí vui chơi. Bất kì lĩnh vực nào cũng cần ngôn ngữ. Trong đó
phát triển ngôn ngữ trang bị cho trẻ nhận thức thế giới xung quanh, mở rộng
quan hệ với nhiều người. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển tâm lý
trẻ em, là phương tiện giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển
về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Trẻ tốt
nghiệp xong trường mầm non là đứng trước một nền văn hóa đồ sộ của dân
tộc và nhân loại mà nó có nhiệm vụ phải lĩnh hội những kinh nghiệm của ông
cha để lại, đồng thời có sứ mạng xây dựng nền văn hóa đó trong tương lai.
U.Sinxki đã nhận định “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là vốn
quý nhất của mọi tri thức”. Mặt khác, ngôn ngữ là một hiện tượng lịch sử - xã
hội, ngôn ngữ lời nói có vai trò quan trọng to lớn trong đời sống tâm lý con
người, nó là phương tiện quan trọng để trẻ giao lưu với những người xung
quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi dưỡng tâm hồn… Cho nên việc
phát triển tiếng mẹ đẻ cho trẻ mầm non là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
mà ở tuổi mẫu giáo lớn nhiệm vụ đó phải được hoàn thành.
1
Footer Page 6 of 16.
Header Page 7 of 16.
Ở tuổi mẫu giáo, trẻ phải được hoạt động, tự bộc lộ mình và được phát
triển tối đa thông qua các hoạt động vui chơi và học tập, ngôn ngữ của trẻ
thông qua đó mà được phát triển hoàn thiện dần. Việc rèn luyện khả năng
diễn đạt cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết bởi trẻ còn nói ngọng ấp
úng, nói thiếu câu, diễn đạt cộc lốc. Khi trẻ 5 - 6 tuổi nhu cầu giao tiếp rất cao
bởi trẻ được khám phá thế giới xung quanh. Những câu chuyện xung quanh
trẻ không những rất gần gũi, đơn giản mà lại đa dạng, phong phú, nhiều sắc
thái tình cảm. Mỗi câu chuyện đều đem lại những rung động hay khơi dậy
những cảm xúc nhất định ở trẻ, thôi thúc trẻ khám phá, tìm tòi. Kể lại những
chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia sẽ giúp trẻ nói mạch lạc, đúng ngữ pháp
và biểu cảm được âm thanh của tiếng mẹ đẻ. Khi trẻ kể lại những điều trẻ
thấy, việc trẻ làm trong chính cuộc sống hàng ngày ngôn ngữ của trẻ phát
triển, trẻ biết trình bày ý kiến suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó
bằng chính ngôn ngữ của mình từ đó phát triển tư duy và biết yêu quý cái đẹp
hướng tới cái đẹp. Tổ chức cho trẻ kể lại những chuyện đã chứng kiến hoặc
tham gia sẽ phát triển ngôn ngữ và làm giàu nhân cách trẻ. Chỉ có để trẻ hoạt
động mới phát triển được tính tích cực cá nhân. Diễn đạt mạch lạc, logic
không phải là bẩm sinh di truyền nên việc phát triển ngôn ngữ từ lứa tuổi mẫu
giáo là rất cần thiết.
Rèn kỹ năng diễn đạt mạch lạc cho trẻ là hoạt động thiết thực góp phần
tích cực vào giáo dục toàn diện đặc biệt là giáo dục tình cảm thẩm mỹ. Phát
triển ngôn ngữ thông qua việc dạy trẻ kể lại những chuyện đã chứng kiến
hoặc tham gia làm phong phú đời sống tinh thần trẻ, đáp ứng nhu cầu giao
tiếp, nhờ đó trẻ lĩnh hội được thông tin và tình cảm của người khác một cách
chính xác đặc biệt giúp trẻ tự rèn luyện khả năng diễn đạt mạch lạc, vốn từ
ngữ phong phú. Kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu đã có
và xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của bản thân trong việc phát triển ngôn ngữ
2
Footer Page 7 of 16.
Header Page 8 of 16.
cho trẻ mẫu giáo, tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng diễn đạt cho trẻ 5 - 6 tuổi qua
việc kể lại những chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia”.
2. Lịch sử vấn đề
Trẻ em là tương lai của đất nước nên luôn dành được nhiều sự quan tâm
của gia đình nhà trường và toàn xã hội. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
nói chung, cho trẻ mẫu giáo lớn nói riêng không còn là đề tài mới mẻ, đã có
không ít nhà khoa học đề cập đến trong công trình nghiên cứu của họ ở nhiều
khía cạnh khác nhau.
Trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” [4]
của tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã nghiên cứu rất kĩ sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ mẫu giáo, trên cơ sở những đánh giá chung về đặc điểm sinh lý của trẻ
lứa tuổi này, dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học với những bộ
môn khác ông đã đưa ra được một số phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển vốn từ cho trẻ. Ngoài ra,
ông cũng đưa ra các cách sửa lỗi phát âm và một số trò chơi nhằm phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo.
Trong cuốn “Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non” [11], Nguyễn Ánh Tuyết
đã trình bày sự phát triển vốn từ của trẻ về mặt số lượng và chất lượng cũng
như cơ cấu từ loại.
Cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi” [7], các
tác giả Hoàng Thị Oanh - Phạm Thị Việt - Nguyễn Kim Đức đã nói lên tầm
quan trọng của ngôn ngữ trong việc giáo dục ngôn ngữ trong việc giáo dục
toàn diện cho trẻ và nêu sơ lược nội dung, phương pháp, biện pháp để luyện
phát âm, phát triển vốn từ, dạy nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ.
Trong sách giáo trình “Phương pháp phát triển ngôn ngữ lời nói cho trẻ
em” [9], của tác giả Đinh Hồng Thái, cũng chú trọng đến dạy lời nói cho trẻ,
3
Footer Page 8 of 16.
Header Page 9 of 16.
phát triển ngôn ngữ thông qua các thành phần của ngữ pháp Tiếng Việt đó là
giáo dục chuẩn mực ngữ âm Tiếng Việt, hình thành và phát triển vốn từ , dạy
trẻ các mẫu câu Tiếng Việt, phát triển lời nói mạch lạc, phát triển vốn từ mạch
lạc, phát triển vốn từ nghệ thuật cho trẻ qua các tác phẩm văn học để tạo tiền
đề tốt cho trẻ chuẩn bị vào lớp Một.
Không dừng ở đó , trên tạp chí Giáo dục mầm non có rất nhiều bài viết về
cách tổ chức quản lý, những sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên và cán bộ
quản lý ngành mầm non, khá nhiều bài viết về vấn đề phát triển ngôn ngữ và
vốn từ cho trẻ. Trong tạp chí Giáo dục mầm non số 1/2006 [13], tác giả Đinh
Thị Uyên có bài dịch tìm hiểu về chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mầm non Hàn Quốc. Đây là góc nhìn mở cho nền giáo dục mầm non hiện nay.
Trong một số khóa luận tốt nghiệp của sinh viên trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2 đã đề cập đến những vấn đề liên quan trực tiếp đến phương
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Vũ Thị Nguyên đề cập tới vấn đề
phát triển ngôn ngữ khóa luận “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”.
Phạm Thị Thắm đi sâu nghiên cứu phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua văn học
trong khóa luận “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 - 6
tuổi thông qua môn văn học thể loại truyện kể”.
Và nhiều cuốn sách, tạp chí, luận văn khác cũng đã đề cập đến vấn đề
này tuy nhiên chưa có tác phẩm, tác giả nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề rèn
khả năng diễn đạt cho trẻ qua việc cho trẻ kể lại những chuyện đã chứng kiến
hoặc tham gia. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi mạnh dạn
chọn và tìm hiểu đề tài “Rèn kỹ năng diễn đạt cho trẻ 5 - 6 tuổi qua việc kể lại
những chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia”.
3. Mục đích
Phát triển kỹ năng diễn đạt mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn bằng phương
pháp dạy trẻ kể lại những chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia.
4
Footer Page 9 of 16.
Header Page 10 of 16.
4. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu lí luận: Trên cơ sở tổng hợp các tư liệu về lý thuyết có liên
quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lí luận cho việc xây dựng một hệ thống
biện pháp dạy trẻ kể lại những chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia.
- Tìm hiểu thực trạng diễn đạt mạch lạc của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
- Đề ra các phương pháp, biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi rèn luyện kỹ năng
diễn đạt mạch lạc bằng việc cho trẻ kể lại những chuyện đã chứng kiến hoặc
tham gia.
5. Đối tượng nghiên cứu
Rèn kỹ năng diễn đạt mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi qua việc dạy trẻ kể lại
những chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chúng tôi giới hạn nghiên cứu một số biện pháp rèn kỹ năng
diễn đạt mạch lạc trên đối tượng trẻ 5 - 6 tuổi.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp phỏng vấn giáo viên
- Phương pháp phân tích tổng hợp
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, nội dung khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Các biện pháp rèn kỹ năng diễn đạt mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi
thông qua việc dạy trẻ kể lại những chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia.
5
Footer Page 10 of 16.
Header Page 11 of 16.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Diễn đạt mạch lạc
1.1.1. Khái niệm diễn đạt mạch lạc
Theo M.P.Lưvob: “Lời nói mạch lạc là lời nói được sắp xếp một cách
lôgic đúng ngữ pháp, thể hiện một chủ đề trọn vẹn có liên quan đến nhau, thể
hiện tính độc lập”.
Cao Đức Tiến, Nguyễn Xuân Khoa cho rằng lời nói mạch lạc là sự trình
bày logic, có trình tự chính xác ý nghĩa của mình, nói đúng ngữ pháp và có
hình ảnh nội dung định tính. Lời nói mạch lạc của trẻ được xem như một văn
bản được hình thành từ những câu có sợi dây liên kết chặt chẽ gọi là liên kết
nội dung và liên kết hình thức. Chính vì vậy tính mạch lạc trong lời nói của
trẻ được thể hiện qua lời nói độc thoại và lời nói đối thoại.
Tác giả Đinh Hồng Thái nhấn mạnh lời nói mạch lạc đúng về lý thuyết
ngôn ngữ vấn đề của ngữ pháp văn bản, nó không thuộc về ngữ âm từ vựng
hay ngữ pháp. Rèn luyện khả năng diễn đạt mạch lạc cho trẻ tức là giúp trẻ sử
dụng đơn vị giao tiếp ở cấp độ hoàn chỉnh nhất.
Trong cuốn Bách khoa toàn thư ngôn ngữ và ngôn ngữ học, mạch lạc là
sự kết nối có tính lôgic được trình bày trong quá trình triển khai một cốt
truyện, một chuyện kể… lệ thuộc vào việc tạo ra những sự kiện được kết nối
với nhau hơn là những dây liên hệ thuộc ngôn ngữ.
Như vậy, chúng tôi cho rằng, mạch lạc là sự tiếp nối các câu, các ý theo
một trình tự nhất định, rõ ràng, tất cả nội dung lời nói, câu từ phải theo một
chủ đề chung hợp lý.
1.1.2. Yêu cầu về kỹ năng diễn đạt mạch lạc
a) Phát âm
Bộ máy phát âm bao gồm: cơ quan hô hấp, thanh hầu, khoang miệng và
6
Footer Page 11 of 16.
Header Page 12 of 16.
khoang mũi. Âm thanh được phát ra bởi luồng không khí từ phổi đi lên các cơ
quan phát âm. Chính vì thế, để trẻ có khả năng diễn đạt một cách tốt nhất
bước đầu tiên chúng ta cần quan tâm đến bộ máy phát âm. Cần chăm sóc, vệ
sinh bộ máy phát âm bởi chỉ cần thiếu một cơ quan hay bộ phận nào đó bị tổn
thương thì khả năng phát âm của trẻ cũng gặp những khó khăn nhất định.
Khi trẻ đã có một bộ máy phát âm hoàn chỉnh, yêu cầu tiếp theo đó là
phải dạy trẻ phát âm chính xác những loại từ ngữ như danh từ (con chó, con
gà, hoa, lá, ô tô…), động từ (ăn cơm, uống nước, đi chơi…)… Để dạy trẻ phát
âm được đúng thì giáo viên và những người thân xung quanh trẻ phải là phát
âm chính xác đầu tiên. Ngoài ra, trong quá trình dạy trẻ phát âm, người lớn
cũng cần chú ý theo dõi, phát hiện, sửa sai nếu có cho trẻ; đồng thời kết hợp
đồ dùng trực quan để trẻ tri giác và ghi nhớ sự vật hiện tượng đó.
b) Cách sử dụng từ
Từ là đơn vị dùng để xây dựng câu, xây dựng lời nói. Từ có thể được cấu
tạo bởi một hoặc nhiều âm tiết, ví dụ như: ăn, ngủ, vệ sinh, Liên Hợp Quốc…
Một từ có thể có một nghĩa hoặc nhiều nghĩa khác nhau phụ thuộc vào
hoàn cảnh giao tiếp nhất định.
Yêu cầu cơ bản của việc dùng từ là đảm bảo tính chính xác. Dùng từ
chính xác là đảm bảo được sự trùng khít, tương hợp sát sao giữa ý nghĩa của
từ với nội dung muốn biểu đạt. Nghĩa biểu niệm hay biểu vật của từ phải phản
ánh đúng khái niệm, sự vật, hành động, tính chất,… mà người nói muốn đề
cập đến. Đồng thời, nghĩa biểu thái của từ phải phù hợp tình cảm của người
nói đối với sự vật, hiện tượng đó. Đây là sự tương hợp cơ bản nhất, không bảo
đảm được sự tương hợp này sẽ dẫn tới lỗi chọn sai từ.
Trẻ mầm non có thể sử dụng đúng từ khi chúng hiểu được nghĩa của từ
đó. Điều đó có nghĩa là giáo viên, những người thân xung quanh trẻ cần giúp
trẻ hiểu được ý nghĩa của từ. Khi dạy trẻ nói, cần hướng sự chú ý của trẻ đến
7
Footer Page 12 of 16.
Header Page 13 of 16.
bản thân mình. Nói về những gì gần gũi hay những gì làm trẻ thích thú và lặp
lại nhiều lần. Khích lệ khi trẻ nói đúng, giúp đỡ động viên khi trẻ nói sai, có
như vậy trẻ sẽ hiểu được cách sử dụng từ đúng với hoàn cảnh giao tiếp.
c) Câu
Câu là một tập hợp từ ngữ kết hợp với nhau theo một quy tắc nhất định,
diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn, dùng để thực hiện một mục đích nào đó.
Câu có chức năng biểu hiện và truyền đạt tư tưởng, tình cảm từ người
này sang người khác, là đơn vị thông báo nhỏ nhất (so với đoạn văn, văn bản).
Câu có cấu tạo ngữ pháp nhất định có ngữ điệu kết thúc biểu thị thái độ của
người đối với nội dung câu nói.
Lỗi của trẻ mầm non khi sử dụng câu thường do cấu trúc câu không
hoàn chỉnh. Trẻ nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ hay thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ.
Chẳng hạn: “Ăn cơm”. “Đầy một màu xanh”.
Cần lưu ý hướng dẫn trẻ sử dụng câu sao cho phù hợp ngữ cảnh giao
tiếp. Tránh sử dụng câu rút gọn với người lớn. Khi dùng câu hỏi hay câu đề
nghị cần thưa gửi, giữ phép lịch sự phù hợp với người được hỏi, được đề
nghị, tránh làm phiền lòng người khác. Chẳng hạn: “Bác có thể cho cháu ngồi
nhờ một lát được không? “Mẹ lấy giúp con cốc nước nhé!”.
d) Mạch lạc
Trẻ mầm non rất khó có thể duy trì được sự mạch lạc. Những câu chuyện
trẻ kể diễn ra theo trí nhớ và cảm xúc riêng của trẻ. Trẻ không tập trung vào
chủ đề đang diễn ra, lan man sang những chủ đề trẻ thích và luôn chịu ảnh
hưởng của những tác động bên ngoài. Cần dạy trẻ biết nghe và hiểu lời nói,
biết đối thoại, biết nói chuyện, biết trả lời câu hỏi và đặt câu hỏi. Trong khi
nói chuyện, cần thể hiện bản thân có văn hóa, lịch sự.
Rèn khả năng chú ý, ghi nhớ cho trẻ là điều kiện cơ bản để trẻ diễn đạt
mạch lạc. Giáo viên hướng trẻ vào một chủ đề nhất định và hướng những câu
hỏi, câu trả lời của trẻ vào chủ đề đó. Dạy trẻ biết kể lại chuyện được nghe,
8
Footer Page 13 of 16.
Header Page 14 of 16.
được chứng kiến hoặc tham gia mà nội dung cần thể hiện được tính độc lập và
sáng tạo. Hạn chế tối đa những kích thích bên ngoài làm giảm tập trung chú ý
của trẻ. Đồng thời, tăng khả năng tư duy tưởng tượng ở trẻ bằng cách kết hợp
với các phương tiện trực quan. Như vậy, Đinh Hồng Thái cho rằng để đảm
bảo được tính mạch lạc thì cần đảm bảo những yếu tố sau:
- Lời nói phải có chủ đề và thể hiện tập trung vào chủ đề đó
- Chủ đề phải được triển khai lôgic
- Lời nói phải có bố cục rõ ràng
- Có dùng các biện pháp liên kết một cách hợp lý
- Có sắc thái biểu cảm trong lời nói
e) Biểu cảm
Tính biểu cảm của ngôn ngữ là đặc tính của các đơn vị ngôn ngữ ở các
cấp độ khác nhau: ở cấp độ ngữ âm tính biểu cảm được thể hiện ở các đơn vị
ngữ âm - âm vị và sự thay đổi cao độ, cường độ và trường độ của các âm tiết
cụ thể trong một phát ngôn cách phát âm cũng như ngữ điệu phát ngôn. Cùng
một phát ngôn, qua các cách thể hiện khác nhau của người nói (cùng nét mặt,
cử chỉ, điệu bộ) mà có những ý nghĩa khác nhau.
Khi giao tiếp giáo viên cần hướng dẫn trẻ thể hiện biểu cảm sao cho phù
hợp. Trường hợp nào nên nói to, trường hợp nào nên nói nhỏ; nói về những
vấn đề gì thì nét mặt vui vẻ, hào hứng; kể chuyện gì thì hùng hồn, trang
trọng… Tất cả những biểu cảm ấy trẻ không chỉ được học trong trường lớp
mà cả ở xã hội bên ngoài, bởi cảm xúc con người vô cùng phong phú, tình
huống lại vô cùng đa dạng. Nhiệm vụ của cô không chỉ là hướng dẫn, giúp đỡ
mà trong các tiết học các câu chuyện thường gặp cô cần thể hiện cử chỉ, điệu
bộ sao cho rõ ràng, đúng đắn, hợp lý, từ đó trẻ học tập mà làm theo.
1.2. Kể chuyện
1.2.1. Khái niệm kể chuyện
Kể là một động từ biểu thị hoạt động nói. Theo Từ điển tiếng Việt (Văn
9
Footer Page 14 of 16.
Header Page 15 of 16.
Tân chủ biên) giải thích: kể là nói rõ đầu đuôi. Văn kể chuyện là văn trong
truyện hoặc trong tiểu thuyết. Do đó, văn kể chuyện cũng là đặc điểm của
truyện. Đặc trưng cơ bản của truyện là tình tiết nghĩa là có các sự việc đang
xảy ra, có ngôn ngữ, nhân vật, có tâm trạng hay tính cách riêng.
Kể là hình thức hoạt động ngôn ngữ. Kể chuyện là hình thức thông tin
nhanh gọn truyền cảm bằng ngôn ngữ, là hình thức khởi đầu của sự tích lũy
tri thức khoa học, kinh nghiệm sống, có chức năng thông tin. Ngôn ngữ ngày
càng phát triển số từ cơ bản tăng thêm, đời sống vật chất và tinh thần phong
phú thì kể chuyện không dừng ở chức năng thông tin mà còn mang trong
mình chức năng giải trí hay cao hơn là chức năng nghệ thuật.
Có người hiểu đơn giản kể chuyện chỉ là kể chuyện dân gian, kể chuyện
cổ tích. Thực ra không hẳn như vậy, kể chuyện ở đây bao gồm việc kể nhiều
loại truyện khác nhau, kể cả truyện cổ và truyện hiện đại, nhằm mục đích giáo
dục, giáo dưỡng, rèn kỹ năng nhiều mặt của con người. Sở dĩ có thể xác định
“kể chuyện là một thuật ngữ vì nó có một kết cấu âm tiết ổn định, một phạm
trù ngữ nghĩa (còn gọi là khái niệm) nhất định. Lâu nay, thuật ngữ “kể
chuyện” vẫn được dùng với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng lời, kể cả câu
chuyện có hình thức hoàn chỉnh, được in trên sách báo [10].
Kể chuyện là một hình thức ngôn ngữ độc thoại, thuật bằng lời có logic, có
tình cảm về một sự kiện theo trình tự phát triển của nó. Khi kể chuyện, người kể
lựa chọn nội dung và hình thức ngôn ngữ, nhớ lại sự kiện, sự vật hiện tượng từ
những quan sát thế giới xung quanh theo trình tự diễn biến sự việc trong một
khoảng thời gian nhất định. Nội dung chuyện được diễn diễn giải theo một cấu
trúc logic, hợp lý. Từ những hoạch định ý tưởng đến trình bày, từ những thao tác
phân tích tổng hợp của tư duy đến việc hồi tưởng, nhớ lại từ ngữ của trí nhớ xảy
ra trong óc của con người, chúng được chuyển thành những thao tác ngôn ngữ
bên ngoài tạo nên lời nói. Tất cả quá trình tư duy, trí nhớ đó diễn ra trong mối
quan hệ tương tác và liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ trong quá trình kể chuyện.
10
Footer Page 15 of 16.
Header Page 16 of 16.
Kể chuyện cũng là hình thức hoạt động tâm lý. Người kể chuyện sử
dụng hiểu biết của mình (vốn từ ngữ, cách thức phát âm, nguyên tắc xây dựng
câu, phong cách trình bày…) để diễn đạt bày tỏ, chia sẻ suy nghĩ, ý tưởng,
tâm tư, cảm xúc, nhu cầu, mong muốn, tâm trạng… của mình về đối tượng
nào đó. Cùng một nội dung như nhau mỗi người có cách thức trình bày riêng
(ngữ điệu giọng nói, lựa chọn từ ngữ, sử dụng loại câu…).
Khi kể chuyện, trẻ phải tự chọn ý tưởng, nội dung chuyện và hình thức
ngôn ngữ. Cô giáo cần giúp trẻ xây dựng ý tưởng, đặt ra chủ đề… sao cho
người nghe có thể hiểu được. Trẻ nhớ lại sự kiện, sự vật hiện tượng, từ những
quan sát thế giới xung quanh theo trình tự diễn biến sự việc trong một khoảng
thời gian nhất định và chọn lọc những từ ngữ phù hợp, sắp xếp chúng thành
những cấu trúc câu liên kết, liền mạch phù hợp ý tưởng. Nội dung câu chuyện
cần được diễn giải theo cấu trúc logic hợp lý. Khi kể chuyện trẻ lồng vào đó
những suy nghĩ tình cảm, cảm xúc của mình - nghĩa là trẻ sử dụng ngôn ngữ
bản thân để bộc lộ những gì bản thân mình thấy, nghe, nhận biết và cảm xúc
được. Vậy kể chuyện vừa là hình thức hoạt động ngôn ngữ vừa là hình thức
hoạt động tâm lý cá nhân.
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện của trẻ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt là phương tiện giao tiếp cơ
bản và quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người. Ngôn ngữ
đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn
hóa, lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong
cuộc sống con người, nhờ ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau
những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những
điều thầm kín. Không có ngôn ngữ, con người không thể giao tiếp được thậm
chí khó có thể tồn tại được. Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện
thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên của xã hội loài người.
11
Footer Page 16 of 16.
Header Page 17 of 16.
Ở thời kỳ này trẻ hoàn thiện dần về mặt ngữ âm, các phụ âm đầu, âm
cuối, âm đệm, thanh điệu dần dần được định vị. Trẻ dần phát âm đúng các âm
vị của tiếng mẹ đẻ, kể cả các âm, các vần khó (ưu, iêu, ươm, uông…). Trẻ biết
điều chỉnh nhịp điệu, cường độ của giọng nói khi giao tiếp cho phù hợp hoàn
cảnh, lời nói của trẻ rõ ràng dứt khoát hơn. Tuy nhiên, trẻ mẫu giáo lớn vẫn
mắc một số lỗi về phát âm như lỗi âm đầu (l - n, r - d - gi, x - s, ch - tr, …), lỗi
âm đệm, lỗi âm chính (ươ, uô, ie), lỗi thanh điệu (?, ~), lỗi âm cuối (ch thành
t, nh thành n).
Vốn từ so với tuổi nhà trẻ, mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ thì tuổi mẫu giáo
lớn nhiều hơn hẳn. Theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về ngôn ngữ của
trẻ nội thành Hà Nội thì vốn từ của trẻ mẫu giáo là:
Trẻ 4 tuổi: 1900 - 2000 từ
Trẻ 5 tuổi: 2500 - 2600 từ
Trẻ 6 tuổi: 3000 - 4000 từ
Theo Xtécnơ, trong ngôn ngữ trẻ em xuất hiện trước hết là danh từ, rồi
đến động từ và một số từ loại khác. Trẻ mẫu giáo tuy nói nhiều nhưng chưa
phải nói hay, vì vậy cần mở rộng các từ loại để trẻ không những nói đúng mà
còn nói hay, biết sử dụng các từ có sắc thái tình cảm bộc lộ những nét riêng
phù hợp hoàn cảnh giao tiếp.
Số lượng câu đơn mở rộng trong lời nói của trẻ tăng lên, sự mở rộng
không hạn chế ở thành phần phụ trạng ngữ mà còn ở cả thành phần chính: chủ
ngữ và vị ngữ. Số lượng câu ghép trong lời nói của trẻ cũng tăng lên. Ngoài các
kiểu câu ghép thường còn xuất hiện các kiểu câu ghép đặc biệt như: đẳng lập lựa chọn, đẳng lập - tương phản, nguyên nhân - kết quả, mục đích - sự kiện…
Ở trẻ mẫu giáo lớn, lời nói mạch lạc đã đạt được trình độ nhất định. Trẻ
sử dụng câu ngắn gọn, tương đối chính xác, khi cần thì biết mở rộng để trả lời
câu hỏi. Trẻ tích cực tham gia trò chuyện với người lớn, với bạn. Trẻ có thể
12
Footer Page 17 of 16.
Header Page 18 of 16.
đàm thoại về những gì đã biết hoặc đã được nghe, trẻ có thể tranh luận đưa ra
ý kiến của mình bằng chính ngôn ngữ và sự hiểu biết của mình. Trẻ biết xây
dựng câu chuyện tương đối liên tục, rõ ràng, phong phú theo đề tài cho sẵn
hoặc kể chuyện theo tranh, đồ chơi, đồ vật tuy nhiên vẫn cần có sự hướng dẫn
của giáo viên.
1.2.3. Vai trò hoạt động dạy trẻ kể lại chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia
với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi
A.M.Leusina: “Kể chuyện có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển lời nói
có kết cấu chặt chẽ cho trẻ mẫu giáo”. Kể lại chuyện giúp trẻ phát triển khả
năng tư duy, trí nhớ, tưởng tượng, phân tích, tổng hợp. Kể lại chuyện phát
triển khả năng ngôn ngữ cho trẻ vì trẻ cần phải chọn lọc từ, vận dụng mô hình
câu để diễn đạt nội dung câu chuyện của mình để người nghe có thể hiểu
được. Nhờ vậy câu chuyện còn giúp trẻ đáp ứng nhu cầu văn hóa, hòa mình
vào cuộc sống xã hội.
Ngôn ngữ của trẻ được xem xét trong quá trình giao tiếp đối thoại và
độc thoại mà trẻ kể nói chung và trong kể lại chuyện đã chứng kiến hoặc tham
gia nói riêng. Để có thể kể được một câu chuyện trẻ phải có khả năng phân
tích tổng hợp, khái quát, có trí tưởng tượng phong phú, có tư duy ngôn ngữ
mạch lạc, logic. Câu chuyện mà trẻ kể không những phải có nội dung hợp lý,
có ý ngĩa mà còn phải có bố cục chặt chẽ trong mối quan hệ mật thiết với sự
phát triển kỹ năng ngôn ngữ, nhận thức, tư duy của trẻ.
1.3. Đặc điểm của trẻ 5 - 6 tuổi
1.3.1. Cơ sở sinh học
Khi trào đời não bộ của trẻ chưa phát triển đầy đủ, mặc dù hình thái và
cấu tạo giải phẫu của nó không khác nhiều so với não của người lớn. Ở trẻ sơ
sinh: não bộ có kích thước nhỏ, khoảng 370 - 392 gam (1/8 - 1/9 trọng lượng
cơ thể). Trong 9 năm đầu, trọng lượng não trẻ tăng lên mạnh mẽ. Chẳng hạn,
13
Footer Page 18 of 16.
Header Page 19 of 16.
trẻ được 6 tháng tuổi, trọng lượng não trẻ tăng lên gấp đôi so với lúc mới
sinh; trẻ 3 tuổi, tăng gấp 3 và đa số các tế bào thần kinh được biệt hóa.
Học thuyết về các hệ thống tín hiệu đã khẳng định: ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu thứ hai, là sự hoạt động đặc điểm của vỏ bán cầu đại não. Hệ
thống tín hiệu thứ hai có được nhờ những kích thích trừu tượng như ngôn
ngữ, lời nói, chữ viết… việc phát triển ngôn ngữ phải liên quan mật thiết tới
việc phát triển và hoàn thiện bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung.
Trong 3 năm đầu là kết thúc sự trưởng thành về mặt giải phẫu vùng não chỉ
huy ngôn ngữ, vì thế phải phát triển ngôn ngữ đặc biệt là vốn từ cho trẻ đúng
lúc mới đạt kết quả tốt.
Để có thể giao tiếp tốt, chúng ta không thể không kể đến bộ máy phát
âm. Mỗi con người sinh ra đã có sẵn bộ máy phát âm, đó là tiền đề vật chất để
sản sinh âm thanh ngôn ngữ. Đó là một trong những điều kiện vật chất quan
trọng nhất mà thiếu nó không thể có ngôn ngữ; nếu như cấu tạo của nó có một
khiếm khuyết nào đó (chẳng hạn như sứt môi, hở hàm ếch, ngắn lưỡi…) thì
việc hình thành lời nói cũng hết sức khó khăn. Khi sinh ra, mỗi con người
không phải đã có ngay một bộ máy phát âm hoàn chỉnh mà chính trong giai
đoạn lứa tuổi mầm non đã giúp bộ máy đó hoàn thiện dần dần. Cùng với đó là
sự xuất hiện của răng; sự vận động của môi, lưỡi, hàm dưới… Cấu tạo bộ
máy phát âm gồm: dây thanh và các hộp cộng hưởng phía trên thanh hầu. Âm
sắc và tiếng nói do tính chất của âm xác định và phụ thuộc vào các khoang
cộng hưởng của phần trên các bộ phận thanh quản, họng, khoang miệng, mũi.
Qúa trình đó diễn ra tự nhiên theo quy luật sinh học, nó phát triển cùng sự lớn
lên của trẻ. Tuy nhiên trong thực tế, có những trẻ sinh ra phát triển bình
thường và đầy đủ bộ máy phát âm nhưng có trẻ phát triển ngôn ngữ tốt; có trẻ
còn ấp úng, nói nghịu, nói ngọng. Sự khác nhau đó phần do sự chăm sóc và
môi trường sinh sống của trẻ, phần do sự giáo dục trẻ chưa thật triệt để. Cùng với
14
Footer Page 19 of 16.
Header Page 20 of 16.
thời gian, quá trình học tập, rèn luyện một cách có hệ thống sẽ làm cho bộ máy
phát âm đáp ứng được nhu cầu thực hiện các chuẩn mực âm thanh, ngôn ngữ.
Trẻ mầm non 5 - 6 tuổi có hệ thần kinh tương đối phát triển và hoàn
thiện, bộ não trẻ không khác người trưởng thành nhiều, với hơn 1 tỷ rưỡi tể
bào thần kinh và hàng vạn tế bào phụ trợ khác trong bán cầu đại não. Trẻ đã
thể hiện năng lực qua hoạt động tổng hợp lời nói, quan sát, chú ý, ghi nhớ,
tưởng tượng, tư duy. Giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng, tai nghe âm vị
được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận các ngữ âm khi nghe người lớn
nói, mặt khác cơ quan phát âm đã trưởng thành đến mức trẻ có thể phát âm
tương đối chuẩn kể cả những âm khó của tiếng mẹ đẻ và sử dụng ngữ điệu
một cách phù hợp với nội dung giao tiếp.
1.3.2. Cơ sở tâm lý học
Con người khác động vật nhờ có ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là điều kiện
vừa là phương tiện để con người giao tiếp. Trong hoạt động học tập ngôn ngữ
là công cụ thực hiện hóa tư duy, lĩnh hội tri thức vừa nói lên khả năng trí tuệ
của con người. Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tác
động qua lại lẫn nhau.
Ngôn ngữ được hình thành rất sớm. Ngay từ giai đoạn hài nhi ở trẻ đã
hình thành những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp của trẻ
với người lớn ngày càng tăng làm nảy sinh khả năng nói của trẻ. Trẻ không có
ý thức về ngôn ngữ nhưng bằng cách bắt trước có tính chất bản năng trẻ sẽ
học được cách nói của người lớn xung quanh.
Trẻ 5 - 6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của trẻ em lứa tuổi mầm non. Chú ý
của trẻ 5 - 6 tuổi phần lớn là không chủ định tuy nhiên chú ý có chủ định đã
xuất hiện nhưng còn hạn chế. Trẻ thường chú ý đến một đối tượng gây kích
thích mạnh hoặc gây những ấn tượng, xúc cảm mới lạ nhất là tạo cho trẻ một
sự hứng thú. Ghi nhớ máy móc là đặc điểm nổi bật, trẻ ghi nhớ những sự vật,
15
Footer Page 20 of 16.
Header Page 21 of 16.
hiện tượng cụ thể dễ dàng hơn nhiều so với lời giải thích dài. Ở giai đoạn này,
trí nhớ của trẻ có một bước biến đổi về chất, trí nhớ chủ định đã xuất hiện và
phát triển mạnh. Đó là loại trí nhớ có mục đích, phải nhờ đến công cụ tâm lý
như sơ đồ, biểu đồ và chữ viết. Trong quá trình tưởng tượng trẻ sử dụng các
biểu tượng của trí nhớ. Tuy vậy tuổi mẫu giáo lớn các quá trình tâm lý không
chủ định vẫn chiếm ưu thế trong hoạt động tâm lý của trẻ.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, trẻ tích cực tham gia trò chuyện với người lớn, với
bạn hơn. Trẻ có thể đàm thoại về những gì đã biết đã nghe từ trước. Tư duy
của trẻ phát triển hơn, trẻ có thể nhận biết được đặc điểm, dấu hiệu, phân tích
đầy đủ về sự vật hiện tượng. Bằng ngôn ngữ trẻ có thể diễn đạt rõ ràng, mạch
lạc ý nghĩ, sự hiểu biết của mình. Trẻ biết xây dựng câu chuyện tương đối liên
tục, rõ ràng, phong phú theo đề tài cho sẵn hoặc kể chuyện theo tranh, đồ
chơi, đồ vật, tuy nhiên vẫn cần sự hướng dẫn của giáo viên.
Vì vậy khi giáo viên tổ chức cho trẻ kể lại những chuyện trẻ đã chứng
kiến hoặc tham gia phải căn cứ vào đặc điểm ghi nhớ, chú ý của trẻ, tạo cho
trẻ những tình huống, những hứng thú, có như vậy giờ học mới đạt được hiệu
quả cao nhất.
1.3.3. Cơ sở giáo dục học
Dạy học ở trường Mẫu giáo là quá trình có hệ thống, có kế hoạch, có
mục đích các năng lực nhận thức ở trẻ, trang bị cho trẻ hệ thống tri thức sơ
đẳng hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Trên cơ sở đó góp phần hình
thành nhân cách cho trẻ. Trong quá trình dạy học gồm có nhiều hoạt động
khác như: Làm quen với văn học; Hình thành biểu tượng toán học; Làm quen
với môi trường xung quanh… tất cả các hoạt động này nhằm mục đích mở
rộng kiến thức hiểu biết cho trẻ và bên cạnh đó còn có một nhiệm vụ quan
trọng là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hiện nay ở trường mầm non có hai hình
thức phát triển lời nói cho trẻ em đó là tiết học và ngoài tiết học. Thông qua
16
Footer Page 21 of 16.
Header Page 22 of 16.
tiết dạy kể lại chuyện cô giáo giúp trẻ có kỹ năng tự hình dung, tự ghi nhớ và
tự thể hiện câu chuyện một cách độc lập, sáng tạo, có như vậy các phẩm chất
tâm lý trẻ mới hoàn thiện, ngôn ngữ trẻ mới phát triển.
Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con
người và sự vật hiện tượng xung quanh. Để thực hiện điều đó phải thông qua
nhiều phương tiện khác nhau như qua các giờ học, các trò chơi, dạo chơi
ngoài trời và sinh hoạt hàng ngày, rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ, tập
cho trẻ biết nghe, hiểu và phát âm chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ, hướng
dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu. Vì vậy, khi
cho trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên, đặc
điểm của đối tượng; không những thế, giáo viên dạy trẻ biết nói câu đầy đủ,
rõ nghĩa, dạy trẻ phát âm đúng các âm chuẩn của tiếng Việt, đảm bảo các
nguyên tắc của giáo dục học tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa sức, tính
tiếp thu.
17
Footer Page 22 of 16.
Header Page 23 of 16.
CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG DIỄN ĐẠT MẠCH LẠC
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI QUA VIỆC DẠY TRẺ KỂ LẠI NHỮNG CHUYỆN
ĐÃ CHỨNG KIẾN HOẶC THAM GIA
2.1. Thực trạng việc dạy trẻ kể lại chuyện ở trường mầm non
a, Thực trạng việc dạy trẻ kể lại chuyện ở trường mầm non nói chung
Một thực tế đáng quan tâm của vấn đề này là: nội dung phát triển ngôn
ngữ cho trẻ tại các trường mầm non đã được đề cập xong việc lồng ghép
(trong các tiết học như môi trường xung quanh, làm quen tác phẩm văn
học…) còn sơ sài, phương pháp phát triển chưa được rõ ràng, nhiệm vụ, mục
tiêu phát triển ngôn ngữ chưa được thực hiện một cách đầy đủ trọn vẹn.
Chẳng hạn, tiết học cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thì thì chỉ tập
chung nhiệm vụ kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe, dạy trẻ kể lại chuyện, đọc
thuộc thơ. Với nhiệm vụ bồi dưỡng, phát triển khả năng diễn đạt mạch lạc cho
trẻ thì những tiết học và biện pháp như vậy là chưa đủ.
b, Thực trạng việc dạy trẻ kể lại chuyện ở trường mầm non về những chuyện
đã chứng kiến hoặc tham gia
Chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia là những câu chuyện diễn ra xung
quanh cuộc sống hàng ngày của trẻ mà chính trẻ được tri giác trực tiếp qua
các giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác,…). Những câu chuyện đó, có thể
trẻ là người bên ngoài được quan sát, được đánh giá cảm nhận; có thể chính
trẻ là một trong các nhân vật tham gia tạo nên tình tiết câu chuyện.
Câu chuyện được chứng kiến hay được tham gia như nhau nhưng mỗi
trẻ lại có cách nhìn nhận đánh giá khác nhau. Vì vậy, giọng kể của từng trẻ
cũng khác nhau tùy thuộc vào cảm xúc và những nội dung trẻ tri giác được.
Chúng tôi tiến hành điều tra thực trạng nhằm đánh giá tình hình chung
khả năng diễn đạt mạch lạc logic của trẻ 5 - 6 tuổi để làm cơ sở nghiên cứu và
đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng diễn đạt cho trẻ mầm non.
18
Footer Page 23 of 16.
Header Page 24 of 16.
Địa bàn điều tra:
* Tại thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
- Trường mầm non Hoa Sen
- Thời gian từ 01/11/2015 đến 18/11/2015
* Nội dung và phương pháp điều tra
- Chúng tôi sử dụng phiếu Anket với các giáo viên trường mầm non
Hoa Sen (30 phiếu)
PHIẾU ĐIỀU TRA
(Dành cho giáo viên)
Xin chị hãy vui lòng trả lời những câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Rèn kỹ năng diễn đạt cho trẻ được chị lồng ghép trong những
tiết học nào?
Câu hỏi 2: Khi rèn kỹ năng diễn đạt cho trẻ, chị gặp thuận lợi hay khó
khăn gì?
Câu hỏi 3: Nội dung kể chuyện nào thường được chị sử dụng nhiều nhất
trong các tiết dạy trẻ kể chuyện?
+ Dạy trẻ kể chuyện theo tranh
+ Dạy trẻ kể lại chuyện
+ Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
+ Dạy trẻ kể lại chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia
Câu hỏi 4: Theo chị, khi dạy trẻ kể lại những chuyện trẻ đã chứng kiến
hoặc tham gia, chủ đề nào khiến trẻ hứng thú nhất?
+ Tham quan, du lịch
+ Lễ hội, văn nghệ
+ Thể thao
+ Sinh hoạt gia đình
+ Trường, lớp học
19
Footer Page 24 of 16.
Header Page 25 of 16.
Câu hỏi 5: Chị đã sử dụng phương pháp,biện pháp gì khi tổ chức rèn kỹ
năng diễn đạt cho trẻ qua việc dạy trẻ kể lại chuyện?
* Chúng tôi tiến hành điều tra bằng phương pháp sau:
+ Điều tra bằng phiếu Anket trên các cô giáo ở trường mầm non Hoa Sen
+ Sử dụng biện pháp quan sát, dự giờ các tiết dạy trẻ kỹ năng diễn đạt.
Phân tích, tổng hợp kết quả điều tra.
* Kết quả điều tra
Qua điều tra một số câu hỏi liên quan đến vấn đề rèn kỹ năng diễn đạt
cho trẻ chúng tôi thấy như sau:
- Câu hỏi 1: Rèn kỹ năng diễn đạt cho trẻ được chị lồng ghép trong những tiết
học nào?
+ 30/30: Được lồng ghép trong các tiết cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh và làm quen với tác phẩm văn học
+ 15/30: tiết âm nhạc, tạo hình
- Câu hỏi 2: Khi rèn kỹ năng diễn đạt cho trẻ, chị gặp thuận lợi hay khó khăn gì?
Thuận lợi:
+ 30/30: Đa số các cháu đều được đến trường mầm non từ khi 2 tuổi, bố
mẹ các cháu đều có trình độ học vấn cao
+ 17/30: Nhận thức của các cháu tốt, đồng đều
Khó khăn:
+ 25/30: cơ sở vật chất còn hạn chế
+ 27/30: bố mẹ bận rộn, các cháu còn phát âm chưa chính xác
+ 2/30: Các tiết học chưa gây được hứng thú cao
- Câu hỏi 3: Nội dung kể chuyện nào thường được chị sử dụng nhiều nhất
trong các tiết dạy trẻ kể chuyện?
+ 30/30: dạy trẻ kể lại chuyện
+ 30/30: dạy trẻ kể chuyện theo tranh
20
Footer Page 25 of 16.