Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

luận văn đại học sư phạm hà nội Một số biện pháp hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ 5-6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 101 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập Quốc tế, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, khi toán
học đã là cơ sở của nhiều ngành khoa học khỏc thỡ việc hình thành biểu
tượng toán học cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là rất cần thiết.
Hình thành biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non có một vị
trí quan trọng trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ, nó đặt nền móng cho sự
phát triển tư duy, phát triển năng lực nhận biết của trẻ, góp phần phát triển
toàn diện nhân cách và chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông với những
biểu tượng toán sơ đẳng và những kỹ năng nhận biết như: Quan sát, phân
biệt, so sánh, phân loại, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoỏ…Đồng thời,
các hoạt động cho trẻ làm quen với toán ở trường mầm non giúp trẻ giải
quyết được một số khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, dễ dàng tỡm hiểu
môi trường xung quanh trẻ, nhận thức được các dấu hiệu toán học và mối
quan hệ toán học có trong các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ.
Thế giới xung quanh trẻ luôn tồn tại với muôn màu, muôn vẻ với sự đa
dạng của màu sắc, hình dạng, khối lượng, kích thước… Sự nhận biết kích
thước của trẻ được thực hiện một mặt trên cơ sở nhận thức cảm tính, mặt
khác nó được thực hiện với sự tham gia của lời nói và các quá trình tư duy
như so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quỏt hoỏ…. Chính vì vậy, hình thành
biểu tượng về kích thước cho trẻ, trong đó việc hình thành kỹ năng đo lường
góp phần phát triển tính ổn định sự tri giác kích thước, hình thành kỹ năng
phân biệt kích thước như một dấu hiệu của vật thể, phát triển tư duy, ngôn
ngữ, hình thành nhu cầu nhận biết, tạo cơ sở cho việc nắm vững kích thước
như một khái niệm toán học sau này.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội


1
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

Việc hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ 5-6 tuổi có tác dụng phát
triển tri giác kích thước các vật của trẻ và làm cho nó trở nên ổn định hơn,
chính xác hơn và góp phần chuẩn bị cho trẻ học phép đo đạc ở trường tiểu
học tạo cơ sở cho trẻ nắm kiến thức như một khái niệm toán học, phát triển ở
trẻ khả năng dùng thước đo ước lệ để đánh giá kích thước của vật và hiểu
được sự phụ thuộc giữa độ lớn của thước đo và kết quả đo.
Trong các trường mầm non hiện nay, nhiệm vụ hình thành kỹ năng đo
lường cho trẻ 5-6 tuổi là một trong những nhiệm vụ được quy định chặt chẽ
trong chương trình “Chăm sóc giáo dục trẻ mầm non”. Trong những năm
qua, chương trình này đã thể hiện rất nhiều ưu điểm . Tuy nhiờn, việc tổ
chức dạy trẻ 5-6 tuổi phép đo lường ở trường mầm non hiện nay vẫn chưa
đạt hiệu quả cao, cách thức tiến hành và hiệu quả hoạt động này cũn có nhiều
hạn chế. Trẻ tiếp thu kiến thức đo lường cũn máy móc, nắm biện pháp đo thì
thiếu chính xác, hơn nữa trẻ không biết vận dụng chúng vào trong cuộc sống.
Mặt khác, giáo viên mầm non cũn thiếu linh hoạt, sáng tạo trong việc soạn
giáo án, phần lớn họ dạy theo kinh nghiệm, thói quen. Trong các hoạt động
học đo lường có chủ đích, trẻ ít được luyện tập, đồng thời giáo viên ít chú ý
tới việc cho trẻ thực hành đo, vì vậy dẫn đến tình trạng trẻ không có kỹ năng
đo, hoặc kỹ năng đo thiếu chính xác. Mặt khác, việc tổ chức cho trẻ đo lường
thường bị giáo viên giới hạn trong các tiết học, trẻ không được ứng dụng vào
trong các hoạt động khác, từ đó dẫn đến mức độ nắm kỹ năng đo lường của
trẻ còn thấp.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp
hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ 5-6 tuổi” nhằm nõng cao mức độ
hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ.
2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp hình thành kỹ năng đo lường
cho trẻ 5-6 tuổi nhằm nâng cao mức độ hình thành kỹ năng này cho trẻ.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
2
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình dạy trẻ 5-6 tuổi phép đo lường.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp hình thành kỹ năng (KN) đo lường cho trẻ 5-6 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
Mức độ hình thành kỹ năng đo lường của trẻ 5-6 tuổi còn chưa cao.
Nếu ta xây dựng được một số biện pháp hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ
5-6 tuổi và phối hợp sử dụng chúng một cách hợp lý thì sẽ góp phần nâng
cao mức độ hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của một số biện pháp hình thành KN đo lường cho
trẻ 5-6 tuổi.
- Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng việc hình thành KN đo lường
cho trẻ 5-6 tuổi
- Xõy dựng một số biện pháp hình thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi.
- Tiến hành thực nghiệm một số biện pháp hình thành KN đo lường cho trẻ
5-6 tuổi đã xõy dựng.
6. Phương pháp nghiêm cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Đọc và phân tích một số tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm
xây dựng cơ sở lí luận của một số biện pháp hình thành KN đo lường cho trẻ

5-6 tuổi.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu Anket đối với giáo viên
mầm non bằng hệ thống câu hỏi nhằm nắm được thực trạng nhận thức và
thái độ của giáo viên cũng như thực trạng sử dụng một số biện pháp hình
thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi của giáo viên mầm non.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
3
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động của GVMN trong quá trình tổ chức dạy trẻ 5-6
tuổi phép đo lường để đánh giá thực trạng việc hình thành KN đo
lường cho trẻ 5-6 tuổi của giáo viên.
+ Quan sát hoạt động đo lường của trẻ và trò chuyện với trẻ để kiểm
tra mức độ hình thành KN đo lường của trẻ.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Tiến hành thực nghiêm nhằm kiểm nghiệm tính khả thi, tính hiệu quả
của một số biện pháp hình thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi đã xõy dựng
- Phương pháp thống kê toán học.
Xử lý kết quả nghiên cứu bằng các công thức toán thống kê.
7. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu và xây dựng một số biện pháp hình thành KN đo lường
cho trẻ 5-6 tuổi trong các hoạt động làm quen với toán và trong hoạt động
vui chơi của trẻ ở trường mầm non.
8. Đóng góp của đề tài
Đề tài nhằm làm phong phú thêm lí luận và thực tiễn về một số biện
pháp hình thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi.

9. Cấu trúc của đề tài
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của một số biện pháp hình thành
KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi
Chương 2: Xây dựng một số biện pháp hình thành KN đo lường cho
trẻ 5-6 tuổi
Chương 3: Thực nghiệm một số biện pháp hình thành KN đo lường
cho trẻ 5-6 tuổi.
Kết luận và kiến nghị sư phạm
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
4
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ BIỆN
PHÁP HèNH THÀNH KN ĐO LƯỜNG CHO TRẺ 5-6 TUỔI
1.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trên thế giới đã có nhiều nhà Tõm lý học giáo dục nghiên cứu về vai
trò, ý nghĩa của việc hình thành cho trẻ những yếu tố của hoạt động đo đạc
nhằm giúp trẻ xác định kích thước của các vật xung quanh trẻ một cách
chớnh xác hơn.
Ví dụ: Các nhà Giáo dục học Liên Xô cũ, như: A.M. Lêocina, E.I.
Chikhõyeva đã đề xuất đưa nội dung dạy trẻ đo lường vào trong chương
trình hình thành biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non nhằm chuẩn
bị cho trẻ học phép đo đạc ở trường Tiểu học.
Nối tiếp tư tưởng của các nhà Giáo dục học Liên Xô cũ, đã có nhiều

nhà Giáo dục như: B.B. Danhilova, T.D. Rixterman… đã đề xuất nội dung,
phương pháp, phương tiện, hình thức nhằm dạy trẻ mẫu giáo đo lường. Tuy
nhiên các nhà Giáo dục đã đưa ra những ý kiến khác nhau về việc bước đầu
nên dạy trẻ đo đại lượng nào: độ dài, hay thể tích của thể lỏng, thể hột hạt,
thời gian….Những nghiên cứu thực tiễn của họ đã cho thấy rằng: Việc dạy
trẻ đo độ dài của vật là phù hợp với khả năng của trẻ. Những kết quả nghiên
cứu trên đã được phản ánh trong các chương trình GDMN của Liên Xô cũ và
cả chương trình ngày nay. Các nhà Giáo dục trên đã đưa ra phương pháp dạy
trẻ đo lường bằng hành dộng mẫu của giáo viên kết hợp với lời giảng giải, họ
cũng đề xuất các dạng bài tập khác để hình thành và luyện tập KN đo lường
cho trẻ.
Ở Việt Nam, trong giáo trình “Phương pháp hình thành biểu tượng
toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non” của T.S Đỗ Thị Minh Liờn, giáo trình
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
5
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

“Toán và phương pháp hình thành các biểu tượng toán học cho trẻ mẫu giỏo”
của Th.S Đinh Thị Nhung và “Sách bồi dưỡng giáo viên” của tác giả Đào
Như Trang đã có những định hướng chung cách thức dạy trẻ phép đo lường,
cụ thể hoá phương pháp hình thành KN đo lường vào các đối tượng cụ thể,
trong những điều kiện cụ thể theo Chương trình đổi mới với hướng dạy tích
hợp theo chủ đề, chủ điểm giáo dục. Tuy nhiên, tớnh cho tới thời điểm hiện
nay thì cũn thiếu các công trình và kết quả nghiên cứu cụ thể về các biện
pháp hình thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi. Do đó, chúng tôi lựa chọn đề
tài “Một số biện pháp hình thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi” để nghiên
cứu nhằm nõng cao mức độ hình thành KN đo lường cho trẻ, đồng thời góp
phần làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn về một số biện pháp hình

thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH KN
ĐO LƯỜNG CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI.
1.2.1 Một số khái niệm cơ bản
* Đo
+ Theo từ điển tiếng Việt do Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm chủ biờn
thỡ khái niệm này nghĩa là:
- Tìm giá trị của một đại lượng bằng cách so sánh nó với một đại
lượng cùng loại dùng làm cơ sở so sánh và gọi là đơn vị: Đo độ dài, đo thời
gian, đo nhiệt độ…
- Xác định độ lớn của một đại lượng, một vật bằng các dụng cụ đo
chính xác như đo đất để chia, đo xem ai cao hơn.
- Đo để lấy một đại lượng xác định của vật tính theo chiều dài: đo
2m vải.
* Đo lường
Từ những khi xã hội loài người có trao đổi giao dịch, người ta đã đặt
ra đo lường. Sự đo lường xuất hiện trong hoạt động của con người, những
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
6
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

dụng cụ đo lường đầu tiên xuất hiện căn cứ vào những bộ phận cơ thể con
người như: Gang, ngón tay, bước chân, bàn chõn… Dần dần, khi nền kinh tế
và khoa học kỹ thuật phát triển càng cao thì số lượng và mức độ chính xác
của các dụng cụ đo lường cũng tăng lên rất nhiều. Và đo lường là một vấn đề
rất quan trọng có liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của con người.
Đo lường là việc mô tả định lượng bằng các đơn vị đo, bao gồm số
lượng, trọng lượng, khoảng cách, thời gian, nhiệt độ, âm lượng; những đại

lượng này có thể đo bằng các đơn vị chuẩn hoặc các đơn vị không chuẩn mà
trẻ lựa chọn như: Một vốc, một gang tay, vài bước chõn… Đo lường thường
kéo theo việc sắp xếp các đối tượng theo trật tự phân hạng như tăng dần hoặc
giảm dần của số lượng hay sắc thái.
Mục đích của việc đo lường là để biết kích thước của vật đó là kết
quả của phép đo, kết quả biểu thị bằng chữ số.
Đo lường là hoạt động gồm có quá trình đo và kết quả đo. Kết quả
đo được xác định tuỳ thuộc vào đơn vị đo. Chính vì vậy trước khi thực hiện
quá trình đo phải lựa chọn đơn vị đo phù hợp. Đồng thời khi thông báo kết
quả đo phải nói rõ đơn vị đo. Vì vậy khi nói kết quả đo cần phải gắn số kết
quả với tên gọi của thước đo.
Có hai cách đo:
- Đo trực tiếp: Là phép đo một đại lượng vật lý nào đó mà không
cần thông qua một đại lượng trung gian khác.
- Đo gián tiếp: Là phép đo một đại lượng mà cần sử dụng một đại
lượng trung gian khác.
Hiện nay, trẻ MGL có thể nắm được một vài dạng đo bằng các dụng
cụ đo khác nhau, các dụng cụ đo này phụ thuộc vào đặc điểm của vật để đo
- Dạng đo thứ nhất: Đo độ dài - trẻ đo các chiều đo kích thước như:
đo chiều dài, chiều rộng, chiều cao của vật bằng các đơn vị đo
khác nhau như: Que tính, băng giấy, bước chân, gang tay…
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
7
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

- Dạng đo thứ hai: Đo thể tích như đong số lượng nước trong
chậu, số lượng gạo, cát trong hộp bằng ca, cốc…
Ở lớp MGL, trên giờ học trẻ được học đo theo dạng đo thứ nhất, còn

dạng đo thứ hai trẻ chỉ được làm quen ở hoạt động khác như: Trong hoạt
động ngoài trời, hoặc ở góc khám phá khoa học trong hoạt động vui chơi.
* Kỹ năng và kỹ năng đo lường
+ Kỹ năng: Có nhiều khái niệm khác nhau về kỹ năng
- Theo A.G.Covaliop thì: Kỹ năng là phương thức thực hiện hành
động thích hợp với mục đích và điều kiện hành động.
- Theo N.D.Lờvitụp thì: Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một
động tác nào đó trong một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa
chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những điều
kiện nhất định. Người có kỹ năng hành động là người nắm vững và
vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện hành
động có kết quả. Để hình thành kỹ năng, con người không chỉ nắm
vững lý thuyết về hành động mà phải vận dụng vào thực tế.
- Theo từ điển Văn Học Giáo Dục Việt Nam của GS. Vũ Ngọc
Khánh: “Kỹ năng là loại hành động có ý thức, dựa vào sự hiểu biết
về cách thức tiến hành công việc nào đó. Đó là giai đoạn trung gian
giữa tri thức và kỹ xảo trong quá trình nắm vững một phương thức
hành động. Kỹ năng hình thành do luyện tập hay bắt chước”.
- PGS. Ngô Công Hoàn, GS. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc
Thành trong giáo trình “Tâm Lý Học đại cương “đều cho rằng: Kỹ
năng là một năng lực của con người biết vận dụng các thao tác của
một hành động theo đúng quy trình.
Như vậy, từ những ý kiến trên chúng tôi thấy quan điểm của các tác
giả về kỹ năng theo hai hướng sau:
- Coi kỹ năng như là kỹ thuật của hành động
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
8
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang


- Coi kỹ năng như là năng lực giải quyết vấn đề của con người.
Theo chúng tôi, kỹ năng là khả năng thực hiện có hiệu quả một
hành động trên cơ sở nắm vững phương thức thực hiện và sự vận dụng tri
thức, kinh nghiệm phù hợp với điều kiện hoàn cảnh.
Như vậy, kỹ năng được xem xét nghiêng về năng lực của con
người, kỹ năng theo khuynh hướng này vừa có tính ổn định, vừa có tính
mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, vừa có tính mục đích và được biểu hiện ở một
số dấu hiệu đặc trưng sau:
- Kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác hành động.
- Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động hay một
nhóm hành động dựa trên cơ sở của tri thức, của các điều kiện
và phương tiện phù hợp với mục đích đã xác định.
- Sự hình thành và mức độ phát triển của các kỹ năng được xác định
trên cơ sở của tính chính xác, tính thành thạo, tính linh hoạt và sự
phối hợp nhịp nhàng của các động tác của hành động.
+ Kỹ năng đo lường
KN đo lường là năng lực thực hiện có kết quả hành động xác định
độ lớn của đại lượng bằng các đơn vị đo không chuẩn.
Việc đo các đối tượng bằng các thước đo ước lệ không phải là một
phép tính toán học, điều này xuất phát từ một số nguyên nhân, như: Thứ nhất
- thước đo được lựa chọn một cách ngẫu nhiên phụ thuộc vào tình huống và
các điều kiện cụ thể. Nguyên nhân thứ hai có liên quan với nguyên nhân thứ
nhất – vì đo bằng thước đo ước lệ cho nên việc đánh giá kích thước sẽ kém
chính xác so với việc đo bằng các thước đo chuẩn. Ví dụ: Khi đo chiều dài
đoạn đường bằng bước chân, nhưng chiều dài bước chân lại không đều, nên
kết quả đo sẽ khác nhau ở các lần đo khác nhau.
* Biện pháp
Trong cuộc sống, bất cứ ai cũng phải vận động để tồn tại và phát
triển. Tuy nhiên, có những hành động khi chúng ta thực hiện có thể vượt qua

Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
9
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

một cách dễ dàng nhưng có những hoạt động thì vô cùng khó khăn. Chúng ta
phải xây dựng những biện pháp để làm sao vượt qua được những khó khăn
thử thách trong cuộc sống. Vậy biện pháp là gì?
Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên giải” tác giả
Nguyễn Văn Đạm cho rằng: Biện pháp là cách làm, cách hành động, đối phó
để đi đến một mục đích nhất định.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phi chủ biên thì: Biện pháp là
cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Như vậy nghĩa chung nhất của biện pháp là cách để thực hiện một
công việc cụ thể nào đó nhằm đạt được mục đích đề ra.
+ Biện pháp hình thành KN đo lường cho trẻ 5 – 6 tuổi.
Như chúng ta đã biết, biện pháp là cách thức, cách làm, cách hành
động, đối phó để đi tới mục đích nhất định hay biện pháp là cách giải quyết
vấn đề cụ thể, trước những vấn đề khó khăn của thực tiễn với đối tượng cụ
thể, những khó khăn đã được xác định từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
cải thiện tình hình thực tiễn, giúp giải quyết vấn đề hiện tại được tốt hơn.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu biện pháp hình thành KN đo lường cho
trẻ 5 – 6 tuổi là những cách thức, cách làm được lặp đi lặp lại nhằm hình
thành ở trẻ khả năng thực hiện có hiệu quả hành động đo lường trên cơ sở
nắm vững ý nghĩa của phép đo, biết cách đo lường và biết sử dụng đồ dùng
để thực hiện phép đo cũng như biết vận dụng kỹ năng đo vào các tình huống
khác nhau trong cuộc sống.
Đối với trẻ mầm non, làm quen với toán nói chung và dạy trẻ phép
đo lường nói riêng là một nội dung tương đối khó nhưng lại có một sức hấp

dẫn rất lớn với trẻ. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của cô và sự tích cực hoạt
dộng của bản thân trẻ, đứa trẻ đó tớch luỹ cho mình những kiến thức toán
học sơ đẳng nhất để chuẩn bị vào học ở trường phổ thông.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
10
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

Với giáo viên, để truyền đạt cho trẻ bất cứ một nội dung toán học
nào, người giáo viên cũng phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học.
1.2.2. Đặc điểm mức độ phát triển biểu tượng về kích thước và khả năng
đo lường của trẻ mầm non
Trẻ em nhận biết về kích thước của các vật nhờ có sự tham gia tích
cực của các giác quan mà chủ yếu là thị giác và xúc giác, sau đó dùng ngôn
ngữ để khái quát những nhận biết về kích thước. Nhiều công trình nghiên
cứu đã khẳng định: Trẻ từ một tuổi trở lên mới có khả năng nhận biết kích
thước của vật và nó được tăng lên theo mức độ tích luỹ kinh nghiệm trong
quá trình trẻ hoạt động với đồ vật.
Lên hai tuổi, mặc dù chưa nắm được ngôn ngữ tích cực, nhưng trẻ đã
có những phản ứng không những đối với sự khác nhau về kích thước mà cả
với mối quan hệ kích thước giữa các khách thể. Dấu hiệu kích thước thường
được trẻ lĩnh hội gắn liền vật cụ thể, quen thuộc với trẻ và đối với trẻ đó là
dấu hiệu mang tính tuyệt đối.
Ví dụ: Trẻ thường coi quả bóng của mình là to hơn quả bóng của các
bạn mà không cần tới sự so sánh độ lớn giữa chúng.
Trẻ 3-4 tuổi có thể nhận biết về một chiều kích thước của vật và trẻ
có thể làm đúng theo yêu cầu của người lớn. Tuy nhiên trẻ rất khó để có thể
nắm được tính tương đối của khái niệm kích thước. Hơn nữa trẻ thường
không lựa chọn các vật có kích thước tương ứng với nhau.

Ví dụ: Trẻ rất thích thú được xỏ chân vào chiếc dép của mẹ, hay thích
đặt con gấu to vào chiếc ghế nhỏ…
Trong ngôn ngữ thụ động của trẻ đã bắt đầu có những từ và khái
niệm về các kích thước khác nhau của vật. Song vốn từ của trẻ cũn ớt và trẻ
cũng chưa hiểu được ý nghĩa của danh từ “kích thước”, chưa nắm được biểu
tượng của từng loại kích thước nên trẻ thường trả lời không chính xác về
kích thước của các vật
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
11
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

Ví dụ: Trẻ thường nói: "cây to" thay cho nói “cây cao”, nói “bút chì
to” thay cho nói “bút chì dài”.
Sự tri giác của trẻ ở ba tuổi còn thiếu tính phân định, trẻ thường chỉ
định hướng tới độ lớn chung của vật mà không có sự phân tách từng chiều
đo kích thước của vật, như chiều dài, chiều rộng của vật. Vì vậy khi cô yêu
cầu trẻ “lấy cái ghế cao nhất trong lớp cho cô, trẻ thường lấy ghế to nhất.
Lên 4-5 tuổi, trẻ đã có khả năng phân biệt được kích thước theo 2
chiều của vật khi 2 chiều có sự khác nhau rõ nét về kích thước
Ví dụ: Trẻ dễ dàng xác định chiều cao của vật khi chiều đo đó dài hơn
hẳn so với các chiều đo khác, nhưng trẻ lại rất khó khăn để nhận biết chiều
cao của các vật thấp. Đa số trẻ thường mắc lỗi khi phân tách chiều rộng của
vật. Các lỗi của trẻ xuất phát từ việc trẻ phân tích chưa đỳng cỏc chiều đo của
vật, nên nhiều trẻ nhầm lẫn chiều rộng với chiều dài của vật. Khi xác định
từng chiều đo của vật, trẻ thường dùng đầu ngón tay sờ dọc theo chiều dài,
chiều rộng của vật. Các hành động khảo sát bằng tay kết hợp sự phát triển về
ngôn ngữ đó giỳp trẻ cảm nhận đúng hơn từng biểu tượng kích thước cụ thể
của đối tượng. Phần lớn trẻ 4 tuổi không hiểu được ý nghĩa của danh từ “kích

thước” nên việc diễn đạt các từ chỉ kích thước các vật chưa được chính xác,
khi hỏi trẻ về kích thước của vật nhiều trẻ lại trả lời về màu sắc, số lượng
của chúng.
Để diễn đạt sự thay đổi các thông số kích thước của các vật như
chiều dài, chiều rộng, chiều cao trẻ thường sử dụng các từ to hơn, nhỏ hơn.
Điều đó chứng tỏ trong ngôn ngữ của trẻ thiếu hẳn vốn từ để biểu thị các
thông số kích thước cụ thể. Vì vậy trẻ thường tìm ra từ khác để thay thế.
Cũng để biểu thị sự thay đổi kích thước thì trẻ cũng thường sử dụng
các cụm từ sinh hoạt như: gầy hơn, béo hơn, lớn hơn, nhỏ hơn
Tóm lại, vai trò của lời nói, của ngôn ngữ chính xác có một ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình thụ cảm kích thước của trẻ. Lời nói sẽ tách
những cái tổng quát ra thành những cỏi riờng cụ thể
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
12
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

Do thị lực phát triển hơn và động tác tay thành thạo hơn, trẻ 4-5 tuổi
có khả năng phân biệt kích thước của 2-3 vật có độ chênh lệch nhỏ bằng kỹ
năng so sánh. Khi so sánh, ước lượng bằng mắt về từng biểu tượng kích
thước cụ thể tăng lên.
Vì vậy, trong quá trình cho trẻ làm quen với kích thước, giáo viên
cần tránh sử dụng các từ ngữ sinh hoạt như “lớn”, “bộ” thay cho các từ như
“dài”, “cao”
Khi giao nhiệm vụ cho trẻ cũng cần tránh giao nhiệm vụ một cách
chung chung. Việc sử dụng từ ngữ tuỳ tiện là tiền đề cho việc trẻ nhỏ bắt
chước cách diễn đạt thiếu chính xác. Mặt khác, lời nói còn đóng vai trò tham
gia vào các thao tác nhận biết, nó có tác dụng thúc đẩy sự hình thành những
kỹ năng cần thiết, và việc thực hiện nhiệm vụ của trẻ chỉ dùng lại ở mức độ

dựa trên hệ thống tín hiệu thứ nhất nếu không có sự tham gia của lời nói;
đồng thời cơ sở của sự phát triển tư duy logic khi trẻ vào trường phổ thông
sẽ không được hình thành hoặc hình thành rất khó khăn với lời nói thiếu
chính xác.
Một yếu tố rất quan trọng khác là trẻ mẫu giáo rất khó khăn khi hiểu
mối liên hệ có tính tương đối của kích thước. Các tham số dài- ngắn, rộng-
hẹp là những khái niệm tương đối, chúng chỉ có ý nghĩa trên cơ sở so sánh
kích thước của hai vật. Muốn cho trẻ làm quen với từ” dài”, hoặc “ngắn” thì
trước hết phải cho trẻ làm quen và hiểu ý nghĩa của khái niệm dài hơn hoặc
ngắn hơn. Để làm được việc này, giáo viên phải cho trẻ làm quen với thao
tác so sánh các thông số lên 3, 5 vật Đồng thời, dạy trẻ biết xếp các vật
theo trật tự kích thước tăng dần và giảm dần. Qua đó, giúp trẻ nắm được
tính tương đối của kích thước và có được biểu tượng chính xác về kích
thước.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
13
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

Trẻ 5-6 tuổi có thể đáp ứng được yêu cầu phân biệt ba thông số kích
thước của vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao hay bề dày) và so sánh đồng
thời ba thông số kích thước của hai vật.
Một đặc điểm chung của trẻ ở lứa tuổi này có thể phân biệt rất nhanh
chiều dài và chiều rộng nhưng lại khó khăn khi xác định chiều cao của vật.
Vì vậy, việc dạy trẻ đưa tay khảo sát theo chiều dài, chiều rộng, chiều cao
của vật đóng vai trò quan trọng trong việc xác định kích thước của vật. Đối
với các hình khối có chiều cao thấp thì trẻ 4-5 tuổi cho rằng không có chiều
cao, thì trẻ 5-6 tuổi đã hiểu được đó là bề dày của đồ vật và trẻ cú thờm biểu
tượng dày- mỏng. Ví dụ: Quyển sách này dày hơn quyển sách kia.

Trên cơ sở những kiến thức, kỹ năng phân biệt và so sánh kích
thước, ở trẻ phát triển sự so sánh ước lượng bằng mắt về kích thước của các
vật. Ban đầu trẻ nhỏ tiến hành so sánh kích thước của các vật bằng những
hành động thực tiễn với các biện pháp xếp chồng và xếp cạnh vật này với các
vật khác. Tuy nhiên không phải bất cứ vật nào trẻ cũng so sánh bằng mắt
kích thước của nhiều vật có ở xung quanh trẻ. Sự so sánh kích thước của vật
bằng mắt được hình thành trên cơ sở các thao tác thực tiễn so sánh kích
thước, thị giác dường như chứa đựng và khái quát hoá những biện pháp thao
tác thực tiễn của trẻ.
Qua một số công trình nghiên cứu, người ta nhận thấy rằng: Khả
năng ước lượng kích thước vật thể bằng mắt được phát triển cùng sự phát
triển của lứa tuổi. Trẻ càng lớn thì khả năng ước lượng bằng mắt càng nhanh
chóng và chính xác, điều này thể hiện rõ ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo nhỡ và mẫu
giáo lớn. Vì vậy việc phát triển sự so sánh bằng mắt kích thước đóng một vai
trò và trở thành đối tượng dạy học cho trẻ.
Và một trong những biện pháp dạy trẻ ước lượng bằng mắt là dạy trẻ
sử dụng vật mẫu như một thước đo chuẩn trong quá trình ước lượng bằng
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
14
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

mắt. Đồng thời cần dạy trẻ tự tạo cho mình thước đo và nó sẽ trở thành mắt
xích trực tiếp của sự so sánh.
Chính vì vậy qua nghiên cứu, người ta nhận thấy rằng chỉ trẻ ở tuổi
mẫu giáo mới có đủ điều kiện, đảm bảo các yêu cầu để học phép đo lường
đơn giản. Nhờ sự tác động của giáo dục, trẻ 5-6 tuổi đã có khả năng dùng
thước đo để đánh giá kích thước của vật. Tuy nhiên phương tiện đo không
chính xác, chỉ là “que tớnh”, “băng giấy”… nên trẻ chưa phân biệt được

công cụ đo với đơn vị đo mà con người sử dụng.
Ví dụ: Trẻ có thể hiểu được thước là một thước gỗ, thước dây, và
con người thường sử dụng nó để đo vải trong của hàng, để xây dựng nhưng
trẻ lại không nhận biết được thước là một đơn vị đo lường.
Mặt khác, trẻ lứa tuổi này còn hiểu được mối quan hệ phụ thuộc giữa
“độ lớn” của thước đo với số đo kích thước của vật: “độ lớn” của thước đo
càng nhỏ thì số đo kích thước vật càng lớn. Nhờ vậy, việc xác định kích
thước của vật trở nên chính xác hơn.
Trên đây là những đặc điểm phát triển biểu tượng về kích thước ở trẻ
mầm non, nắm được các đặc điểm này sẽ giúp cho các nhà sư phạm có thể
xây dựng được chương trình hình thành biểu tượng về kích thước đầy đủ,
chính xác, phong phú, phù hợp với đặc điểm phát triển từng lứa tuổi.
1.2.3. Vai trò của việc làm quen trẻ mẫu giáo với kích thước các vật và
hình thành KN đo lường cho trẻ 5-6 tuổi
Việc làm quen trẻ với kích thước và dạy trẻ biện pháp đo lường đơn
giản là một trong những nhiệm vụ giáo dục cảm giác và giáo dục trí tuệ cho
trẻ em lứa tuổi mẫu giáo.
Sự phản ánh kích thước như một dấu hiệu của vật gắn liền với sự tri
giác cảm giác, với sự khảo sát và nhận biết những đặc điểm của chúng.
Trong quá trình này có sự phối hợp hoạt động của các giác quan khác nhau
như: thị giác và xúc giác. Sự nhận biết kích thước vật thể một mặt được thực
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
15
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

hiện trên cơ sở cảm nhận, mặt khác dựa trên tư duy và ngôn ngữ. Việc trẻ tri
giác chính xác kích thước vật thể phụ thuộc vào kinh nghiệm thực hành thao
tác với các vật, và khả năng ước lượng kích thước bằng mắt, vào việc hiểu

lời nói và sự tham gia của các quá trình tư duy, như: phõn tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hoá. Tất cả điều đó đóng vai trò quan trọng đối với việc hình
thành ở trẻ những biểu tượng đầy đủ về thế giới xung quanh.
Sự hình thành ở trẻ mẫu giáo những biểu tượng về kích thước và dạy
trẻ đo lường tạo cơ sở cảm nhận cho việc nắm kích thước như một khái niệm
toán học. Điều đó có ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và sự phát triển biểu
tượng toán học của trẻ mẫu giáo. Các nhà giáo dục nổi tiếng như: G.G Ruxụ,
G.Pestalụsư, K.D Usinxki đánh giá cao vai trò của hoạt động đo đạc trong hệ
thống bậc học tiểu học. Khi quan sát hoạt động của người lớn, trẻ em thường
được tiếp xúc với việc đo đạc, qua đó ở trẻ dần dần hình thành biểu tượng ban
đầu về vai trò của hoạt động đo. Trong các trò chơi đóng vai có chủ đề như:
“Cửa hàng may mặc”, “Cửa hàng thực phẩm” trẻ thường thực hiện các hành
động đo lường, chúng làm phong phú thêm các nội dung trò chơi của trẻ.
Trong các công việc thực tiễn, ở trẻ xuất hiện nhu cầu thực hiện các
thao tác đo đơn giản như: Làm cho hai luống rau dài, rộng bằng nhau, trẻ cần
xếp hàng theo chiều cao để tập thể dục, hay cần xác định công trình xây
dựng nào cao hơn, ai nhảy xa hơn… Trong trường mầm non và trong gia
đình thường xuyên diễn ra những tình huống đòi hỏi trẻ phải có kỹ năng đo
đơn giản. Trẻ nắm chúng càng tốt thì hành động càng đem lại kết quả. Trong
các hoạt động học tập trẻ nắm những kỹ năng này càng tốt thì trẻ càng có
điều kiện để sử dụng chúng vào các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày,
như: Chắp ghộp, xộ dỏn, lao động. Sự hình thành những yếu tố của hoạt
động đo đạc đơn giản ở lứa tuổi mầm non tạo cơ sở cho sự hình thành những
kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống lao động sau này của trẻ.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
16
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang


Như vậy, hoạt động thực tiễn, hoạt động vui chơi của trẻ và hoạt
động lao động của người lớn là cơ sở để làm quen trẻ với những biện pháp
đo đạc đơn giản. Khi đo trẻ sẽ phân biệt chính xác hơn các chiều đo kích
thước như: Chiều dài, chiều rộng, chiều cao, độ lớn của vật. Khi sử dụng các
thước đo ước lệ trẻ sẽ xác định và nhận biết được một số tính chất của các
vật. Khi lựa chọn các thước đo trẻ cần nắm được đặc điểm của các vật để
chọn cho phù hợp, vì vậy mà sự nhận biết đặc điểm cũng như đặc trưng số
lượng của chúng ở trẻ càng được đầy đủ.
Việc trẻ nắm biện pháp đo lường đơn giản còn góp phần hoàn thiện khả
năng đánh giá kích thước bằng mắt của trẻ. Sự ước lượng kích thước là cơ sở
của nhiều kỹ năng, kỹ xảo cần thiết của nhiều ngành. Khả năng này được phát
triển thông qua hệ thống các bài luyện tập được trẻ thực hiện trong các hoạt
động học tập và các hoạt động khỏc. Cỏc thao tác đo giúp trẻ giải quyết các
nhiệm vụ ước lượng kích thước đơn giản, tạo khả năng giúp trẻ đánh giá chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của vật chính xác hơn. Sự kết hợp giữa hoạt động lý
thuyết và thực tiễn khi trẻ học đo lường sẽ giúp phát triển các hình thức tư duy
của trẻ. Đặc biệt việc học đo cũn giỳp trẻ học cách hình dung trước kết quả đo
tương ứng với độ dài của thước đo, khi đo trẻ thường hỏi “Nếu đo bằng thước
đo khỏc thỡ kết quả sẽ thế nào?”, “Nếu đo chiều dài quãng đường bằng thước
dài ngắn khác nhau thì số kết quả đo sẽ như thế nào?”. Khi đã có kinh nghiệm
đo, trẻ sẽ có thể trao đổi về việc đo và từ đó trẻ dự đoán được kết quả đo…
Trong quá trình diễn ra hoạt động đo, kỹ năng hành động theo sự hình dung, kỹ
năng đưa ra dự đoán và kiểm tra nó của trẻ được phát triển.
Các biện pháp và kết quả đo, các mối quan hệ và liên hệ được phản
ánh bằng lời nói. Giáo viên tạo ra các tình huống để trẻ cần chứng minh
những suy luận của mình, như “Tại sao con lại nghĩ như vậy?”, “Hóy kiểm
tra và nói cho cô biết bạn nói như vậy cú đỳng khụng?”. Trong những tình
huống đó, những suy luận của trẻ trở nên có logic và trở nên đầy đủ hơn.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội

17
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

Như vậy các quá trình cảm nhận, tư duy và ngôn ngữ trở nên gắn bó chặt chẽ
với nhau.
Việc nắm được biện pháp đo ở lứa tuổi mầm non có ảnh hưởng tới
sự xuất hiện những yếu tố của hoạt động học tập. Trẻ học cách nắm được
mục đích của hoạt động, tuân theo luật, nắm được tính chất và trình tự diễn
ra các thao tác, biết giải quyết nhiệm vụ thực tiễn và học tập một cách đồng
thời. Việc học đo còn dạy trẻ thực hiện nhiệm vụ được giao một cách chính
xác và cẩn thận. Trong trường mầm non, hoạt động đo có tính chất đơn giản
nhưng nó bổ ích đối với việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển và củng cố
những biểu tượng toán học cho trẻ, nó giỳp trẻ nhận biết các mối liên hệ,
quan hệ và sự phụ thuộc toán học dưới hình thức phù hợp. Trên cơ sở của
việc học đo mà trẻ nắm được chức năng mới của các con số, điều đó có tác
dụng mở rộng và làm sâu sắc hơn biểu tượng về con số cho trẻ.
Quá trình đo không chỉ làm phong phú hơn những biểu tượng về số
lượng mà cả những biểu tượng về không gian của trẻ. Ví dụ: Giáo viên giao
nhiệm vụ cho trẻ “Từ một băng vải dài trẻ cần tạo ra một số chiếc nơ ngắn”,
trẻ có thể giải quyết nhiệm vụ này như sau: Đầu tiên trẻ xác định cần thu
được bao nhiêu chiếc nơ ngắn, tiếp theo trẻ dùng thước đo có chiều dài bằng
chiều dài nơ để đo băng vải và chia nó thành các phần để tạo thành những
chiếc nơ. Để thực hiện nhiệm vụ này trẻ cần thiết lập sự tương ứng về số
lượng và không gian giữa các đối tượng. Trẻ nhỏ dễ dàng hiểu mối liên hệ
qua lại này qua hoạt động thực tiễn. Việc củng cố kỹ năng phân tích chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của vật, đánh giá kích thước của chúng bằng các
thước đo ước lệ sẽ giúp trẻ hiểu được tính chất không gian ba chiều, phát
triển ở trẻ biểu tượng về thể tích.
Có thể sử dụng việc đo lường để củng cố những biểu tượng về cỏc

hỡnh hình học cho trẻ. Bằng các thước đo ước lệ mà trẻ thấy được sự bằng
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
18
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

nhau và không bằng nhau về độ dài các cạnh hình tam giác, hình chữ nhật,
hình vuông và cỏc hỡnh hình học khác.
Trên cơ sở đo giáo viên có điều kiện làm quen trẻ với mối quan hệ
giữa tổng thể và bộ phận, sự bằng nhau và không bằng nhau, với tính chất
bắc cầu của các mối quan hệ toán học, với các dạng phụ thuộc đơn giản. Các
nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng, sự lĩnh hội những nội dung này có ảnh
hưởng tới sự phát triển toán học nói riêng và sự phát triển trí tuệ nói chung
của trẻ mầm non.
Việc dạy trẻ phép đo sẽ chuẩn bị giúp trẻ nắm được các phép tính đại
số: Cộng trừ, nhân, chia. Các bài luyện tập đo là các cơ hội để trẻ thu được
các con số kết quả, các con số đó lại được sử dụng để trẻ đặt và giải quyết
các nhiệm vụ khác nhau.
Việc đo các đối tượng bằng các thước đo ước lệ khác nhau giúp trẻ
làm quen với các đơn vị đo được quy định mà trẻ sẽ lĩnh hội ở trường phổ
thông. Đổi mới giáo dục phổ thông ngày nay đòi hỏi phải tạo ra sự kế thừa
trong nội dung và phương pháp dạy đo cho trẻ mẫu giáo và học sinh tiểu
học.
Hoạt động đo ở trường mẫu giáo và sẽ được tiếp tục ở trường phổ
thông hướng tới sự hình thành những biểu tượng về không gian, sự phát triển
khả năng ước lượng kích thước. Như vậy hoạt động này đóng vai trò dạy học
và giáo dục trong trường mầm non và trường phổ thông. Xu hướng chung là
xem xét hoạt động đo như một phương tiện giáo dục trí tuệ và toán học cho
trẻ, khả năng này được sử dụng rộng rãi nhằm hình thành những biểu tượng

và khái niệm toán học, nhằm giải quyết các nhiệm vụ thực hành và sinh hoạt
trong cuộc sống.
Trong trường mầm non việc dạy trẻ đo chỉ hạn chế bằng các thước
đo ước lệ. Biểu tượng về kích thước của trẻ mầm non có tính cụ thể hơn so
với biểu tượng này ở trẻ phổ thông. Tuy nhiên việc trẻ học đo bằng các
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
19
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

thước đo ước lệ ở trường mầm non sẽ giúp trẻ lĩnh hội nhanh và dễ dàng hơn
đơn vị đo đạc đầu tiên của hệ thống các thước đo, nắm mối quan hệ giữa
chúng, nắm các biện pháp đo mới và phức tạp hơn, làm phong phú hơn biểu
tượng về kích thước cho trẻ.
1.2.4. Đặc thù của quá trình hình thành KN đo lường cho trẻ mẫu giáo
• Quá trình hình thành KN đo lường gắn liền với quá trình phát triển
của trẻ.
Việc dạy trẻ mẫu giáo phép đo lường gắn liền với việc hình thành ở
trẻ những biểu tượng toán học sơ đẳng. Đầu tiên là biểu tượng “Kớch
thước”. Trẻ mầm non luôn tiếp xúc với các khía cạnh khác nhau của hiện
thực, chỳng giỳp hình thành ở trẻ những biểu tượng cụ thể về các đại lượng
như: chiều dài, chiều rộng, chiều cao, bề rộng, khối lượng.
Sự hình thành ở trẻ mầm non những biểu tượng về các chiều đo kích
thước có tác dụng phát triển các kỹ năng định hướng các dấu hiệu không
gian của các vật. Các kỹ năng này bao gồm: kỹ năng nhận biết và gọi tên
chiều dài, chiều rộng, chiều cao của các vật, kỹ năng xác định kích thước của
chúng. Biểu tượng ban đầu về kích thước này là khởi đầu để tạo nên cơ sở
cảm nhận cho sự hình thành những khái niệm khoa học sau này.
Quá trình dạy trẻ đo giúp trẻ nắm những tớnh chất cơ bản của kích

thước, nhờ vậy biểu tượng kích thước của trẻ trở nên đầy đủ và sõu sắc hơn.
Kích thước của vật chỉ có thể xác định trên cơ sở so sánh, vì vậy tính so sánh
là một trong những tính chất cơ bản của kích thước. Nhờ so sánh mà có thể
hiểu được các mối quan hệ và các khái niệm mới như: to hơn - nhỏ hơn,
bằng nhau, dài hơn - ngắn hơn, rộng hơn - hẹp hơn…
Kích thước được đặc trưng bởi tính thay đổi. Ví dụ như: Sự thay đổi
chiều dài của cái bàn chỉ làm thay đổi kích thước của chúng mà không làm
thay đổi nội dung và tính chất của nó – cái bàn vẫn là cái bàn.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
20
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

Tính chất thứ ba của kích thước – tính tương đổi. Cũng chỉ một vật
đó nhưng nó có thể được coi là to hay nhỏ phụ thuộc vào kích thước của vật
được so sánh với nó.
Tính so sánh, tính thay đổi, tính tương đối là những tính chất cơ bản
của kích thước. Những tính chất này được trẻ mầm non nhận biết dưới hình
thức cụ thể nhất, thông qua các thao tác với các đồ vật, đồ chơi có kích thước
khác nhau, trong quá trình trẻ phân tích, so sánh và đo lường chiều dài, chiều
rộng, chiều cao và độ lớn của vật.
Trong quá trình đo lường các đối tượng khác nhau sự tri giác kích
thước các vật của trẻ càng tăng lên. Điều đó góp phần giúp trẻ nhận biết kích
thước của vạt càng chớnh xác, đầy đủ nhờ vậy mà kết quả so sánh, đo lường
của trẻ cũng chớnh xác hơn. Điều đó cũn góp phần hình thành và phát triển ở
trẻ các thao tác tư duy như: phõn tích, tổng hợp (trẻ phõn tích từng chiều đo
kích thước, phõn tích từng đoạn thước đo…), tổng hợp (trẻ tổng hợp các
chiều đo kích thước để có biểu tượng chớnh xác về kích thước của vật, tổng
hợp số lần đo để có biểu tượng về kết quả đo…), so sánh (dựa trên kết quả

đo mà trẻ so sánh độ dài của các đối tượng từ đó có biểu tượng chớnh xác về
mối quan hệ kích thước giữa 2 đối tượng, 3 đối tượng…). Quá trình tham gia
các hoạt động đo lường cũn gắn liền với quá trình phát triển ngôn ngữ cho
trẻ như: trẻ nắm được các thuật ngữ toán học (chiều dài, chiều rộng, chiều
cao, độ lớn, bề rộng, dài hơn- ngắn hơn, rộng hơn- hẹp hơn….) và biết phản
ánh bằng lời nói mạch lạc kết quả đo lường (băng giấy màu xanh bằng 5 lần
chiều dài thước đo, nước trong bình bằng 6 cốc…).
Hoạt động đo sẽ được lĩnh hội khi nắm được các kỹ năng chuyên
biệt, chúng sẽ trở thành kỹ xảo khi thường xuyên được ôn luyện. Trẻ sẽ nắm
được các kỹ năng đo dưới sự hướng dẫn của người lớn.
Việc sử dụng các thước đo ước lệ làm cho việc đo trở nên vừa sức
trẻ nhỏ. Trong cuộc sống con người thường đo chiều dài căn phòng bằng
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
21
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

bước chân, đong số lượng gạo bằng ống bơ, bỏt…, đong sữa bằng cốc. Phụ
thuộc vào tính chất của đối tượng đo mà con người lựa chọn thước đo ước lệ,
ví dụ: đo chiều dài chiếc nơ bằng băng giấy, đo lượng nước bằng cốc, ca,
chén. Hoạt động đo giúp trẻ mầm non hiểu rằng giữa thước đo ước lệ và đối
tượng đo có điểm chung: thước đo cần phù hợp với đối tượng đo, phải có
cùng tính chất. Sự thông ước giữa tính chất của thước đo và đối tượng đo là
điều kiện cần thiết để thực hiện quá trình đo.
• Quá trình hình thành KN đo lường cho trẻ gắn liền với quá trình
hoạt động của trẻ.
Quá trình đo lường đòi hỏi phải xác định cụ thể đối tượng đo: chiều
dài, chiều rộng hay chiều cao và cần tiến hành phép đo bằng hành động với
thước đo theo quy đinh, nắm kết quả đo như mối quan hệ giữa đối tượng đo

với thước đo. Như vậy, việc đo lường diễn ra trên cơ sở của sự kết hợp giữa
các thao tác thực hành và thao tác trí tuệ, từ đó hình thành những kỹ năng
tương ứng. Hoạt động đo gắn chặt với hoạt động đếm. Hoạt động yếu kém
của tay trẻ, việc không biết phối hợp giữa việc đo và đếm là nguyên nhân
dẫn đến những lỗi của trẻ trong quá trình đo. Tuy nhiên trong điều kiện hoạt
động học có định hướng trẻ sẽ nắm được biện pháp đo và hiểu bản chất của
hoạt động này dưới hình thức cụ thể.
Quá trình tổ chức cho trẻ thực hành luyện tập đo các đối tượng khác
bằng các thước đo khác nhau sẽ giúp hình thành kỹ năng đo bền vững cho
trẻ, kỹ năng phối hợp giữa phép đếm và phép đo, kỹ năng khái quát kết quả
đo bằng lời nói và con số.
Các hoạt động khác của trẻ diễn ra trong trường mầm non như: tạo
hình, thể dục, vui chơi, lao động… là những điều kiện để trẻ ứng dụng kiến
thức, KN đo lường vào việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau trong hoạt
động. Việc ứng dụng càng thường xuyên thì KN đo của trẻ càng trở nên
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
22
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

chớnh xác, bền vững và linh hoạt, sự hình thành KN đo lường ở trẻ càng
tăng lên ở mức độ cao. Vì vậy việc tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động
thực tiễn trong trường mầm non sẽ có tác dụng hình thành kiến thức, KN đo
bền vững cho trẻ.
• Quá trình hình thành KN đo lường diễn ra từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp
Trong trường mầm non trẻ cần nắm được một số dạng đo lường.
Dạng đầu tiên là đo độ dài, khi đó trẻ dựng cỏc vật như: băng giấy, que, đoạn
dây, bước chõn… để học đo chiều dài, chiều rộng, chiều cao của các vật

khác nhau. Dạng đo thứ hai – đo thể tích các vật ở thể hột, hạt bằng các
thước đo ước lệ như: ca, ống bơ, thỡa… để xác định số lượng bột gạo,
đường, thóc. Dạng đo thứ 3 – đo thể lỏng để biết lượng sữa, nước có trong
bình, trong xụ… Tiếp theo có thể chỉ cho trẻ thấy khả năng xác định bề rộng
tờ giấy, tấm bìa bằng cỏc ụ kẻ hay các hình vuông ở trên chúng.
Trong các dạng đo lường trên, một số nhà giáo dục cho rằng đầu tiên
nên dạy trẻ đo độ dài, số khác lại cho rằng ban đầu cần dạy trẻ đo thể lỏng và
thể hột hạt. Bản chất của phép đo lường là một trong tất cả các trường hợp
mặc dù đối tượng và phương tiện đo là khác nhau. Tuy nhiên trong hoạt
động thực tiễn trẻ thường phải đo độ dài các vật, hơn nữa ở trường phổ thông
đầu tiên trẻ được học đo độ dài của đoạn thẳng, vì vậy ban đầu nên dạy trẻ
mầm non đo độ dài của các vật, hơn nữa đây là dạng đo mà trẻ dễ tiếp thu và
thực hành đo. Tiếp theo trẻ mới làm quen với các dạng đo thể hột, hạt, thể
lỏng …ở mọi lúc , mọi nơi.
Để hình thành KN đo lường cho trẻ từ mức độ thấp lên mức độ cao
thì các bài cho trẻ thực hành đo phải được sắp xếp từ dễ đến khó. Từ bài tập
tái tạo tới bài tập sáng tạo. Từ các bài tập đo các đối tượng là những vật cứng
(bằng bỡa, cái bẳng, giá đồ chơi, cái bàn) tới việc đo các vật mềm đòi hỏi
KN đo chớnh xác hơn (đo chiều dài cái nơ, quần, áo…), có thể đo bằng các
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
23
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

thước đo dễ dàng thao tác (que tớnh, bỡa cứng ) tới những thước đo khó
thao tác như đoạn dõy, bước chõn, gang tay… Việc sử dụng đa dạng các bài
tập đo cùng với thước đo từ dễ đến khó gáp phần phát triển KN đo lường cho
trẻ từ thấp lờn cao.
Việc sử dụng thước đo trong quá trình đo giúp thiết lập chính xác

mối quan hệ “Bằng nhau – không bằng nhau”, “Tổng thể - bộ phận”, nó giỳp
nhận biết đầy đủ và sâu sắc hơn những tính chất của chúng.
Việc đo lường tạo kiều kiện để làm quen trẻ mầm non với một số
dạng đơn giản của sự phụ thuộc. Tất cả những biểu tượng được hình thành ở
trẻ trong quá trình đo gắn bó chặt chẽ với nhau. Việc học đo giúp trẻ nắm
được những khái niệm toán học.
• Quá trình hình thành KN đo lường gắn liền với việc phát huy tính
tích cực nhận thức của trẻ.
Muốn nắm được KN đo lường cho trẻ cần tích cực lắng nghe giáo viên,
dõi theo hành động mẫu của giáo viên, tích cực ghi nhớ trình tự các thao tác
trong hành động đo, tích cực tái hiện lại trình tự đó một cách chính xác để có
kết quả đo đúng và trên cơ sở đó trẻ hình thành KN đo lường sơ đẳng.
Từ KN đo lường sơ đẳng- thấp để có KN đo lường tăng lên ở mức
độ cao: chớnh xác, thành thạo, điều này đòi hỏi trẻ cần tích cực tham gia
thực hành luyện tập đo với các bài tập đo cùng với các thước đo đa dạng.
KN đo lường của trẻ chỉ trở nên linh hoạt khi trẻ tích cực ứng dụng
nó vào các dạng hoạt động khác nhau, các tình huống phong phú của cuộc
sống để giải quyết các nhiệm vụ khác trong cuộc sống hàng ngày.
Từ nhận định trên cho ta thấy rằng: muốn phát huy tình tích cực
nhận thức cho trẻ trong quá trình hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ, giáo
viên phải luôn quan tõm tới việc tạo ra những tình huống, những hoàn cảnh,
những trò chơi học tập sao cho hấp dẫn, làm cho trẻ hứng thú và từ đó giúp
trẻ giảm đi sự căng thẳng, sự mệt mỏi khi giải quyết các nhiệm vụ đo lường
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
24
Khóa luận tốt nghiệp Bạch Thị Thu
Trang

do giáo viên đưa ra, làm cho việc nắm tri thức của trẻ trở nên thoải mái, dễ

dàng hơn và thuận lợi hơn, có hiệu quả hơn.
Trong quá trình đo lường, trẻ càng tích cực hoạt động thì hiệu quả
của việc hình thành KN đo lường sẽ càng hiệu quả bấy nhiêu. Với những
tình huống, những trò chơi đo lường hấp dẫn do cô đưa ra, trẻ trở nên hăng
hái, năng động và tự lập tỡm kiếm, lựa chọn phương thức giải quyết nhiệm
vụ đo lường do cô đã đặt ra, trẻ sẽ trở nên tập trung, cố gắng tự mình giải
quyết những tình huống nảy sinh, tự kiểm tra kết quả trong hoạt động đo
lường của mình.
1.2.5. Quy trình hình thành kỹ năng đo lường cho trẻ.
Kỹ năng đo lường là một trong những kỹ năng nhận thức của con
người cũng như của trẻ mầm non. KN đo lường cũng như bất cứ kỹ năng
nhận thức nào khỏc, nó cũng được hình thành dần theo các giai đoạn
+ Các giai đoạn hình thành KN đo lường: Gồm 4 giai đoạn:
• Giai đoạn 1: Giai đoạn nhận thức.
Trong giai đoạn này trẻ có kiến thức về hành động như mục đích,
đối tượng, cách thức và điều kiện hành động. Ở giai đoạn này trẻ cần nắm
được ý nghĩa của việc đo lường trong cuộc sống cũng như ý nghĩa của nó đối
với việc học đo đạc ở trường tiểu học, bước đầu nắm được đối tượng đo,
thước đo và bước đầu hình dung được cách thức đo.
Giai đoạn này có ý nghĩa khá quan trọng, mang tính chất định
hướng cho hành động đo lường của trẻ.
• Giai đoạn 2: Giai đoạn hình thành kỹ năng đo lường sơ đẳng
Sau khi có sự hướng dẫn và làm mẫu của người có kỹ năng đo
lường cao hơn, trẻ bắt đầu hành động, trẻ có thể hành động thử trên cơ sở đã
nhận thức đầy đủ mục đích, đối tượng, cách thức và điều kiện đo lường.
Trong giai đoạn này trẻ còn sai sót, đo thiếu chính xác, thao tác còn lúng
túng và kết quả đo thường không chính xác.
Líp: K55 - Khoa Giáo dục Mầm non Trường ĐHSP
Hà Nội
25

×