Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận văn thạc sĩ nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đến nền kinh tế các nước đang phát triển ở châu á sử dụng mô hình vector tự hồi quy theo dữ liệu bảng (PVAR)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN VĂN ĐẠT

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN NỀN KINH TẾ
CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á: SỬ
DỤNG MÔ HÌNH VECTOR TỰ HỒI QUY
THEO DỮ LIỆU BẢNG ( PVAR)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN VĂN ĐẠT

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN NỀN KINH TẾ
CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á: SỬ
DỤNG MÔ HÌNH VECTOR TỰ HỒI QUY
THEO DỮ LIỆU BẢNG ( PVAR)

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. DIỆP GIA LUẬT

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015





DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT

CSTK

Chính sách tài khóa

CSTT

Chính sách tiền tệ

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GOVS

Chi tiêu chính phủ

FED

Lãi suất Quỹ liên bang của FED


IMF

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

IRT

Lãi suất danh nghĩa

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NSNN

Ngân sách Nhà nước

PRICE

Chỉ số giảm phát theo GDP

M2

Tốc độ tăng trưởng cung tiền M2

WB


Ngân hàng thế giới


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tóm tắt nội dung quản lý cầu của chính phủ .................................................. 17
Bảng 3.1: Danh sách các quốc gia trong bài nghiên cứu.............. .................................. 44
Bảng 3.2: Tổng hợp các biến sử dụng trong bài nghiên cứu ............................. ............. 45
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong bài nghiên cứu ............ .................................. 50
Bảng 4.2: Ma trận tương quan các biến trong bài nghiên cứu…………… ...... ………..51
Bảng 4.3: Kết quả kiểm định tính dừng các biến trong bài nghiên cứu .......................... 52
Bảng 4.4: Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu................................................................ ........ 53
Bảng 4.5: Kết quả kiểm định tự tương quan theo kiểm định LM đối với mô hình
VAR độ trễ 3.…………… ................................................................................ ………..55
Bảng 4.6: Kết quả phân rã phương sai mà cú sốc GOVS đóng góp vào các biến còn lại
......................................................................... ............................................................... 63
Bảng 4.7: Kết quả phân rã phương sai mà cú sốc IRT đóng góp vào các biến còn lại
................................................................................................................................ …….65


DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Mô hình đường IS - LM .................................................................. ............... 34
Hình 4.1: Kết quả kiểm định vòng tròn đơn vị đối với mô hình Var độ trễ 3 ................. 54
Hình 4.2: Kết quả hàm phản ứng đẩy của cú sốc IRT đến các biến còn lại ........... ........ 58
Hình 4.3: Kết quả hàm phản ứng đẩy của cú sốc GOVS đến các biến còn lại………....61


1


CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Nghiên cứu về tác động của chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa
(CSTK) lên nền kinh tế luôn là một đề tài rất thú vị và quan trọng, được nhiều nhà kinh
tế học cũng như các nhà hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt là ở các
quốc gia có nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á, vai trò của CSTT và CSTK lại càng
trở nên quan trọng trong việc điều hành kinh tế vĩ mô quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay
vẫn còn khá nhiều quan điểm trái chiều về vai trò và tác động của các chính sách này
đối với nền kinh tế, công cụ nào sẽ hữu hiệu hơn trong việc đảm bảo mục tiêu ổn định
và tăng trưởng của nền kinh tế, và những tranh luận khác về sự cần thiết của việc phối
hợp linh hoạt hai công cụ chính sách này. Mặc dù hiệu quả tương đối của hai chính
sách này đã được nghiên cứu rộng rãi trong nhiều tài liệu, nhưng đến nay các nghiên
cứu lý thuyết và thực nghiệm vẫn chưa thể dẫn tới kết luận thống nhất về mối tương
quan giữa CSTK và CSTT trong việc tác động đến sự phát triển kinh tế, các cuộc tranh
luận vẫn còn tiếp diễn.
Một số nhà kinh tế cho rằng nên sử dụng CSTT và kết luận rằng CSTT có tác
động mạnh đến nền kinh tế và nó cũng chi phối CSTK trong quá trình tác động lên
tăng trưởng và đầu tư. Một số nhà kinh tế khác lại kết luận rằng CSTK có tác dụng hữu
hiệu trong điều hành kinh tế. Trong khi đó, quan điểm phối hợp linh hoạt hai công cụ
chính sách này để điều hành kinh tế quốc gia lại được nhiều nhà kinh tế ủng hộ.
Về thực tiễn, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng sâu
rộng đến hầu hết các quốc gia trên thế giới, gây ra những tổn thất vô cùng to lớn đối
với nền kinh tế thế giới nói chung và các nước đang phát triển ở Châu Á nói riêng:
GDP toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng, tình hình thất nghiệp gia tăng dẫn đến nhiều vấn


2
nạn xã hội nguy hiểm khác. Chính phủ các nước đứng trước thử thách phải điều hành

nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, đưa ra những biện pháp kích cầu kinh tế giúp quốc
gia ổn định tăng trưởng, tạo việc làm cho người dân, đồng thời cần lựa chọn được
những phương thức điều hành kinh tế vĩ mô phù hợp, tránh những cuộc khủng hoảng
kinh tế tài chính tương tự có thể xảy ra. Do đó, việc lựa chọn sử dụng và phối hợp sao
cho hiệu quả giữa CSTK và CSTT ngày càng trở nên cấp bách hơn.
Nhiều nhà kinh tế cũng cho rằng nên kết hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa CSTT
và CSTK để điều hành kinh tế vĩ mô thì sẽ đem lại hiệu quả tối ưu hơn, song việc kết
hợp này cần dựa trên tìm hiểu về cơ chế tác động của từng chính sách lên nền kinh tế
và sự tương quan giữa các chính sách với nhau.
Từ những thực trạng trên, việc nghiên cứu về định tính và định lượng tác động
của CSTK và CSTT góp phần quan trọng trong phát triển lý thuyết kinh tế học nói
riêng và đưa ra cơ sở khoa học kinh tế cho những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả các
chính sách điều hành nền kinh tế Việt Nam nói chung. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài
“ Nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đến nền kinh
tế các nƣớc đang phát triển ở Châu Á: Sử dụng mô hình Vector tự hồi quy theo
dữ liệu bảng (PVAR)” để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ.
Bài nghiên cứu sẽ đóng góp bằng chứng thực nghiệm về tác động của CSTK và
CSTT tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á, là những quốc gia có nền kinh tế đang
có sự phát triển mạnh mẽ ở khu vực, có nhiều nét khá tương đồng về kinh tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu tìm hiểu xu hướng và mức độ tác động của
CSTT và CSTK đến các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế các nước đang phát triển ở Châu
Á trong ngắn hạn và dài hạn. Đề tài cũng so sánh sự hiệu quả của mỗi chính sách, đánh
giá chính sách nào sẽ hữu hiệu hơn trong điều tiết kinh tế, đảm bảo các mục tiêu tăng
trưởng phát triển kinh tế. Từ đó, đề xuất các khuyến nghị trong xây dựng và điều hành
chính sách tài chính và chính sách tiền tệ hiệu quả hơn trong điều hành kinh tế ở Việt
Nam. Dựa trên quá trình nghiên cứu tìm hiểu các tác động của chính sách tài khóa và


3

chính sách tiền tệ, nhằm giải quyết được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, bài nghiên
cứu tập trung lần lượt trả lời các câu hỏi sau:
 Hiệu quả tác động của cú sốc chính sách tiền tệ (thông qua lãi suất danh nghĩa
và sốc chính sách tài khóa ( thông qua chi tiêu chính phủ) đến nền kinh tế như
thế nào?
 Chính sách nào sẽ có tác động quan trọng hơn, hiệu quả hơn đến nền kinh tế?
 Sự lan truyền, tác động tương quan giữa CSTK và CSTT như thế nào?
1.3 Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng nghiên cứu định lượng để kiểm tra tác động của CSTT và CSTK
lên các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế. Kết hợp việc tóm tắt, hệ thống các lý luận kinh tế
học về CSTT và CSTK để làm nền tảng lý thuyết cho bài nghiên cứu.
Tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu với giả định là tăng trưởng kinh tế, lạm
phát chịu ảnh hưởng của các biến số vĩ mô như: Lãi suất, chi tiêu chính phủ, cung tiền
và ngoài ra còn ảnh hưởng lãi suất ngân hàng trung ương của Mỹ .
Sử dụng mô hình tự hồi quy vecto theo dữ liệu bảng

Đầu tiên kiểm định tính dừng của các biến bằng và chạy mô hình VAR với các
bậc dừng tìm thấy. Tiếp theo, đề tài tìm độ trễ tối ưu cho mô hình VAR dựa vào các
tiêu chuẩn như LR, AIC và xem xét vòng tròn đơn vị và tương quan của từng độ trễ.
Sau khi có độ trễ phù hợp, tác giả chạy mô hình VAR với độ trễ đó. Từ mô hình VAR
cho ra kết quả hàm phản ứng đẩy và tiến hành kiểm định phân rã phương sai.
.Bài nghiên cứu sẽ tiến hành kiểm định tác động của chính sách tiền tệ, sau đó là
chính sách tài khóa. Đồng thời tìm hiểu tác động lan truyền giữa hai chính sách trong
quá trình tác động đến nền kinh tế.


4
1.4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Phân tích các biến số vĩ mô của nền, các công cụ điều
hành chính sách kinh tế bao gồm tăng trưởng kinh tế, tổng chi tiêu của Chính phủ ( đại

diện cho Chính sách tài khóa), lãi suất ngân hàng trung ương (đại diện cho Chính sách
tiền tệ), xác nhận về sự tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tại các
quốc gia đang phát triển ở châu Á.
Phạm vi nghiên cứu: Được thực hiện thông qua phân tích dữ liệu năm tại 12
quốc gia đang phát triển ở Châu Á (Việt Nam, Philippin, Jordan, Indonesia, Malaysia,
Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Sri Lanka, Lebanon, Bahrain, Trung Quốc, Bangladesh) trong
giai đoạn từ 1990 – 2014.
1.5 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Hiện nay ở Việt Nam đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về tác động của chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa, trong đó đa phần là các nghiên cứu lý thuyết mang
tính chất tổng hợp, phân tích và đánh giá, vẫn còn chưa nhiều các nghiên cứu thực
nghiệm dựa trên các số liệu thực tế để đánh giá tác động của hai chính sách vĩ mô này.
Bài nghiên cứu sẽ thực hiện những nghiên cứu thực nghiệm tác động của CSTK và
CSTT, cũng như kiểm định mối tương quan giữa giữa hai loại hình chính sách này,
đóng góp nghiên cứu thực tế vào những cuộc tranh luận về hiệu quả sử dụng của các
công cụ chính sách này. Bằng việc sử dụng mô hình PVAR, một dạng mô hình định
lượng đang ngày càng được sử dụng nhiều trong phân tích kinh tế tài chính, từ đó góp
phần đa dạng các hướng phát triển nghiên cứu tài chính, bổ sung những phương pháp
nghiên cứu định lượng mới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đưa ra những cơ sở thực nghiệm khoa học là căn
cứ để vận dụng hiệu quả hơn các chính sách vĩ mô trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế Việt Nam trong thời gian tới.


5
1.6 Cấu trúc bài viết gồm năm phần chính:
Chƣơng 1: Giới thiệu nghiên cứu:
Chƣơng 2: Cơ sở lý luận và các nghiên cứu có liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
Chƣơng 3: Trình bày phương pháp nghiên cứu và mẫu dữ liệu.
Chƣơng 4: Nội dung và và các kết quả thực nghiệm.

Chƣơng 5: Kết luận và khuyến nghị và hướng phát triển của đề tài.


6
CHƢƠNG 2

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
2.1.1 Khái niệm và phân loại chính sách tài khóa:
2.1.1.1. Khái niệm:
Chính sách tài khóa (hay chính sách tài chính, chính sách ngân sách) là hệ thống
các chính sách của chính phủ về mức huy động nguồn tài chính và chi tiêu của ngân
sách trong khoảng thời gian nhất định, bao gồm tập hợp các quan điểm, cơ chế và
phương thức huy động các nguồn hình thành ngân sách quốc gia (chủ yếu là các nguồn
thu về thuế), nhằm mục tiêu phục vụ các khoản chi lớn của nhà nước theo kế hoạch
từng năm tài chính, như là chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, quỹ bổ sung dự trữ
quốc gia, trả nợ trong và ngoài nước đến hạn.
Cũng có thể hiểu chính sách tài khóa là các chính sách can thiệp của Chính phủ
đến hệ thống thuế khóa và chi tiêu của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô
của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, ổn định giá cả và kiềm chế lạm
phát. Các hành động như đánh thuế để tăng nguồn thu hoặc gia tăng chi tiêu để cung
cấp hàng hóa công là biện pháp liên quan đến chính sách tài khóa.
2.1.1.2. Phân loại:
Có nhiều tiêu chí để phân loại các hình thức của chính sách tài khóa. Mỗi tiêu
chí sẽ làm rõ hơn về bản chất cũng như hướng tác động của chính sách tài khóa đến
nền kinh tế.
Căn cứ theo tác động của CSTK đến tổng thể chi tiêu và các nguồn thu của ngân
sách đến ngân sách nhà nước, CSTK có thể được chia thành chính sách tài khóa cân
bằng, chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tài khóa thặt chặt.



7

- Chính sách tài khóa cân bằng (CSTK trung lập):
Là chính sách tài khóa mà tổng chi tiêu của Chính phủ cân bằng với các nguồn
thuế, phí lệ phí và các nguồn thu nhà nước khác mà không phải vay nợ. Chính sách này
không có nhiều tác động lên nền kinh tế.
- Chính sách tài khóa mở rộng:
Là biện pháp tăng cường chi tiêu hoặc giảm bớt nguồn thuế của chính phủ hoặc
trong một số trường hợp, chính phủ sẽ áp dụng đồng thời cả biện pháp này. Kết quả là
thâm hụt ngân sách sách sẽ tăng lên. Mục đích của chính sách này nhằm kích thích
tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân, tuy nhiên nếu chính phủ tăng
chi tiêu quá nhiều trong khi nguồn thu từ thuế không tăng theo thì hệ quả là chính phủ
sẽ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách. Điều này sẽ dẫn đến những bất ổn trong
nền kinh tế trong tương lai. CSTK mở rộng thường được sử dụng khi sản lượng nền
kinh tế thấp hơn sản lượng tiềm năng, cần các biện pháp kích cầu để tăng sản lượng,
tạo việc làm.
- Chính sách tài khóa thắt chặt:
Là chính sách hạn chế chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu sẽ giảm đi thông
qua việc tăng thu từ thuế hoặc giảm chi tiêu của chính phủ, đôi khi để tăng hiệu quả
thắt chặt tài khóa, chính phủ sẽ sử dụng đồng thời cả hai biện pháp. Việc thắt chặt tài
khóa được áp dụng khi sản lượng nền kinh tế lớn hơn sản lượng tiềm năng, nền kinh tế
đang tăng trưởng nhanh thiếu bền vững hoặc khi nền kinh tế gặp lạm phát cao cần
được giảm bớt xuống, kết quả là thâm hụt ngân sách sẽ ít hơn hay thặng dư ngân sách
sẽ tăng lên so với trước đó.
Ngoài ra, căn cứ vào tác dụng điều tiết chu kỳ kinh tế, các nhà nghiên cứu phân
biệt CSTK thành CSTK tự động ổn định và CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước.
Chính sách tài khóa tự động ổn định là chính sách tài chính được thiết kế tự
nó điều chỉnh làm cho chính sách tài khóa mở rộng trong thời kỳ suy thoái và thu hẹp

trong thời kỳ tăng trưởng cao, thông qua các công cụ như bảo hiểm, thuế thu nhập, an
sinh xã hội...Loại hiệu quả ổn định này xuất phát từ nội tại của chính sách tài chính, có


8
thể tự phát huy tác dụng điều tiết, không cần có bất cứ tác động nào của chính phủ.
Tính tự ổn định của nó được thực hiện bởi hoạt động của cơ chế thị trường, làm cho
các nguồn tài chính được phân phối một cách tự do và nhanh chóng giữa các chủ thể
kinh tế khác nhau.
Tuy nhiên, trong một xã hội dân chủ, kinh tế không đảm bảo sự phân phối thu
nhập phối hợp với mục tiêu dân chủ, chính vì vậy cần có sự điều tiết của chính phủ. Ở
các nước đang phát triển thường ít có các công cụ bình ổn tự động. Bởi các khoản bảo
hiểm thất nghiệp còn hạn chế, các khoản chi chuyền nhượng chiếm một phần nhỏ trong
ngân sách. Chi tiêu chính phủ và tiền lương chiếm một phần lớn chi tiêu của quốc gia.
CSTK có sự điều chỉnh của nhà nƣớc là một loại chính sách tài chính mà bản
thân nó không thể tự phát huy tác dụng điều tiết nền kinh tế mà cần có tác động bên
ngoài. Tuy nhiên, sự điều tiết của Chính phủ cũng cần trong một giới hạn khuôn phép,
nếu điều tiết quá mức sẽ làm mất đi tác dụng điều tiết kinh tế vĩ mô.
Căn cứ theo hướng tác động vào chu kỳ phát triển của nền kinh tế: Chính sách
tài khóa thuận chu kỳ và nghịch chu kỳ:
Khi các nước tiến hành chính sách tài khóa mở rộng vào lúc có lạm phát hay
tiến hành chính sách tài khóa thắt chặt khi có suy thoái, thì người ta gọi các chính sách
tài khóa đó là theo chu kỳ hay thuận chu kỳ. Ngược lại là chính sách tài khóa phản chu
kỳ hay còn gọi là nghịch chu kỳ.
Các nước phát triển đạt được các chính sách ngược chu kỳ thông qua các công
cụ ổn định tự động. Bảo hiểm thất nghiệp và các khoản chuyển nhượng xã hội tăng lên
khi thất nghiệp cao. Đối với các nước đang phát triển thường không có khoản bảo hiểm
thất nghiệp, các khoản chuyển nhượng xã hội cũng chiếm phần nhỏ, cho nên các nước
đang phát triển thì chính sách tài khóa thường là ngược chu kỳ.



9

2.1.2 Mục tiêu của chính sách tài khóa:
Cũng như chính sách tiền tệ, CSTK là công cụ chính sách rất quan trọng để điều
hành kinh tế quốc gia, CSTK cũng được thực hiện nhằm mục tiêu điều tiết vĩ mô, ổn
định hóa nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng, cụ thể là:
-

Tăng sản lượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:

Phản ánh sự gia tăng của sản lượng thực tế hoặc sản lượng thực tế của đầu
người qua thời gian. Chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thông thường để đo lường tăng trưởng kinh
tế là tổng sản phẩm quốc nội - GDP.
-

Ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát:

Ổn định giá cả có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng phát triển
kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của nền kinh tế
trong tương lai. Ổn định giá cả sẽ được cụ thể hóa thông qua chỉ số giá tiêu dùng xã hội.
Khi duy trì mức lạm phát thấp và ổn định sẽ tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc
đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân phối nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Lạm
phát cao hay giảm phát gây tốn kém cho xã hội rất nhiều, thậm chí ngay trong trường
hợp xã hội phát triển khả quan nhất. Sự biến động liên tục của các tỷ lệ lạm phát dự
tính làm méo mó và sai lệch thông tin và do đó làm cho các quyết định kinh tế trở nên
không đáng tin cậy và không có hiệu quả. Không những vậy, sự bất ổn giá cả dẫn đến
sự phân phối không dân chủ các nguồn lực kinh tế giữa các nhóm dân cư trong xã hội.
Lạm phát có thể gây nhiều xung đột nảy sinh giữa các tầng lớp trong trong xã hội khi
họ cạnh tranh với nhau để duy trì phần thu nhập của mình trong điều kiện giá cả liên

tục tăng lên. Chẳng hạn, thông tin chứa đựng trong giá cả và dịch vụ sẽ khó giải thích
hơn khi mức giá chung đều thay đổi, do vậy những người tiêu dùng, nhà kinh doanh và
Chính phủ trở nên rất khó ra quyết định chi tiêu của mình.
-

Tạo công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động:

Tạo công ăn việc làm đầy đủ là mục tiêu của tất cả các chính sách vĩ mô trong
đó có chính sách tài khóa, cũng như chính sách tiền tệ. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay
giảm, nói chung chủ yếu phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế


10
được mở rộng và phát triển thì việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và
ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Tuy nhiên
cũng cần lưu ý rằng, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật
thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm.
-

Cân bằng cán cân thương mại.

Đây cũng là mục tiêu mà các chính sách vĩ mô khác cần đạt được để điều tiết
kinh tế, hướng tới phát triển kinh tế bền vững và ổn định.
2.1.3 Công cụ của chính sách tài khóa:
Đề đạt được những mục tiêu của mình, chính sách tài khóa được thiết lập dựa
trên nhiều công cụ khác nhau, trong đó hai công cụ chính của CSTK là thuế và chi tiêu
chính phủ. Những thay đổi về mức độ của thuế và chi tiêu chính phủ có thể ảnh hưởng
đến tổng thể nền kinh tế thông các biến số tài chính: Tổng cầu và mức hoạt động kinh
tế, kiểu phân bố nguồn nhân lực, phân phối thu nhập.
Thuế: Là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà

nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm mục đích phục vụ cho
cộng đồng.
Chi tiêu chính phủ: Là các khoản chi ngân sách nhằm thỏa mãn nhu cầu của
nhà nước đối với việc thực hiện các mục tiêu chung của toàn xã hội. Trong đó, Đầu tư
xây dựng cơ bản của chính phủ là khoản chi nhằm mục đích hình thành các loại tài sản
cố định, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, đầu
tư của chính phủ tập trung những ngành nghề, những lĩnh vực có hiệu ứng bên ngoài
lớn, châm ngòi cho các hoạt động đầu tư của tư nhân.
Ngoài thuế và chi tiêu chính phủ thì tín dụng của nhà nƣớc cũng là một công
cụ quan trọng để điều hành chính sách tài khóa: Khi chi tiêu chính phủ lớn hơn mức
thuế thu được, Chính phủ phải nợ trong nước và ngoài nước để bù đắp thâm hụt ngân
sách, hình thành nợ chính phủ và gọi là tín dụng nhà nước. Tín dụng nhà nước được
thực hiện qua các công cụ như công trái, tín phiếu, trái phiếu quốc tế, trái phiếu chính
phủ.


11
2.1.4 Lý luận về cơ chế và kết quả tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh
tế.
2.1.4.1 Học thuyết Keynes và vai trò của chính sách tài khóa đối với nền kinh tế
Hiện nay, các nền tảng lý thuyết kinh tế cho việc sử dụng chính sách tài khóa
trong điều tiết kinh tế xã hội dựa vào hai trường phái lý luận phổ biến: Chính sách
NSNN bành trường gắn với quan điểm tăng cường sự can thiệp của Nhà nước và chính
sách NSNN cân bằng gắn với quan điểm giảm thiểu, hợp lý hóa vai trò, chức năng của
Nhà nước.
Người tiên phong đặt nền tảng cho mô hình chính sách nhà nước bành trướng là
J.M.Keynes. Trong tác phẩm “Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ”
(xuất bản lần đầu tháng 2 năm 1936) tư tưởng của ông về sự cần thiết can thiệp của
Nhà nước thông qua tài chính đã đặt cơ sở cho chính sách tài khóa điều tiết kinh tế xã
hội.

Trong bài nghiên cứu, quan điểm của tác giả cho rằng tư duy của học thuyết
Keynes vẫn còn phù hợp để tìm hiểu về tác động của chính sách tài khóa trong việc
điều tiết nền kinh tế, theo đuổi những mục tiêu kinh tế vĩ mô. Học thuyết của trường
phái Keynes dựa trên tư tưởng ủng hộ, đề cao vai trò của vai trò của Chính phủ trong
việc điều hành nền kinh tế. Keynes cho rằng chính phủ nên sử dụng quyền hạn của
mình để tăng tổng cầu bằng cách tăng chi tiêu và tạo ra môi trường lưu thông tiền tệ dễ
dàng, từ đó kích thích kinh tế, tạo ra công ăn việc làm, tăng thêm của cải trong xã hội.
Tác động của chính sách tài khóa có thể ảnh hưởng rất sâu rộng đến nền kinh tế thông
qua các đại lượng như chi tiêu cá nhân, đầu tư của doanh nghiệp, tỷ giá hối đoái, mức
thâm hụt ngân sách, thậm chí là cả lãi suất - yếu tố mà được coi là chịu tác động mạnh
của chính sách tiền tệ.
Theo Keynes, chính sách tài khóa là công cụ chính điều chỉnh kinh tế, tất cả các
vấn đề quan trọng nhất của tái sản xuất mở rộng kinh tế được giải quyết trên quan điểm
cầu, trái ngược với các nhà kinh tế học tiền nhiệm cho rằng giải quyết cung mới là vấn
đề căn bản. J.M.Keynes cũng khẳng định, chi tiêu nhà nước là công cụ can thiệp cơ bản


12
của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế mang tính chu kỳ và khắc phục khủng hoảng.
Quy mô, cơ cấu của chi tiêu là yếu tố cực kì quan trọng và không thể tách rời với yếu
tố cầu. Cầu chính phủ sẽ góp phần phát triển các hoạt động kinh doanh, J.M.Keynes
phê phán nguyên tắc kinh tế chính trị học cổ điển về sự không cần thiết can thiệp của
nhà nước đối với Nhà nước.
Theo Jones (2008) thì lý thuyết của Keynses gồm ba trụ cột: sử dụng các đại
lượng tổng gộp, vai trò quyết định của tổng cầu, tầm quan trọng của sự kỳ vọng của
các tác nhân kinh tế. Thông điệp của Keynes là kêu gọi tính chủ động chính sách kinh
tế vĩ mô của chính phủ, thông qua chính sách tài khóa mở rộng hay thu hẹp, ổn định
nền kinh tế .
Tổng sản lượng hay tổng thu nhập của nền kinh tế nhờ vào thực hiện hóa những
quyết định chi tiêu chính là: Chi tiêu của hộ gia đình, chi tiêu cho đầu tư, mở rộng kinh

doanh của doanh nghiệp, chi tiêu của chính phủ và chi tiêu ròng của các nền kinh tế
bên ngoài đối với các sản phẩm trong nước. Hành vi của bốn loại chi tiêu trên khác
nhau. Trong đó, chi tiêu hộ gia đình phụ thuộc vào thu nhập kỳ vọng, và mong muốn
tiết kiệm của hộ gia đình.
Ngoài ra, còn có nhiều trường phái khác bàn về chính sách tài khóa, cụ thể:
- Giữa những năm 1950, Tân cổ điển đưa ra nguyên tắc tổ chức tài chính nhà
nước và chính sách tài khóa,. Lý luận của Tân cổ điển hiện đại cho lập luận rằng: Đặt
yếu tố chủ thể vào trọng tâm nghiên cứu hành vi của con người, chủ thể kinh tế.
Nghiên cứu hành vi con người, chủ thể kinh tế dựa trên phân tích các chỉ số vĩ mô: Giá
cả, cạnh tranh, lợi nhuận, lợi tức tiền lương.
- Phái Tân cổ điển đề xuất giảm khối lượng chi tiêu nhà nước và thay đổi cơ cấu
chi: Tăng khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, khuyến nghị loại hình chi tiêu
nhà nước từ chiểu rộng sang chiều sâu”; giảm khối lượng chi tiêu tổng thể gắn với hiệu
quả chi. Từ quan điểm về hạn chế sự can thiệp của nhà nước, họ đề xuất mức cắt giảm
thuế phổ thông, nguyên tắc của Tân cổ điển.


13
- Tân cố điển khẳng định tăng can thiệp nhà nước, tăng quy mô chi ngân sách nhà
nước, thâm hụt ngân sách cao không có lợi cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, nhất
là khi kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn toàn cầu hóa, tự do cao độ hóa.
2.1.4.2 Vai trò của chi tiêu chính phủ:
Trong bài nghiên cứu, tác giả giả định biến chi tiêu chính phủ là công cụ đại
diện cho CSTK. Lý thuyết kinh tế thường không chỉ ra một cách rõ ràng về tác động
của chi tiêu chính phủ đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên hầu hết các nhà kinh tế đều
thống nhất với nhau rằng, trong một số trường hợp, sự cắt giảm chi tiêu chính phủ có
thể có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong một số trưởng hợp khác, sự thúc đẩy chi
tiêu chính phủ lại có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
nếu chi tiêu chính phủ bằng không sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế rất thấp, nói cách
khác, một số khoản chi tiêu chính phủ là cần thiết để đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh

tế. Tuy nhiên, khi chính phủ vượt qua một ngưỡng cho phép, sẽ cản trở tăng trưởng
kinh tế do sự phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả.
Chi tiêu chính phủ với nhiều hạng mục với các chức năng khác nhau, như chi
cho tiêu dùng của chính phủ cung cấp hàng hóa và dịch vụ phi thị trường, chi tiêu cho
sản xuất của chính phủ cung cấp các hàng hóa thị trường (trường hợp các doanh nghiệp
nhà nước trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh) và chi tiêu cho đầu tư phản ánh vốn
đem lại lợi ích dài hạn như cơ sở hạ tầng, đường xá, trường trạm…
Hiện nay có quan điểm chính liên quan đến tác động của chi tiêu chính phủ đến
tăng trưởng kinh tế.
- Trường phái thứ nhất cho rằng chi tiêu chính phủ có tác động tích cực và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc thực thi các chức năng pháp luật, cung cấp hàng
hóa và dịch vụ công, hàng hóa và dịch vụ có ngoại ứng tích cực, và những dịch vụ hỗ
trợ thị trường. Theo Knack và Keefer (1995), chi tiêu cho các hoạt động thực thi pháp
luật và trật tự sẽ tạo dựng môi trường kinh tế - xã hội ổn định tạo điều kiện phát triển
kinh tế. Bên cạnh đó, các chương trình chi tiêu của chính phủ cung cấp hàng hóa công


14
có giá trị như quốc phòng, công nghệ, truyền thông, cơ sở hạ tầng và hàng hóa ngoại
ứng tích cực như y tế và giáo dục đều là những yếu tố cơ bản quyết định cơ bản kinh tế.
- Quan điểm thứ hai cho rằng chi tiêu chính phủ lại có tác động tiêu cực, làm
giảm tốc độ tăng trưởng bởi các nguyên nhân như: chi tiêu chính phủ chèn lấn đầu tư
công, chiếm chỗ hoạt động của tư nhân, làm biến dạng phân bổ nguồn lực hay ức chế
sự đổi mới trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Khi chính phủ chi tiêu thì cần có
nguồn tiền được lấy từ nguồn khác hoặc những cách sử dụng khác như vay nợ. thuế
làm giảm hành vi sản xuất vì đánh vào thu nhập từ lao động, tiết kiệm, đầu tư hay
những hình thức khác. Lao động giảm dẫn đến giảm tổng cung trong giảm, dẫn đến
tổng cầu giảm. Thuế thu nhập doanh nghiệp làm giảm chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận
sau thuế của doanh nghiệp và dẫn đến tổng cung giảm.
- Trường phái thứ ba cho rằng tác động của chi tiêu chính phủ đến tăng trưởng

kinh tế phụ thuộc vào kích cỡ của chi tiêu chính phủ ( tính theo tỷ trọng của chi tiêu
chính phủ trên tổng sản lượng nền kinh tế). Khi kích cỡ chi tiêu chính phủ còn nhỏ thì
tác động tích cực vượt trội tác động tiêu cực và kích cỡ chi tiêu của chính phủ lớn hơn
thì tác động tiêu cực sẽ lớn hơn tác động tích cực đến nền kinh tế. Theo lập luận của
Chao và Grubel (1998), tồn tại quy luật lợi tức giảm dần đối với chi tiêu thêm của
chính phủ. Theo đó các tính năng thúc đẩy sản lượng của chi tiêu chính phủ sẽ chiếm
ưu thế khi chi tiêu chính phủ còn rất nhỏ, và khi đó gia tăng trong chi tiêu của chính
phủ sẽ làm tăng sản lượng. Tuy nhiên đến một thời điểm nào đó, tính năng thúc đẩy
sản lượng của chi tiêu sẽ giảm dần.
- Trong bài nghiên cứu, tác giả sử dụng biến chi tiêu chính phủ là đại diện của
chính sách tài khóa, từ đó dựa trên những số liệu thu thập được, tác giả sẽ kiểm định
tác động của một cú sốc chi tiêu chính phủ lên nền kinh tế.
Cho dù mỗi trường phái có những quan điểm, những lý luận riêng, nhưng nhìn
chung chi tiêu là một công cụ quan trọng trong điều tiết kinh tế vĩ mô. Tùy theo đặc
điểm kinh tế xã hội của từng quốc gia, tùy theo từng giai đoạn phát triển của quốc gia
đó mà chính phủ cần có những chính sách điều hành phù hợp.


15
2.1.4.3 Chính sách tài khóa tác động nhƣ thế nào đến nền kinh tế?
Điều mà các nhà nghiên cứu luôn quan tâm khi phân tích về chính sách tài khóa
là công cụ này sẽ thực hiện điều tiết nền kinh tế như thế nào, mức độ hiệu quả sẽ ra sao.
Xuất phát từ cuộc Đại Suy thoái 1929 – 1930, lý thuyết kinh tế của Keynes cho rằng
những can thiệp của chính phủ đến nền kinh tế dựa theo các giai đoạn của chu kỳ kinh
tế. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, chính phủ cần có những sự can thiệp phù hợp.
Chu kỳ kinh tế còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo
trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Cũng có quan điểm cho
rằng pha phục hồi là pha thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là pha
suy thoái và pha hưng thịnh (pha mở rộng). Chu kỳ kinh tế là những biến động không
mang tính quy luật, không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau. Chính vì

vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cả khu vực tư nhân lẫn khu vực
công cộng gặp nhiều khó khăn. Khi đó sản lượng giảm, thất nghiệp tăng cao, các thị
trường từ hàng hóa dịch vụ đến thị trường vốn thu hẹp dẫn đến những tiêu cực về kinh
tế xã hội.
Khi nền kinh tế suy thoái: biểu hiện tình trạng sản lượng quốc gia ở mức thấp
hơn mức sản lượng tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Chính phủ áp dụng chính
sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng chi ngân sách hoặc giảm thuế hoặc cả hai. Kết
quả là làm tổng cầu tăng lên, sản lượng tăng, tạo thêm nhiều việc làm và giảm thất
nghiệp.
Khi nền kinh tế có lạm phát cao: biểu hiện sản lượng quốc gia vượt quá mức
sản lượng tiểm năng, đồng thời chỉ số giá cũng tăng cao tác động xấu đến nền kinh tế.
Chính phủ cần áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp, cụ thể giảm chi ngân sách, tăng
thuế. Kết quả là làm giảm tổng cầu, sản lượng giảm, lạm phát giảm và việc làm có xu
hướng giảm.
Như vậy hướng tác động của chính phủ chủ yếu tập trung vào yếu tố tổng cầu xã
hội. Phần nghiên cứu tiếp theo trình bày những lý thuyết về tổng cầu xã hội, sự tác
động của chi tiêu chính phủ đến các thành phần tổng cầu.


16
2.1.4.4 Phân tích tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế vĩ mô:
-

Chính sách tài khóa và tổng cầu xã hội:

Trong điều kiện nền kinh tế mở sử dụng các khái niệm từ phân tích cung cầu,
Keynes phân tích tổng cầu nền kinh tế xã hội thành các yếu tố chi tiêu như sau :
AD=C+I+G+(X-M)
Trong đó:
AD: Tổng cầu nền kinh tế

C: Chi tiêu dùng của dân cư
I: Chi đầu tư theo kế hoạch của doanh nghiệp theo kế hoạch , bao gồm đầu tư tài
sản cố định và đầu tư hàng tồn kho.
G: Chi tiêu chính phủ.
(X-M) Cán cân thanh toán thương mại.
Sử dụng chính sách tài khoá, chính phủ có thể thay đối tổng cầu theo chính sách
thặt chặt hay mở rộng.
Một sự gia tăng tài khóa làm tăng tổng cầu xã hội qua hai kênh:
Thứ nhất, nếu chính phủ tăng mua hàng trực tiếp nhưng vẫn không thay đổi
chính sách thuế sẽ gia tăng tổng cầu trực tiếp.
Thứ hai, nếu chính phủ cắt giảm thuế hoặc gia tăng các khoản chuyển giao ( trợ
cấp ) sẽ làm tăng thu hoạch khả dụng của công chúng, kéo theo họ sẽ chi tiêu nhiều
hơn. Điều này làm gia tăng tổng cầu, kéo theo làm thay đổi điểm cân bằng mới tương
ứng với sản lượng đầu ra.
Chính sách tài khóa cũng làm thay đổi thành phần của tổng cầu: Khi Chính phủ
chấp nhận bội chi ngân sách và phát hành trái phiếu đề bù đắp bội chi. Trong trường
hợp này, Chính phủ cạnh tranh với khu vực tư nhân trong vay vốn, kéo theo làm gia
tăng lãi suất thị trường và gây ra hiện tượng chèn lấn đầu tư tư nhân. Chính sách tài
khóa làm giảm một phần sản lượng do khu vực tư tạo ra. Điều đó đặt ra là Chính phủ
phải thiết lập chính sách đầu tư hiệu quả để thu hút trở lại đầu tư tư nhân.


17
Trong nền kinh tế mở, chính sách tài khóa cũng tác động đến tỷ giá hối đoái và
cán cân thương mại. Khi chính phủ thi hành chính sách tài khóa mở rộng, sự vay vốn
của chính phủ sẽ tăng lãi suất trên thị trường trong nước. Khi đó các nhà đầu tư quốc tế
sẽ gia tăng chuyển vốn ngoại tệ vào đầu tư trong nước nhằm thu lợi lớn từ cơ hội lãi
suất cao. Điều này dẫn đến ngoại tệ sẽ trở nên giảm giá so với đồng nội tệ, hậu quả là
hàng hóa nhập khẩu sẽ rẻ hơn và hàng hóa xuất khẩu sẽ cao hơn ở nước ngoài. Khiến
cho cán cân thương mại sẽ thâm hụt.

Bảng 2.1 Tóm tắt Nội dung quản lý cầu của chính phủ
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA THẮT CHẶT

THAY ĐỔI CÁC YẾU TỐ CỦA CẦU

Chính sách tiêu dùng

C↓

Chính sách đầu tư

I↓

Chính sách tài khóa

T↑;G↓ hoặc bội chi↓

Chính sách ngoại thương

M↑;X↓ hoặc bội chi↑

CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA MỞ RỘNG
Chính sách tiêu dùng

C↑

Chính sách đầu tư

I↑


Chính sách tài khóa

G↑;T ↓hoặc bội chi↑

Chính sách ngoại thương

X↑;M ↓hoặc bội chi↓

Nguồn: Tác giả tồng hợp
Chính sách tài khóa – Công cụ quản lý vĩ mô.
Thông qua tác động đến tổng cầu và các thành phần của nó, chính sách tài khóa
có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế. Sự ảnh hưởng trước hết của chính sách tài khóa
mở rộng là gia tăng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ. Nhu cầu càng lớn dẫn đến gia tăng
sản lượng đầu ra lẫn giá cả, đến lượng điều này sẽ thay đổi trạng thái của chu kỳ kinh
tế. Nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái thất nghiệp gia tăng thì sự gia tăng tổng
cầu sẽ kích thích gia tăng sản lượng mà không thay đổi giá cả. Tuy nhiên khi nền kinh
tế đã đạt trạng thái toàn dụng thì CSTK lại ảnh hưởng mạnh đến giá cả hơn và ít ảnh
hưởng đến sản lượng.


×