Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đánh giá lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong việc tham gia bảo hiểm y tế trường hợp tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

Nguyễn Thị Yến Lan

ĐÁNH GIÁ LỰA CHỌN NGƯỢC VÀ
RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC
THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ:
TRƯỜNG HỢP TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

Nguyễn Thị Yến Lan

ĐÁNH GIÁ LỰA CHỌN NGƯỢC VÀ
RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC
THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ:
TRƯỜNG HỢP TỈNH LONG AN
Chuyên ngành
Mã số

: Quản lý công
: 60340403

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Hoàng Bảo

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn thạc sĩ: “Đánh giá lựa chọn ngược và rủi
ro đạo đức trong việc tham gia bảo hiểm y tế: Trường hợp tỉnh Long An” là công
trình nghiên cứu độc lập do chính tôi thực hiện với sự hướng dẫn khoa học của TS.
Nguyễn Hoàng Bảo. Các số liệu được khảo sát từ thực tế và được xử lý trung thực,
khách quan.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Yến Lan


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .......................................................................................1
1.1 Đặt vấn đề ...........................................................................................................1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................3
1.3 Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................4
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................4
1.5 Cấu trúc luận văn ................................................................................................4

CHƯƠNG 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước ...........................6
2.1 Các khái niệm liên quan ......................................................................................6
2.1.1 Khái niệm liên quan đến BHYT ......................................................................6
2.1.2 Vai trò của BHYT ............................................................................................7
2.1.3 Phương thức BHYT .........................................................................................9
2.1.4 Quỹ BHYT .....................................................................................................10
2.1.5 Mức hưởng BHYT .........................................................................................11
2.2 Lý thuyết nền tảng .............................................................................................11
2.2.1 Lý thuyết thông tin bất cân xứng ...................................................................11
2.2.2 Lý thuyết thông tin bất cân xứng trong tham gia BHYT ...............................13
2.3 Tổng quan các nghiên cứu trước .......................................................................15
2.3.1 Kiểm định lựa chọn ngược .............................................................................15
2.3.2 Kiểm định rủi ro đạo đức ...............................................................................18
Tóm tắt chương 2 ....................................................................................................21
CHƯƠNG 3: Thực trạng tham gia BHYT và thiết kế nghiên cứu .........................22
3.1 Tác động của sự thay đổi chính sách BHYT Việt Nam đến việc tham gia BHYT
.................................................................................................................................22
3.2 Thực hiện chính sách BHYT tại tỉnh Long An .................................................27
3.2.1 Phát triển đối tượng tham gia BHYT .............................................................27


3.2.2 Sự khác biệt trong KCB của người mua thẻ BHYT tự nguyện và bắt buộc ..28
3.2.3 Chất lượng dịch vụ y tế KCB bằng thẻ BHYT còn nhiều bất cập .................31
3.3 Thiết kế nghiên cứu ...........................................................................................31
3.3.1 Khung phân tích .............................................................................................31
3.3.2 Mô hình kiểm định .........................................................................................34
3.3.3 Phương pháp thu thập dữ liệu và chọn mẫu ...................................................41
Tóm tắt chương 3 ....................................................................................................43
CHƯƠNG 4: Kết quả nghiên cứu ...........................................................................44
4.1 Mô tả dữ liệu khảo sát ......................................................................................44

4.1.1 Tuổi ................................................................................................................44
4.1.2 Tình trạng sức khỏe ........................................................................................45
4.1.3 Số lần KCB ngoại trú .....................................................................................45
4.1.4 Giới tính .........................................................................................................46
4.1.5 Thu nhập.........................................................................................................47
4.1.6 Trình độ học vấn ............................................................................................47
4.1.7 Tình trạng hôn nhân .......................................................................................48
4.1.8 Mức độ tin tưởng ............................................................................................48
4.2 Kết quả nghiên cứu ...........................................................................................49
4.2.1 Kiểm định hiện tượng lựa chọn ngược trong tham gia BHYT ......................49
4.2.2 Kiểm định rủi ro đạo đức trong tham gia BHYT ...........................................58
Tóm tắt chương 4 ....................................................................................................62
CHƯƠNG 5: Kết luận và các kiến nghị .................................................................63
5.1 Kết luận và hàm ý chính sách ...........................................................................63
5.2 Hạn chế của đề tài và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo...............................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT: Bảo hiểm y tế
BHXH: Bảo hiểm xã hội
KCB: Khám chữa bệnh
UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội
UBND: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Tóm tắt kết quả các nghiên cứu trước .....................................................19
Bảng 3.1 Tóm tắt các giai đoạn chính sách BHYT Việt Nam ................................26

Bảng 3.2 Tổng hợp các biến trong mô hình kiểm định lựa chọn ngược .................38
Bảng 3.3 Tổng hợp các biến trong mô hình kiểm định rủi ro đạo đức ...................41
Bảng 4.1 Tổng hợp số liệu khảo sát về tuổi ............................................................44
Bảng 4.2 Tổng hợp số liệu khảo sát về tình trạng sức khỏe ...................................45
Bảng 4.3 Tổng hợp số liệu khảo sát số lần KCB ngoại trú .....................................45
Bảng 4.4 Tổng hợp số liệu khảo sát về giới tính.....................................................46
Bảng 4.5 Tổng hợp số liệu khảo sát về thu nhập ....................................................47
Bảng 4.6 Tổng hợp số liệu khảo sát về trình độ học vấn ........................................47
Bảng 4.7 Tổng hợp số liệu khảo sát về tình trạng hôn nhân ...................................48
Bảng 4.8 Tổng hợp số liệu khảo sát về mức độ tin tưởng vào KCB BHYT ..........48
Bảng 4.9 Kết quả hồi quy mô hình lựa chọn ngược ...............................................50
Bảng 4.10 Bảng tính tác động biên của biến độc lập lên biến Y ............................52
Bảng 4.11 Kết quả hồi quy mô hình rủi ro đạo đức ................................................59


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Hình 3.1 Tỷ lệ tham gia BHYT của tỉnh Long An từ năm 2010-2014 ...................27
Hình 3.2 Thu và chi quỹ KCB BHYT bắt buộc và tự nguyện tỉnh Long An .........28
Hình 3.3 Thu và chi quỹ KCB BHYT tự nguyện tỉnh Long An .............................28
Hình 3.4 Tần suất KCB ngoại trú trong năm của BHYT tự nguyện và bắt buộc ...29
Hình 3.5 Tần suất KCB nội trú trong năm của BHYT tự nguyện và bắt buộc .......30
Hình 3.6 Khung phân tích đối với kiểm định lựa chọn ngược................................33
Hình 3.7 Khung phân tích đối với kiểm định rủi ro đạo đức ..................................34


1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề

Bảo hiểm y tế (BHYT) Việt Nam về bản chất là BHYT xã hội, là cơ chế tài
chính chi trả trước đảm bảo để người dân khi ốm đau có nguồn tài chính chi trả,
tránh bị rơi vào hoàn cảnh khó khăn. BHYT Việt Nam đang dần thay thế cơ chế bao
cấp trong khám chữa bệnh bằng việc nhà nước tăng đầu tư ngân sách để hỗ trợ cho
người dân, đồng thời huy động nguồn lực từ xã hội, người dân và cộng đồng để
tham gia BHYT. Với định hướng đúng và sự nỗ lực của nhà nước và các ngành liên
quan trong quá trình thực hiện luật BHYT, tỷ lệ dân số tham gia BHYT đã tăng
nhanh, người tham gia BHYT được hưởng dịch vụ khám chữa bệnh (KCB), kỹ
thuật y tế hiện đại, chất lượng hơn, được cung ứng thuốc KCB, kể cả thuốc mới,
hiệu quả giúp hàng triệu lượt người vượt qua ốm đau và các căn bệnh mãn tính, nan
y và hiểm nghèo. Quỹ BHYT đang dần trở thành nguồn tài chính cơ bản phục vụ
cho hoạt động các bệnh viện, góp phần giảm mức chi trả từ tiền túi của người bệnh
cho công tác chăm sóc sức khỏe (Ủy Ban Thường Vụ Quốc hội, 2013).
Theo báo cáo của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), giai đoạn
2009-2012, tỷ lệ dân số tham gia BHYT tăng từ 58,2% (năm 2009) lên 66,8% (năm
2012). Năm 2013, tỷ lệ bao phủ 68,8% dân số; năm 2014 là 71% dân số (BHXH
Việt Nam, 2015).
Phân tích tỷ lệ tham gia BHYT theo nhóm đối tượng cho thấy, nhóm làm công
ăn lương, cán bộ công chức trong khu vực công, đồng bào dân tộc thiểu số, người
nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, nhóm hưu trí, mất sức lao động, đối tượng bảo trợ xã hội
do ngân sách nhà nước hoặc quỹ BHXH đóng tiền mua BHYT đều đạt ở mức rất
cao, khoảng 100%. Tỷ lệ nhóm tự nguyện, hộ cận nghèo tham gia BHYT đã tăng
dần từ việc điều chỉnh chính sách nhưng còn ở mức thấp, đạt 24% (năm 2011) và
28% (năm 2012), tại một số tỉnh tỷ lệ này rất thấp dưới 10% (UBTVQH, 2013).
Số thu tăng nhanh qua các năm, từ 13.037 tỷ đồng (năm 2009) tăng lên 40.237
tỷ đồng (năm 2012) (UBTVQH, 2013) và đến cuối năm 2014 là 55.142 tỷ đồng,


2


tăng so với năm 2009 là 323% (BHXH Việt Nam, 2015). Số chi BHYT cũng tăng
qua các năm, từ 15.481 tỷ đồng (năm 2009) đến 35.584 tỷ đồng (năm 2012)
(UBTVQH, 2013) và đến cuối năm 2014 là 45.550 tỷ đồng (BHXH Việt Nam). Quỹ
BHYT từ chỗ lũy kế bội chi đến năm 2009 là 3.083 tỷ đồng đã cân đối và có kết dư,
lũy kế kết dư đến năm 2014 là gần 33.000 tỷ đồng (BHXH Việt Nam, 2015).
Việc kết dư quỹ là do sau khi luật BHYT có hiệu lực, đối tượng ngân sách hỗ
trợ tham gia BHYT được mở rộng, mức đóng BHYT tăng từ 3% lên 4,5%, cùng với
lương tối thiểu tăng nhiều lần trong những năm qua trong khi viện phí hầu như
không thay đổi (UBTVQH, 2013).
Phân tích việc sử dụng quỹ BHYT theo nhóm đối tượng tham gia cho thấy,
nhóm tự nguyện có mức bội chi lớn nhất, số tiền sử dụng để KCB gấp 3 lần số tiền
đóng BHYT (vì ốm nặng mới mua BHYT) (UBTVQH, 2013).
Riêng tại tỉnh Long An việc tham gia BHYT cũng liên tục tăng qua các năm,
tỷ lệ tham gia BHYT năm 2010 là 53% đến năm 2012 là 62% (UBTVQH, 2013) và
cuối năm 2014, tỷ lệ bao phủ BHYT là 69% (Phụ lục 1 – Bảng 1.1). Số chi BHYT
cũng tăng qua các năm, từ 313 tỷ đồng năm 2010 tăng lên 712 tỷ đồng năm 2014,
tăng 227 % (Phụ lục 1 – Bảng 1.2).
Vấn đề bội chi quỹ BHYT cũng không là ngoại lệ so với tình hình chung cả
nước, năm 2010-2011 liên tục bội chi quỹ, từ năm 2012 đến năm 2014 đã cân đối và
có kết dư quỹ BHYT. Tuy nhiên, số liệu chi KCB BHYT từ năm 2010 đến năm
2015 của BHXH tỉnh Long An cho các nhóm đối tượng tham gia BHYT, thì số chi
KCB của đối tượng tham gia BHYT tự nguyện luôn cao gấp 2,7 lần số tiền đóng
BHYT (Phụ lục 1 – Bảng 1.2).
Vì vậy, địa phương không những đối mặt với việc tỷ lệ tham gia BHYT chưa
cao theo lộ trình đề ra của chính phủ1, mặt khác còn đối mặt với vấn đề luôn tìm ẩn

1

Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình
tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn 2012-2015 và 2020, trong đó quy định mục tiêu bao phủ BHYT năm 2015

đạt trên 70% dân số và đến năm 2020 là trên 80% dân số; Thông báo số 91/TB-VPCP ngày 17/3/2015 của
Văn phòng Chính phủ thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân đến 2015 ít nhất 75% người dân tham gia BHYT
và đến năm 2020 ít nhất là 80% người dân tham gia BHYT.


3

nguy cơ mất cân đối thu chi quỹ BHYT, nhất là trong nhóm đối tượng tham gia
BHYT tự nguyện.
Theo Akerlof (1970) và Baker và Jha (2012) cho rằng trong thị trường bảo
hiểm kể cả BHYT luôn tồn tại thông tin bất cân xứng với hai vấn đề lớn là lựa chọn
ngược và rủi ro đạo đức. Việc lựa chọn ngược là khi chỉ có người sức khỏe không
tốt mới mua BHYT và sau khi sở hữu được thẻ BHYT thì người mua cũng ít quan
tâm giữ gìn sức khỏe dẫn đến việc dùng thẻ BHYT để đi khám bệnh nhiều lần bất
kể là bệnh gì, đó là rủi ro đạo đức. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng tỷ lệ tham gia
BHYT thấp, không có sự chia sẻ rủi ro giữa người khỏe mạnh và người bệnh tật, và
tất nhiên là nguồn tài chính để chi trả BHYT sẽ kém bền vững.
Đối với thị trường BHYT của Việt Nam, cũng có các tác giả nghiên cứu cho
rằng có tồn tại lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong chương trình BHYT tự
nguyện. Điển hình như nghiên cứu của Minh et al (2012) nghiên cứu thông tin bất cân
xứng trong BHYT Việt Nam với bộ dữ liệu VHLSS (Khảo sát mức sống hộ gia đình
Việt Nam) năm 2008 và nghiên cứu của Nguyễn Văn Ngãi và Nguyễn Thị Cẩm
Hồng (2012) với việc điều tra số liệu sơ cấp về tham gia BHYT tự nguyện tại tỉnh
Đồng Tháp.
Tuy nhiên, vấn đề lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức sẽ có sự thay đổi tùy vào
từng thời điểm và các giai đoạn chính sách khác nhau của mỗi quốc gia. Kể từ năm
2013 đến nay, chính sách BHYT Việt Nam có nhiều sự thay đổi với mục tiêu thực
hiện BHYT toàn dân. Chính vì thế, nghiên cứu xem liệu rằng tình trạng lựa chọn
ngược và rủi ro đạo đức còn tồn tại trong việc tham gia BHYT tại tỉnh Long An hay
không để từ đó có những kiến nghị thực hiện chính sách hợp lý nhằm gia tăng tỷ lệ

tham gia BHYT tại địa phương, góp phần đạt được lộ trình BHYT toàn dân vào
năm 2020 của cả nước nhằm hướng đến thực hiện công bằng và nâng cao chất
lượng trong chăm sóc sức khỏe cho người dân.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Kiểm định sự tồn tại của của vấn đề lựa chọn ngược và rủi
ro đạo đức trong việc tham gia BHYT tự nguyện trên địa bàn tỉnh Long An.


4

Mục tiêu cụ thể:
- Kiểm định sự tồn tại của lựa chọn ngược thông qua yếu tố sức khỏe trong mô
hình các yếu tố tác động đến quyết định mua BHYT.
- Kiểm định rủi ro đạo đức trong việc KCB ngoại trú của người tham gia
BHYT.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Liệu có tồn tại tình trạng lựa chọn ngược, nghĩa là chỉ có người có sức khỏe
không tốt mới chọn mua BHYT tự nguyện trên địa bàn tỉnh Long An không?
- Rủi ro đạo đức có xảy ra trong việc KCB ngoại trú của đối tượng sở hữu thẻ
BHYT tự nguyện hay không?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Người mua và không mua BHYT tự nguyện.
- Phạm vi nghiên cứu: Theo luật định việc tham gia mua BHYT có rất nhiều
đối tượng và được phân chia thành 5 nhóm như: nhóm do người lao động và người
sử dụng lao động đóng; nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng; nhóm do ngân sách
nhà nước đóng; nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng; nhóm tự nguyện
tham gia BHYT. Song, phạm vi đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề thông tin bất cân
xứng trong việc tham gia BHYT tự nguyện trên địa bàn tỉnh Long An.
1.5 Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 5 chương:

Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu. Chương này, nêu lý do chọn đề tài
nghiên cứu trong bối cảnh là tỷ lệ bao phủ BHYT tại địa phương chưa cao và quỹ
KCB BHYT tự nguyện luôn bị mất cân đối không đảm bảo tính bền vững, từ đó đưa
ra mục tiêu, câu hỏi, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Chương 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước. Trong chương
này, tác giả trình bày các khái niệm liên quan đến BHYT, lý thuyết về thông tin bất
cân xứng và các nghiên cứu trước của nước ngoài và Việt Nam về thông tin bất cân
xứng trong thị trường BHYT tự nguyện. Từ đó làm cơ sở để chọn mô hình nghiên
cứu cho luận văn trong chương 3.


5

Chương 3: Thực trạng tham gia BHYT và thiết kế nghiên cứu. Trong chương
này, bài viết trình bày tác động của sự thay đổi chính sách BHYT Việt Nam đến
việc tham gia BHYT của người dân từ năm 1992 đến năm 2014 và tình hình thực
hiện chính sách BHYT tại tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2010-2014. Từ những bất
cập trong thực hiện chính sách BHYT tại địa phương và dựa vào các nghiên cứu
trước tác giả thiết kế khung phân tích, mô hình nghiên cứu, trình bày phương pháp
chọn mẫu cho nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu. Chương này, trình bày mô tả dữ liệu sơ cấp
thông qua khảo sát người KCB bằng thẻ BHYT tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Long An
và kết quả hồi qui mô hình lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong tham gia BHYT.
Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm góp phần thực
hiện tốt chính sách BHYT tại tỉnh Long An.
Chương 5: Kết luận và các kiến nghị. Tác giả trình bày tóm lượt lại các vấn
đề đã nghiên cứu, đưa ra hạn chế của nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp
theo.



6

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Chương này, trình bày các khái niệm liên quan đến BHYT, lý thuyết về thông
tin bất cân xứng và khả năng tồn tại thông tin bất cân xứng trong thị trường BHYT
với hai hệ quả là lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức. Tiếp theo trình bày các nghiên
cứu trước của nước ngoài và Việt Nam về thông tin bất cân xứng trong thị trường
BHYT tự nguyện.
2.1 Các khái niệm liên quan
2.1.1 Khái niệm liên quan đến BHYT
Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy
luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc
phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta
hoặc cho người thứ ba (Hồ Sĩ Sà, 2000).
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, BHYT “là loại bảo hiểm do nhà nước tổ
chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội
để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân". Cũng như hầu hết
các quốc gia trên thế giới, Việt Nam thừa nhận quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với cách tiếp cận BHYT là một nội
dung thuộc an sinh xã hội và là loại hình bảo hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi
phí y tế cho người tham gia khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật (Viện Nghiên cứu lập
pháp, 2013).
Theo luật BHYT do Quốc hội ban hành ngày 14/11/2008, BHYT là hình thức
bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi
nhuận, do nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia
theo quy định của luật.
Tuy nhiên, trong thực tế có một bộ phận BHYT khác cũng liên quan đến hoạt
động chăm sóc sức khỏe của con người nhưng mang tính chất kinh doanh như bảo
hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật (Hồ Sĩ Sà, 2000).

Vì vậy hình thức BHYT này không là đối tượng nghiên cứu của luận văn này.


7

Quan hệ bảo hiểm y tế là mối quan hệ diễn ra ba bên: Bên thực hiện bảo hiểm,
bên tham gia BHYT và cơ sở KCB. Hoạt động BHYT gắn liền, không thể tách rời
với cơ sở KCB (Nguyễn Hiền Phương, 2006).
BHYT toàn dân là mọi người dân đều được quyền tham gia và được bảo vệ
bởi hệ thống BHYT. BHYT toàn dân có nghĩa là tất cả mọi người có thể tiếp cận
dịch vụ y tế chất lượng mà không cần phải lo sợ tới gánh nặng từ tài chính mang lại.
Theo quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), vấn đề BHYT toàn dân phải
được tiếp cận đầy đủ trên cả ba phương diện về chăm sóc sức khỏe toàn dân, bao
gồm: (1) Bao phủ về dân số, tức là tỷ lệ dân số tham gia BHYT; (2) Bao phủ gói
quyền lợi về BHYT, tức là phạm vi dịch vụ y tế được đảm bảo; và (3) Bao phủ về
chi phí hay mức độ được bảo hiểm để giảm mức chi trả từ tiền túi của người bệnh
(Viện nghiên cứu lập pháp, 2013).
Thực hiện BHYT toàn dân là thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức
khỏe cho người dân. Công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe có nghĩa là ai có
nhu cầu nhiều thì được chăm sóc nhiều hơn, ai chịu thiệt thòi (về kinh tế, xã hội)
phải được quan tâm nhiều hơn, công bằng không có nghĩa là cào bằng hay ngang
bằng. Tại Việt Nam, BHYT được xem là quyền được chăm sóc sức khỏe của tất cả
mọi người. Đây cũng là một công cụ tạo nên sự công bằng xã hội trong chăm sóc sức
khỏe người dân. Các nguồn lực tài chính do hệ thống BHYT cung cấp là nguồn tài
chính công và có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng xã hội
trong các đóng góp tài chính cho y tế thông qua hệ thống ngăn ngừa rủi ro (Đào Văn
Dũng và Phạm Gia Cường, 2015).
2.1.2 Vai trò của BHYT
BHYT là một công cụ thực hiện phân phối lại nguồn lực xã hội, hỗ trợ người
dân tránh được “bẫy nghèo” do hậu quả của ốm đau, bệnh tật gây ra. Các nhóm xã

hội khác nhau đều đóng góp vào một quỹ chung theo một tỷ lệ nhất định nào đó
theo một tiêu thức cố định nào đó (ví dụ, theo tiền lương). Nhóm có thu nhập cao
đóng cao hơn so với nhóm có thu nhập thấp, hay nói cách khác ở đây có sự bao cấp
chéo giữa nhóm có thu nhập cao cho nhóm có thu nhập thấp, không tính đến yếu tố


8

rủi ro như tình trạng bệnh tật, tuổi tác của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, ở góc độ cá
nhân, cũng có sự phân phối lại giữa các quãng thời gian trong mỗi cuộc đời của cá
nhân. Lúc trẻ, khỏe ít tiêu dùng dịch vụ sức khỏe, lúc già yếu sẽ có thể phải sử dụng
rất nhiều dịch vụ sức khỏe, không loại trừ nguy cơ mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh
mãn tính. Có thể nói công cụ điều tiết xã hội này giúp thể hiện tính nhân văn và tính
xã hội sâu sắc (Nguyễn Khang, 2014).
Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe người dân. Thật vậy,
nếu không có nhà nước đứng ra tổ chức, điều tiết quỹ BHYT, chắc chắn người
nghèo, người yếu thế khó có cơ hội được tiếp cận với dịch vụ y tế bình đẳng với
người giàu; không chắc thoát khỏi “bẫy nghèo” và dễ rơi vào nhóm loại trừ xã hội.
Nếu không đủ khả năng mua thẻ BHYT, không được tiếp cận với dịch vụ y tế một
cách phù hợp, hệ quả là không được KCB; đến cơ sở y tế quá chậm khi bệnh đã ở
giai đoạn muộn; không đến được với tuyến y tế chuyên môn phù hợp; thậm chí có
thể hoàn toàn không dám đi khám bệnh, chữa bệnh (Nguyễn Khang, 2014).
Góp phần chuẩn hóa chất lượng dịch vụ y tế, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực,
kiểm soát sự gia tăng chi phí KCB. Thị trường y tế mang tính độc quyền tương đối
cao, việc sử dụng dịch vụ y tế phần lớn phụ thuộc vào chỉ định của bác sĩ, người
bệnh ít có khả năng tự bảo vệ mình, nếu không có nhà nước đứng ra tổ chức, chuẩn
hóa quyền lợi và đại diện cho người bệnh giám sát cơ sở y tế thì không đảm bảo
công bằng trong KCB (Nguyễn Khang, 2014).
Làm giảm mâu thuẫn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Cho đến nay, bất
bình đẳng xã hội về thu nhập vẫn đang là một thách thức toàn cầu. Luôn tồn tại

những người nghèo không thể tự lo cho mình khi không may gặp biến cố như lũ lụt,
bệnh tật. Mâu thuẫn xã hội dễ dàng phát sinh khi một bộ phận không nhỏ dân cư
không có khả năng tiếp cận dịch vụ y tế. Do vậy, nhà nước luôn là chủ thể chủ động
điều tiết, nhằm đảm bảo cho người nghèo, yếu thế được chăm sóc sức khỏe (hình
thức mua BHYT cho người nghèo); đồng thời duy trì các chuẩn mực trong khám,
chữa bệnh và thanh toán trong khám, chữa bệnh BHYT. Nhà nước chủ động sử
dụng BHYT như công cụ góp phần làm giảm mâu thuẫn xã hội – một trong những


9

nguyên nhân dẫn đến đến bạo lực xã hội (người giàu được chăm sóc y tế, người
nghèo không được chăm sóc y tế) (Nguyễn Khang, 2014).
2.1.3 Phương thức BHYT
Theo Hồ Sĩ Sà (2000), căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí KCB cho người
có thẻ BHYT, BHYT có thể được phân ra làm ba nhóm:
(i) BHYT trọn gói: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu
trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT;
(ii) BHYT trọn gói, trừ các đại phẫu thuật: là phương thức BHYT trong đó cơ
quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT
cho người được BHYT, trừ các chi phí y tế cho các cuộc đại phẫu thuật (theo quy
định của cơ quan y tế);
(iii) BHYT thông thường: là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ
quan BHYT được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của người được
BHYT.
Đối với các nước phát triển, mức sống dân cư cao, hoạt động BHYT có từ lâu
và phát triển, có thể thực hiện BHYT theo cả ba phương thức trên. Đối với các nước
nghèo, mới triển khai hoạt động BHYT thường áp dụng phương thức BHYT thông
thường.
Đối với phương thức BHYT thông thường, có hai hình thức tham gia bảo hiểm,

đó là BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện. BHYT bắt buộc thực hiện một số đối
tượng nhất định trong các văn bản về bảo hiểm. Dù muốn hay không, những người
thuộc đối tượng này đều phải tham gia BHYT. Số còn lại (không thuộc nhóm đối
tượng bắt buộc), tùy theo nhu cầu và khả năng có thể tham gia BHYT tự nguyện.
Hiện nay ở Việt Nam, tồn tại các loại BHYT như BHYT bắt buộc, BHYT
miễn phí, BHYT cho học sinh sinh viên, BHYT tự nguyện. BHYT bắt buộc được áp
dụng đối với người lao động trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người về
hưu. BHYT miễn phí được nhà nước cấp miễn phí cho các nhóm đối tượng nghèo,
dân tộc thiểu số, gia đình chính sách và trẻ em dưới 6 tuổi. BHYT học sinh, sinh
viên áp dụng cho các đối tượng học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường học


10

thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. BHYT tự nguyện dành cho các đối tượng còn lại
không thuộc các đối tượng trên (Luật BHYT, 2008; Cuong Viet Nguyen, 2011).
Mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công
hàng tháng; tiền lương hưu, tiền trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng hoặc theo mức
lương cơ sở hiện hành. Hiện nay, đối với loại hình tham gia BHYT tự nguyện hộ gia
đình thì mức đóng là 4,5% trên mức lương cở sở hiện hành (621.000
đồng/người/năm), đồng thời cũng được nhà nước khuyến khích nếu mua BHYT cho
cả hộ (trừ những người đã có thẻ BHYT bắt buộc) thì được giảm mức đóng từ thành
viên thức hai trở đi 2. Tuy nhiên, việc khuyến khích này của Nhà nước vẫn chưa
phát huy hiệu quả trong thực tế. Theo Viện Nghiên cứu lập pháp (2013) cho rằng,
việc tham gia BHYT của nước ta đang theo tâm lý ngược chiều: chỉ khi ốm hoặc
sắp ốm, người dân mới thấy xuất hiện nhu cầu mua thẻ BHYT.
2.1.4 Quỹ BHYT
Quỹ BHYT là một quỹ tài chính có quy mô phụ thuộc vào số lượng thành viên
đóng góp và mức độ đóng góp vào quỹ của các thành viên đó. Thông thường, với
mục đích nhân đạo, không đặt mục đích kinh doanh lên hàng đầu, quỹ BHYT được

hình thành chủ yếu từ hai nguồn chính là do người sử dụng lao động và người lao
động đóng góp (tỷ lệ đóng góp của hai bên được quy định cụ thể trong từng giai
đoạn lịch sử khác nhau của mỗi quốc gia là không giống nhau) hoặc chỉ do đóng
góp của người tham gia BHYT (Hồ Sĩ Sà, 2000).
Tại Việt Nam, quỹ BHYT là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng
BHYT và các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí khám bệnh,
chữa bệnh cho người tham gia BHYT (chiếm 90% quỹ), chi phí quản lý bộ máy của
tổ chức bảo hiểm y tế và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan đến BHYT
(chiếm 10% quỹ). Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh
bạch, đảm bảo cân đối thu, chi và được nhà nước bảo hộ (Luật BHYT, 2008).

2

Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014.


11

2.1.5 Mức hưởng BHYT
Theo Hồ Sĩ Sà (2000) cho rằng những nước đang phát triển, mới triển khai
hoạt động BHYT thường áp dụng phương thức BHYT thông thường, là phương
thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng với
trách nhiệm và nghĩa vụ của người được BHYT. Chính vì thế, BHYT Việt Nam
cũng áp dụng theo hình đó, gồm thanh toán 100% chi phí KCB BHYT và hình thức
người được BHYT cùng chi trả với cơ quan BHYT tùy theo từng đối tượng tham
gia (Luật BHYT sửa đổi, bổ sung, 2014), cụ thể như:
i) Đối với mức thanh toán 100%, chi phí KCB được áp dụng cho các đối
tượng như quân đội, công an, người có công với cách mạng, trẻ em dưới 6 tuổi, bảo
trợ xã hội, hộ nghèo, thân nhân người có công và con liệt sĩ.

ii) Với mức thanh toán 95%, cơ quan BHYT chi trả 95% và người được
BHYT cùng trả 5% trong tổng chi phí KCB. Bao gồm các đối tượng hưu trí, mất
sức lao động, hộ cận nghèo.
iii) Và mức thanh toán 80%: Cơ quan BHYT chi trả 80% và người được
BHYT cùng trả 20% trong tổng chi phí KCB. Mức thanh toán này áp dụng cho tất
cả các đối tượng còn lại.
2.2 Lý thuyết nền tảng
2.2.1 Lý thuyết thông tin bất cân xứng
Những vấn đề liên quan đến thông tin bất cân xứng về chất lượng sản phẩm
được George Akerlof phân tích đầu tiên vào tháng 8 năm 1970 trong tác phẩm The
market for “Lemons”: Quality Uncertainty and The Market Mechanism (Pindyck
và Rubinfeld, 1999). Trong bài nghiên cứu, tác giả đề cập đến việc xem xét thị
trường mua bán xe ô tô đã qua sử dụng (những loại xe này thuộc hàng hóa không
hoàn hảo). Trong thị trường này có xe ô tô chất lượng còn tốt thì được gọi là “cherry
– quả đào” và xe chất lượng xấu gọi là “lemons – quả chanh”.
Giả định rằng giá thị trường hợp lý cho một xe loại tốt là 10.000 USD và xe
loại xấu là 1000 USD, giả thiết xác suất để mua được một chiếc xe tốt và xe xấu là
bằng nhau. Có một điểm quan trọng trong thị trường xe ô tô đã qua sử dụng: những


12

người bán thì biết được chất lượng xe nào là tốt và xe nào là xấu, trong khi thông tin
này người mua lại không biết. Đây chính là cơ sở của thông tin bất đối xứng.
Chính vì người mua không biết được giá trị thật của xe, nên chỉ chấp nhận
mua xe ở mức giá trung bình không quá 5.500 USD. Mức giá này sẽ thấp hơn giá trị
thực của một xe tốt. Những người sở hữu xe tốt sẽ rời khỏi thị trường do mức giá
được trả thấp hơn giá trị thực của xe, trong khi đó những người sở hữu xe chất
lượng xấu sẵn sàng bán với mức giá này. Cứ tiếp tục như thế, trên thị trường sẽ
không còn tồn tại xe tốt, thay vào đó là những chiếc xe xấu nhất.

Akerlof kết luận, với thông tin bất cân xứng, thị trường có thể thất bại thảm
hại tới mức chỉ còn toàn hàng xấu, hoặc tệ hơn, thị trường đó sẽ không còn tồn tại.
Hệ quả của thông tin bất cân xứng
Theo Pindyck và Rubinfeld (1999), Jha và Baker (2012) cho rằng thông tin bất
cân xứng là một thất bại của thị trường, nó gây ra các hệ quả là lựa chọn ngược và
rủi ro đạo đức.
Lựa chọn ngược (Adverse selection): Lựa chọn ngược xảy ra khi trong một
thị trường, người bán hoặc người mua biết rõ hơn về tính chất sản phẩm, mà đối
tượng kia không biết. Người mua chỉ có thể thấy được hình thức bên ngoài và
những thông tin về chất lượng do người bán cung cấp mà không thể thấy được chất
lượng thật sự bên trong, dẫn đến việc có thể chọn phải các sản phẩm có chất lượng
thấp (Pindyck và Rubinfeld, 1999).
Rủi ro đạo đức (Moral hazard): Rủi ro đạo đức là hiện tượng một người có
hành động mà người khác không thể quan sát được có xu hướng gian dối, không
trung thực hay biểu hiện những hành vi không tốt. Rủi ro đạo đức xảy ra khi một cá
nhân hay một tập thể không chịu toàn bộ trách nhiệm hay hậu quả cho việc làm của
mình, và vì vậy có biểu hiện ít cẩn thận hơn, và làm cho người khác phải chịu một
phần trách nhiệm hay hậu quả việc làm của mình (Pindyck và Rubinfeld, 1999).
Theo Pindyck và Rubinfeld (1999), những phân tích của Akerlof không chỉ bó
gọn trong thị trường xe ô tô dùng rồi mà còn ở cả thị trường bảo hiểm, tín dụng, tài
chính và thậm chí cả thị trường lao động cũng đều mang đặc trưng của thông tin bất


13

đối xứng về chất lượng.
2.2.2 Lý thuyết thông tin bất cân xứng trong tham gia BHYT
Các thị trường bảo hiểm thường liên quan đến tình trạng thông tin bất cân
xứng, bởi vì bên được bảo hiểm có thông tin về những rủi ro đi kèm rõ hơn công ty
bảo hiểm. Điều này có thể dẫn đến tới sự lựa chọn ngược mà ở đó những người gặp

nhiều rủi ro sẽ lựa chọn mua bảo hiểm còn những người ít gặp rủi ro sẽ không mua
bảo hiểm. Một vấn đề khác của các thị trường bảo hiểm đó là rủi ro đạo đức, trong
đó bên được bảo hiểm bất cẩn hơn trong việc phòng tránh tổn thất sau khi đã mua
bảo hiểm (Pindyck và Rubinfeld,1999).
Lựa chọn ngược trong tham gia BHYT
Akerlof (1970) cho rằng việc lựa chọn ngược là khả năng hiện diện trong tất
cả các loại hình bảo hiểm. Lựa chọn ngược xuất hiện (hoặc ít nhất là có thể xuất
hiện) bất cứ khi nào các cá nhân hoặc nhóm người được bảo hiểm có quyền tự do để
mua hay không mua, chọn số tiền hoặc kế hoạch bảo hiểm. Ông đưa ra một thực tế
nổi tiếng mà mọi người trên 65 tuổi có nhiều khó khăn trong việc mua bảo hiểm y
tế.
Câu hỏi đặt ra là tại sao những người trên 65 tuổi lại rất khó khăn khi mua bảo
hiểm y tế, cho dù phí bảo hiểm có bằng bao nhiêu? Những người già hơn thường có
xác suất bị ốm nặng cao hơn rất nhiều, nhưng tại sao phí bảo hiểm không tăng để
phản ánh đúng mức rủi ro cao hơn đó? Lý do chính là có tình trạng thông tin không
tương xứng. Kết quả là sẽ có hiện tượng lựa chọn ngược. Do những người hay ốm
đau thường muốn bảo hiểm nhiều hơn nên tỷ lệ người hay ốm đau trong số những
người mua bảo hiểm sẽ tăng lên. Việc này sẽ buộc phí bảo hiểm phải tăng, do đó sẽ
có nhiều người khỏe mạnh sẽ nhận ra việc họ có khả năng ít bị bệnh nặng và lựa
chọn không mua bảo hiểm. Điều này lại cứ tiếp tục làm tăng tỷ lệ người hay ốm đau,
làm phí bảo hiểm lại phải tăng cao và cứ như vậy cho đến khi gần như tất cả những
người muốn mua bảo hiểm đều là những người hay ốm đau (Pindyck và
Rubinfeld,1999).
Những sự thất bại này của thị trường đã đưa đến vai trò của chính phủ. Đối với


14

BHYT, đây là một chính sách thể hiện tính nhân đạo của nhà nước Việt Nam trong
việc chăm lo sức khỏe cho người dân, do đó thực hiện bán BHYT không vì mục

đích lợi nhuận, nên việc tăng mức phí không thể áp dụng như đối với những công ty
kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy, luật BHYT đã đưa ra nhiều hình thức tham gia BHYT:
BHYT bắt buộc, miễn phí, tự nguyện để mở rộng đối tượng tham gia, để có sự chia
sẻ rủi ro giữa người mạnh khỏe và người đau ốm. Đối với hình thức BHYT tự
nguyện, nhà nước cũng vận động mua BHYT theo hộ gia đình bằng cách giảm mức
đóng từ thành viên thứ hai trở đi (Luật BHYT, 2008 và Luật BHYT sửa đổi, bổ
sung, 2014) nếu tham gia cho cả hộ gia đình. Tuy nhiên, tỷ lệ người tham gia theo
hình thức này vẫn còn rất thấp, chưa đạt được mục tiêu BHYT toàn dân. Ở một đất
nước đang phát triển như Việt Nam, nơi mà các hệ thống giám sát vẫn còn trong
giai đoạn trứng nước, buộc người dân phải mua bảo hiểm không phải là dễ dàng nếu
họ không hài lòng về chính sách (Minh et al, 2012).
Rủi ro đạo đức trong BHYT
Thị trường BHYT dễ có nguy cơ rủi ro đạo đức, đặc biệt là những rủi ro cao
trong một thị trường không được kiểm soát, nơi không có quy định về chi phí và số
lượng chăm sóc để được cung cấp (Bhat và Jain, 2006).
Khi một người được bảo hiểm toàn bộ và không thể bị giám sát chặt chẽ bởi
một công ty bảo hiểm có thông tin hạn chế thì hành vi của người đó có thể thay đổi
sau khi đã mua bảo hiểm. Rủi ro đạo đức xuất hiện khi một bên được bảo hiểm có
thể tác động tới xác suất hay mức độ xảy ra của một sự kiện sẽ được đền bù. Ví dụ,
nếu tôi có bảo hiểm toàn bộ, tôi sẽ đến khám bệnh thường xuyên hơn so với người
không có bảo hiểm (Pindyck và Rubinfeld,1999).
Để hạn chế rủi ro đạo đức, các công ty bảo hiểm bắt buộc tăng phí bảo hiểm,
tăng mức đồng chi trả hay thậm chí là từ chối bán bảo hiểm (Pindyck và
Rubinfeld,1999; Jha và Baker, 2012).
Tuy nhiên, BHYT do nhà nước Việt Nam thực hiện hướng đến mục tiêu mở
rộng phạm vi bao phủ về tham gia BHYT, phạm vi dịch vụ y tế được thụ hưởng và
giảm tỷ lệ chi trả từ tiền túi của người sử dụng dịch vụ y tế; bảo đảm quyền lợi của


15


người tham gia BHYT theo Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của Thủ
tướng Chính phủ. Chính vì thế, những người có thẻ BHYT thường trả một khoản
phí rất thấp (cùng chi trả từ 5% đến 20% chi phí KCB) so với người không có
BHYT khi sử dụng dịch vụ y tế. Mặt khác một số đối tượng như quân đội, công an,
người nghèo, bảo trợ xã hội, người có công và một số đối tượng khác thường không
phải thực hiện đồng chi trả khi khám bệnh bằng BHYT. Do đó, vấn đề rủi ro đạo
đức có thể vẫn tồn tại.
2.3 Tổng quan các nghiên cứu trước
2.3.1 Kiểm định lựa chọn ngược
Để kiểm định lựa chọn ngược trong việc tham gia BHYT, phần lớn các nghiên
cứu đều sử dụng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu về BHYT, trong đó các
tác giả sẽ xem xét nhân tố tình trạng sức khỏe và từ đó đi đến kết luận là có tồn tại
lựa chọn ngược trong tham gia BHYT hay không?
a) Vukina và Nestic (2008) nghiên cứu về thông tin bất cân xứng trong BHYT ở
Croatia
Trong nghiên cứu, tác giả dùng mô hình kinh tế lượng đơn giản để kiểm định sự
hiện diện của của vấn đề lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong chương trình bảo hiểm
y tế bổ sung. Tác giả đưa ra giả thiết là tồn tại lựa chọn ngược trong chương trình
BHYT bổ sung. Việc thực nghiệm giả thiết được ước lượng bằng mô hình Probit, với
biến phụ thuộc Y=1 hoặc 0 (nếu Y nhận giá trị 1 là người đó có mua BHYT bổ sung,
nếu nhận giá trị bằng 0 là không mua BHYT bổ sung).
Mô hình hình thứ nhất với các biến độc lập đưa vào là: giới tính, độ tuổi, tình
trạng hôn nhân, thành thị, giáo dục, nghề nghiệp, thu nhập. Mô hình thứ hai: ngoài các
biến như mô hình một còn có thêm biến tình trạng sức khỏe với các mức như “rất tốt”,
“tốt”, “ bình thường”, “xấu”, “rất xấu”.
Kết quả nghiên cứu: ở mức ý nghĩa 1%, người nữ có xác suất mua BHYT cao
hơn nam 4,8%. Người độc thân do góa bụa, ly dị hoặc ly thân có khả năng mua BHYT
tăng 6%. Người kết hôn thì khả năng mua BHYT cũng tăng 6% nhưng cao hơn một
chút so với người độc thân. Người thành thị và những người có học cũng có nhiều khả



16

năng mua BHYT bổ sung hơn so với người ở nông thôn và người chưa tốt nghiệp phổ
thông trung học. Mức thu nhập của mỗi người dân tăng thêm 1000 HRK (đơn vị tiền
của Croatia) mỗi tháng thì khả năng mua BHYT bổ sung tăng thêm khoảng 3%.
Các biến tình trạng sức khỏe có kỳ vọng dấu cũng chính xác và đều có ý nghĩa
thống kê ở mức 5%. Biến sức khỏe “tốt” làm tăng tăng xác suất mua BHYT 4,6%.
Biến sức khỏe “bình thường” làm tăng xác suất mua BHYT tới 13,5%. Tuy nhiên, biến
sức khỏe “xấu” lại gây ra xác suất để mua BHYT ít hơn 13,3%. Và cuối cùng là biến
sức khỏe “rất xấu” làm tăng xác suất mua BHYT thậm chí ít hơn 10,7%.
Tác giả kết luận vấn đề lựa chọn bất lợi trong chương trình BHYT bổ sung ở
Croatia là không đáng kể.
b) Bhat và Jain (2006) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu BHYT ở
Ấn Độ
Tác giả sử dụng mô hình Probit để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết
định mua BHYT. Mô hình hồi quy cho kết quả như sau: Ở mức ý nghĩa 10%, biến
“thu nhập” có ý nghĩa thống kê tác động tích cực lên quyết định mua BHYT, thu
nhập càng cao thì xác suất mua BHYT của hộ gia đình càng cao. Biến “Chi phí y tế
trên tổng chi phí của hộ gia đình” có ý nghĩa thống kê tác động tích cực lên quyết
định mua BHYT, chi phí y tế trên tổng chi phí của hộ gia đình càng cao thì xác suất
mua BHYT của hộ gia đình càng cao. Biến “tuổi” có ý nghĩa thống kê tác động tích
cực lên quyết định mua BHYT. Biến “Phạm vi bệnh tật được bảo hiểm” có ý nghĩa
thống kê tác động tích cực lên quyết định mua BHYT. Biến “Chi phí bệnh tật kỳ
vọng” có ý nghĩa thống kê tác động tích cực lên quyết định mua BHYT, hộ gia đình
kỳ vọng chi phí bệnh tật càng cao thì xác suất mua BHYT của họ càng cao. Biến
“Kiến thức về BH” có ý nghĩa thống kê tác động tích cực lên quyết định mua BHYT.
c) Wang et al (2006) nghiên cứu về sự lựa chọn ngược trong chương trình BHYT
tự nguyện ở nông thôn Trung Quốc

Nghiên cứu này đã được thực hiện bởi một tập hợp dữ liệu với tổng số mẫu
bao gồm 3492 người dân nông thôn từ 1020 hộ gia đình. Tác giả sử dụng phương
pháp hồi quy logistic để phân tích dữ liệu này.


17

Biến phụ thuộc Y là việc đăng ký mua BHYT (Y= 1 là có đăng ký mua BHYT,
0 là không đăng ký mua BHYT tự nguyện).
Biến độc lập gồm: Tình trạng sức khỏe được phân thành 3 loại: tốt, trung bình
và kém. Tác giả cũng đưa 2 câu hỏi để đánh giá tình trạng sức khỏe là: Câu 1 “Bạn
có gặp bất kỳ vấn đề nào về sức khỏe trong tháng trước khi phỏng vấn?”. Câu hỏi 2:
“Nếu bạn gặp bất kỳ vấn đề nào về sức khỏe trong tháng trước khi phỏng vấn, vấn
đề sức khỏe đó nghiêm trọng như thế nào?” với câu trả lời là “không nghiêm trọng”
hoặc “nghiêm trọng”. Các biến độc lập khác: tuổi, giới tính, quy mô hộ gia đình,
tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập, và khoảng cách từ nhà đến các
trung tâm ngôi làng, thị trấn và quận.
Kết quả hồi quy cho thấy người có sức khỏe kém hoặc trung bình tham gia
BHYT nhiều hơn gấp 2.59 và 1.26 lần so với người có sức khỏe tốt trong các hộ gia
đình đăng ký một phần. Vì vậy, nghiên cứu chỉ ra rằng việc lựa chọn bất lợi chủ yếu
đến từ các hộ gia đình ghi danh một phần. Ngoài ra, tuổi, tình trạng hôn nhân và
khoảng cách đến các trung tâm ngôi làng, thị trấn và quận cũng có ý nghĩa thống kê.
d) Nguyễn Văn Ngãi và Nguyễn Thị Cẩm Hồng (2012) nghiên cứu thông tin bất
đối xứng trong thị trường BHYT tự nguyện ở tỉnh Đồng Tháp
Tác giả sử dụng số liệu nghiên cứu là số liệu sơ cấp với tổng số quan sát là 150
người đang đi khám bệnh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Tháp.
Tác giả sử dụng mô hình xác suất với biến phụ thuộc Y là mua hay không mua
bảo hiểm (Y=1: mua, Y=0: không mua). Các biến độc lập bao gồm tình trạng sức khỏe
trước khi mua BHYT (rất tốt, tốt, trung bình, xấu, rất xấu), thu nhập bình quân, giới
tính, tuổi, tình trạng hôn nhân, mức độ tin tưởng vào chính sách BHYT, học vấn, nghề

nghiệp. Kết quả cho thấy các biến sức khỏe trung bình, xấu, rất xấu đều có ý nghĩa
thống kê với mức ý nghĩa 5% và hệ số tác động dương, còn biến sức khỏe tốt không có
ý nghĩa. Tác giả kết luận có tồn tại lựa chọn ngược trong thị trường BHYT tự nguyện
của Đồng Tháp khi người có sức khỏe kém có xác suất mua BHYT tự nguyện cao hơn
người có sức khỏe tốt và rất tốt.


×