Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 100 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


NGUYỄN THỊ HẠNH


LỰA CHỌN NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Ngọc Thanh






Hà nội - 2004






Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

1


LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG 1
8
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG, LỰA CHỌN
NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
8
1.1
KHÁI NIỆM VỀ THÔNG TIN VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
8
1.1.1 Thông tin là gì? 8
1.1.2 Vai trò của thông tin đối với hoạt động ngân hàng 10
1.2 THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG
12
1.2.1 Lựa chọn nghịch 12
1.2.2 Rủi ro đạo đức 13
1.2.3 Các giải pháp cho vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức
16
1.3 KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
22
1.3.1 Những vụ phá sản các ngân hàng ở Mỹ 23

1.3.2 Kinh nghiệm của Mêhicô những năm 1994 - 1995 30
1.3.3 Khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á 35
CHƯƠNG 2
38
THỰC TRẠNG LỰA CHỌN NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC
38
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
38
2.1 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
38
2.1.1 Giai đoạn từ 1975- 1988 38
2.1.2 Giai đoạn từ 1988 đến nay 40
2.1.3 Một số vấn đề còn tồn tại trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay 45
2.2 VẤN ĐỀ LỰA CHỌN NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG Ở
VIỆT NAM
48
2.2.1 Một số vụ việc liên quan đến lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức 48
2.2.2 Nguyên nhân của các vụ việc trên 53
2.2.3 Tác hại và hậu quả của lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức đối với ngân hàng và nền kinh
tế 62
2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG TỪ NĂM 1988 ĐẾN NAY
67
2.3.1 Những thành tựu đã đạt được 67
2.3.2 Một số hạn chế 69
CHƯƠNG 3
71
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

2



PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU LỰA CHỌN NGHỊCH VÀ RỦI RO 71
ĐẠO ĐỨC TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỚI 71
3.1 BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NHTM VN
71
3.1.1 Bối cảnh của hội nhập quốc tế về tài chính, NH hiện nay trên thế giới 71
3.1.2 Cơ hội và thách thức từ việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với ngành ngân hàng Việt
Nam 75
3.2 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LỰA CHỌN NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN TỚI
80
3.2.1 Phương hướng 80
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

1


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử kinh doanh ngân hàng trên thế giới luôn được chứng kiến
những vụ sụp đổ của hệ thống tài chính cũng như việc phá sản của hàng loạt
các ngân hàng. Một nguyên nhân dẫn tới những đổ vỡ trên đó là sự lựa chọn
nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng. Lựa chọn nghịch, rủi ro
đạo đức đều bắt nguồn từ việc thiếu thông tin và thông tin không cân xứng.
Các ngân hàng luôn ở trong tình trạng thông tin tản mạn, thông tin không đầy
đủ, không chính xác và cập nhật cho việc quản lý. Ngân hàng thiếu thông tin

minh bạch về tình hình tài chính của khách hàng. Các báo cáo tài chính mà
khách hàng cung cấp cho ngân hàng không chính xác. Như vậy, thông tin đối
với hoạt động ngân hàng là rất quan trọng, việc thiếu thông tin, thông tin
không cân xứng có thể làm các ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro và dẫn
đến phá sản hệ thống ngân hàng. Ngân hàng là trung gian tài chính, huy động
vốn và cung cấp vốn cho nền kinh tế, nếu hệ thống này không lành mạnh thì
tất yếu sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
Vậy lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng là
gì? Tác hại của chúng đối với hệ thống ngân hàng như thế nào? Làm thế nào
để giảm thiểu lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng?
Có vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng ở
Việt Nam từ khi hình thành hệ thống NH hai cấp từ năm 1988 đến nay hay
không? Hai vấn đề này có là một trong những nguyên nhân của sự sụp đổ hệ
thống tín dụng đầu những năm 90 và một số vụ việc nổi cộm trong ngành
ngân hàng như Epco - Minh Phụng, v.v. hay không? Để trả lời những câu hỏi
trên tôi đã chọn đề tài “Lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh
doanh ngân hàng ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

2



2. Tình hình nghiên cứu
Tiền tệ và Ngân hàng là vấn đề được các nhà kinh tế học rất quan tâm.
Hoạt động của ngân hàng (NH) được đề cập trong các giáo trình Quản trị
ngân hàng thương mại của Peter S.Rose, giáo trình Tiền tệ ngân hàng và thị
trường tài chính của Fredric Minskin, v.v. Việt Nam cũng có nhiều giáo trình

đề cập đến hoạt động và nghiệp vụ của NH, tác phẩm Tiền và hoạt động
ngân hàng của PTS Lê Vinh Danh hay Đánh giá và phòng ngừa rủi ro
trong kinh doanh ngân hàng của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến (Học Viện Ngân
Hàng). Bên cạnh đó cũng có nhiều Luận án và các công trình nghiên cứu về
ngân hàng như Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế của tác giả Nguyễn Thị
Phương Lan đề tài: Một số vấn đề về rủi ro ngân hàng trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế của tác giả Nguyễn
Hữu Thuỷ với đề tài: Những giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro tín dụng ngân
hàng thương mại ở nước ta hiện nay, Tác giả Hoàng Ngọc Tín với đề tài: Tín
dụng ngân hàng trong nền kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay, v.v. Có rất
nhiều để tài cũng như các công trình nghiên cứu cấp ngành như đề tài: Thiết
lập các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh và đảm bảo an toàn trong hoạt
động của NHTM Việt Nam do tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa chủ nhiệm đề tài, hay đề
tài: Những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức hoạt động kiểm soát, kiểm toán
đối với ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng ở Việt Nam do Tiến sĩ
Nguyễn Văn Giàu nguyên phó thống đốc ngân hàng nhà nước làm chủ nhiệm,
v.v. Phần lớn các đề tài trên đề cập đến những vấn đề như hoạt động huy động
vốn, lãi suất, rủi ro tín dụng, bảo hiểm tín dụng và công nghệ ngân hàng, v.v.
Việc nghiên cứu cũng như các đề tài đi sâu tìm hiểu về lý thuyết và thực tế
lựa chọn nghịch, rủi ro đạo đức, thông tin không cân xứng thì hầu như rất ít
và chưa được đề cập đến đặc biệt là đối với hệ thống NHTM ở Việt Nam.
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

3




3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

 Nghiên cứu khái quát những vấn đề lý thuyết về thông tin không cân
xứng, lựa chọn nghịch, rủi ro đạo đức, và kinh nghiệm của một số
nước về vấn đề này.
 Làm rõ tình hình và đánh giá thực trạng của vấn đề lựa chọn nghịch
và rủi ro đạo đức trong kinh doanh NH ở Việt Nam.
 Đề ra các giải pháp để phòng ngừa và giảm thiểu vấn đề lựa chọn
nghịch và rủi ro đạo đức hiện nay trong kinh doanh ngân hàng ở
Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong hệ thống NH Việt
Nam.
 Tập trung vào cơ chế hoạt động (chủ yếu là hoạt động cho vay) và
một số vụ việc điển hình trong hệ thống NH Việt Nam: Sự đổ vỡ
trong hệ thống tín dụng nhân dân đầu những năm 1989 -1990. Các
vụ chiếm dụng, lừa đảo vốn NH những năm gần đây.
 Phạm vi giới hạn trong quá trình đổi mới hệ thống NHVN từ 1988
đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn sử dụng phương pháp
chung trong nghiên cứu kinh tế chính trị là phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

4


Luận văn đặc biệt chú ý tới phương pháp logic kết hợp với lịch

sử, phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp, phương pháp thống
kê, v.v.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
 Hệ thống hóa những khía cạnh lý luận về thông tin không cân xứng,
lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng.
 Trả lời câu hỏi: có hay không vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro đạo
đức trong hệ thống NH Việt Nam? Vai trò của hai vấn đề trên đối
với sự sụp đổ của hệ thống tín dụng những năm 1989 -1990 và một
số vụ việc nổi cộm trong ngành NH trong thời gian qua như thế
nào?
 Đưa ra một số giải pháp cơ bản góp phần phòng ngừa và giảm thiểu
lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh doanh NH ở Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về thông tin không cân xứng, lựa chọn
nghịch và rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng
Chương 2. Thực trạng lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam
Chương 3. Phương hướng và giải pháp giảm thiểu lựa chọn nghịch và
rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam trong giai đoạn tới






Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế


5



CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÔNG TIN KHÔNG CÂN
XỨNG, LỰA CHỌN NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC
TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1

KHÁI NIỆM VỀ THÔNG TIN VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1.1 Thông tin là gì?
Thông tin là huyết mạch của mọi nền kinh tế. Tại những nước có nền
kinh tế truyền thống, thông tin được trao đổi dưới dạng tiếp xúc cá nhân,
thông tin được truyền từ người này đến người khác và nó chỉ có giới hạn
trong phạm vi làng xã, thôn xóm. Nhưng khi các quốc gia phát triển, cơ chế
truyền thống này bắt đầu bị phá vỡ. Người dân di chuyển từ làng này sang
làng khác, từ làng ra thị xã, từ thị xã ra thành phố, v.v. để thích nghi với công
việc thương mại và buôn bán. Dần dần, ngoài giao dịch với hàng xóm họ còn
giao dịch với người lạ. Trong những môi trường mới này, dòng trao đổi thông
tin truyền thống dựa trên các mối quan hệ quen biết phải được thay thế. Để
tồn tại và phát triển trong những môi trường mới này thông tin trở nên vô
cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân. Trong các giao dịch buôn bán thường
người mua rất muốn biết về chất lượng sản phẩm mà mình chọn mua có được
như họ mong muốn không. Và như thế ở giao dịch này những người tham gia
rất muốn có thông tin về chất lượng, để tạo ra các thông tin về chất lượng thì
rất tốn kém nhưng việc chia sẻ nó thì lại rẻ. Trong các cộng đồng khép kín
thông tin về chất lượng được truyền bá bằng miệng. Người mua có thể nhận
dạng và nhớ người cung cấp hàng kém phẩm chất và cảnh báo cho hàng xóm
về người cung cấp đó. Khi một ông chủ muốn thuê một nhân công thì ông ta

rất muốn biết người nhân công này có mạnh khỏe không, có chăm chỉ lao
động không, v.v. những vấn đề như vậy được gọi là thông tin.
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

6


Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thông tin, nhưng xét về mặt bản
chất và tác dụng của thông tin có thể đưa ra một số khái niệm chung nhất về
thông tin: Thông tin là một phạm trù khoa học, là những thông báo về một đối
tượng khách quan, nó phản ánh về mặt số lượng và chất lượng những đặc tính
của các đối tượng hiện thực, hay khả năng trong một không gian thời gian
nhất định. Theo các nhà khoa học thông tin có năm đặc điểm cơ bản sau:
- Thông tin bao giờ cũng thuộc về hệ thống nhất định, và mỗi hệ thống
bao giờ cũng cần những thông tin và nguồn thông tin nhất định. Như
vậy, hệ thống và thông tin là một cặp phạm trù biện chứng.
- Thông tin được dẫn truyền và bảo quản lưu giữ trên những vật “vật
mang tin” khác nhau. Do đó, xuất hiện khái niệm: “tin được mang” và
“vật mang tin” là một cặp phạm trù biện chứng.
- Thông tin bao giờ cũng xuất hiện trong mối quan hệ phức tạp của vật
chất, trong mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực, giữa cái xác định
và cái không xác định, giữa cái tính toán được và cái không tính toán
được.
- Thông tin chỉ tồn tại và xuất hiện trong một quá trình nhất định.
- Thông tin là một đặc điểm chung của vật chất.
Cho đến nay, cùng với sự phát triển của xã hội thông tin được xem như
một hàng hóa và để có được thông tin về một vấn đề nào đó đôi khi chúng ta
phải trả những khoản chi phí vô cùng lớn.
Theo một định nghĩa căn bản: “thông tin là một hàng hóa công cộng”.

Đã là hàng hóa công cộng thì nó sẽ mang hai đặc tính cơ bản của một hàng
hóa công cộng thuần tuý:
- Thứ nhất: tiêu dùng không làm hao hụt (khi một người tiêu dùng hàng
hóa này thì không làm giảm tiêu dùng của người khác).
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

7


- Thứ hai: tính không loại trừ (không thể, hay rất tốn kém để loại bỏ bất
kỳ người nào khỏi việc hưởng lợi ích của hàng hóa công cộng).
Các nền kinh tế thị trường cạnh tranh thường không cung cấp đầy đủ
hàng hóa công cộng - trong đó có thông tin. Do những khó khăn của việc
phân bổ những khoản lợi nhuận cho thông tin, nên thường xuất hiện vấn đề
người ăn theo (hay người đi xe không mất tiền) với việc có được thông tin,
tức là những người khác được hưởng lợi từ những thông tin mà một cá nhân
có được.
Sự quan trọng của thông tin không phải ở chỗ con người cần có nó để
hoạt động hay là số lượng thông tin ít hay nhiều mà do chính đặc điểm không
bình đẳng của thông tin làm thay đổi vấn đề. Đặc điểm đó là, thứ nhất thông
tin là đa nguyên, là tản mát từ mọi thành phần mà không một cá thể nào tự
nhiên có thể thu thập tất cả mọi thông tin, thứ hai thị trường không bao giờ
hoàn toàn đầy đủ, thứ ba sự phân bổ thông tin nhiều khi không đối xứng.

1.1.2 Vai trò của thông tin đối với hoạt động ngân hàng
Thông tin đóng vai trò to lớn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân
hàng. Các vấn đề của thông tin với tư cánh là một hàng hóa công cộng phát
sinh trong ít nhất hai bối cảnh của thị trường tài chính: thông tin về khả năng
thanh toán của các định chế tài chính, mà chắc chắn là rất có giá trị đối với

những người đầu tư (hay người gửi tiền) đang cân nhắc việc uỷ thác tiền của
mình hay rút tiền ra từ một định chế tài chính cụ thể nào đó: và thông tin về
ban quản lý của những định chế này, loại thông tin tác động tới rủi ro và lợi
nhuận của các khoản đầu tư.
Thông tin trong hệ thống tài chính tức là cung cấp cho các tổ chức tài
chính, ngân hàng các thông tin về khách hàng của họ cũng như việc tìm kiếm
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

8


thêm những khách hàng mới để cấp tín dụng. Thông tin cũng giúp cho người
gửi tiền có lòng tin đối với ngân hàng nơi mà họ quyết định gửi tiền.
Chính vì vậy mà thông tin tín dụng mang nhiều đặc trưng riêng: đa
dạng, cập nhật, biến đổi nhanh, phức tạp, mang tính kinh doanh có độ rủi ro
cao. Bên cạnh đó thông tin tín dụng không chỉ là những thông tin dùng riêng
trong tín dụng ngân hàng, mà còn dùng để phân tích các chỉ số về phát triển
ngành nghề, trình độ quản lý, tâm lý xã hội, v.v.
NHTM đóng vai trò “trái tim của nền kinh tế” và thông qua hoạt động
tín dụng nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên đến tất cả các tổ chức kinh
tế. Do đó, nếu NH gặp phải rủi ro, tất yếu sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đối với
nền kinh tế và đời sống xã hội. Đối với các hoạt động của NH thì thông tin có
vai trò vô cùng quan trọng, vì hoạt động của NH liên quan đến những đồng
tiền hôm nay để có những hứa hẹn đến những đồng tiền trong tương lai, nên
luôn tiềm ẩn rủi ro vỡ nợ, và những thông tin về khả năng hoàn trả của người
vay trong tương lai là rất quan trọng. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề
trong hệ thống tài chính ở hai mặt: trước khi cuộc giao địch diễn ra và sau khi
cuộc giao dịch diễn ra.
Như chúng ta đã biết, giao dịch trên thị trường tài chính thông qua các

trung gian ngân hàng thực chất là những hợp đồng điều chuyển vốn từ người
tiết kiệm (người gửi tiền) sang người đầu tư (người đi vay). Trong quan hệ tín
dụng này một bên thường không biết tất cả những gì cần biết về bên kia để có
những quyết định đúng đắn. Như vậy, một hạn chế lớn của thị trường tài
chính là thiếu thông tin. Sự thiếu hụt này đã tạo nên sự không cân bằng về
thông tin mà mỗi bên có được. Trong lý thuyết kinh tế, hiện tượng này được
gọi là thông tin không cân xứng.

1.2 THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

9


Trong hệ thống NH, thông tin không cân xứng có nghĩa là người gửi
tiền không nắm bắt được đầy đủ mọi thông tin về tình hình hoạt động của
ngân hàng mà mình gửi tiền cũng như ngân hàng không biết rõ về khả năng
chi trả và độ tin cậy của khách hàng vay tiền. Sự không cân bằng về thông
tin mà mỗi bên có đƣợc đƣợc gọi là thông tin không cân xứng. Thông tin
không cân xứng sẽ tạo ra hai hệ quả đó là vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro
đạo đức.

1.2.1 Lựa chọn nghịch
Lựa chọn nghịch (Adverse selection): là vấn đề thông tin không cân
xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch.
Lựa chọn nghịch xảy ra trong các giao dịch tín dụng khi những người
đi vay có rủi ro cao (tức là những dự án đầu tư của họ có độ rủi ro cao) là
những người tích cực đi vay, và do vậy họ có nhiều khả năng được NH chấp
nhận cho vay (họ được NH lựa chọn).

Do sự lựa chọn nghịch nên dễ dẫn đến khả năng các món cho vay được
thực hiện là những trường hợp rủi ro không trả được nợ, còn những trường
hợp bị từ chối, không cho vay lại là những trường hợp có thể trả được nợ.
Để hiểu rõ vấn đề lựa chọn nghịch xảy ra như thế nào, hãy giả sử NH
có hai khách hàng và NH có thể cho họ vay một món tiền - khách hàng thứ
nhất là A và khách hàng thứ hai là B. B là một người thận trọng, chỉ vay tiền
khi anh ta có một vụ đầu tư mà chắc chắn nó sẽ mang lại kết quả. Còn A thì
khác, anh ta là một người liều lĩnh, anh ta trù tính một kế hoạch làm giàu thật
nhanh để biến mình thành triệu phú nếu anh ta có thể vay được 1000 đôla để
đầu tư vào kế hoạch đó. Không may kế hoạch làm giàu thật nhanh đó, có độ
rủi ro cao, sẽ thất bại và A chắc chắn mất 1000 đôla.
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

10


Ai trong số hai người vay này sẽ nỗ lực nhất trong việc tìm đến NH để
hỏi vay? Tất nhiên là A bởi vì anh ta sẽ thu được rất nhiều tiền nếu cuộc đầu
tư đó thành công. Tuy vậy, có lẽ NH sẽ không muốn cho A vay vì cuộc đầu tư
của A có xác suất tồi tệ cao và A sẽ không có khả năng trả tiền cho NH.
Nếu NH biết rõ về hai khách hàng này, tức là NH có rất nhiều thông tin
về họ, lúc đó sẽ không có khó khăn gì, vì khi ấy NH biết rằng sẽ A không có
khả năng trả nợ trong trường hợp dự án đầu tư của anh ta thất bại và như vậy
NH sẽ không cho anh ta vay. Nếu giả sử rằng NH không biết rõ về hai khách
hàng này, rất có thể NH sẽ cho A vay tiền hơn là cho B vay vì chính A cố
gắng nỗ lực thuyết phục NH để được vay tiền. Do sự lựa chọn nghịch, NH có
thể quyết định không cho cả hai người này vay tiền, mặc dù có những lần B,
vốn là một người vay luôn có khả năng trả nợ, có thể cần một món vay cho
một dự án đầu tư có giá trị và chắc chắn dự án đầu tư này mang lại thành công

cho B.

1.2.2 Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức (Moral hazard): là vấn đề do thông tin không cân
xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra.
Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính xảy ra khi người cho vay
phải chịu rủi ro do người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt
(thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt
động này làm cho khoản tiền vay ít có khả năng được hoàn trả. Do rủi ro đạo
đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có thể quyết định
thôi không cho vay.
Để minh họa cho vấn đề này, hãy giả sử NH cho một khách hàng vay
một món tiền là 1000 đôla, người đi vay cần số tiền này để mua một máy
chuyên dùng cho công việc sản xuất của mình. Khi NH đã cho vay, người đi
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

11


vay có thể cầm khoản tiền này tới thẳng xới bạc hay tham gia vào những trò
chơi đỏ đen, chơi xổ số hoặc lôtô. Trong trường hợp anh ta thắng, khi đó anh
ta có khả năng trả lại NH món tiền là 1000 đôla và chi tiêu thả sức với phần
còn lại. Nhưng nếu anh ta thua, như thường xảy ra, thì NH không đòi được
tiền và tất cả những gì người đi vay mất chỉ là danh tiếng của họ. Nếu NH biết
sau khi có được món tiền của NH người vay đó sẽ dùng nó để cá cược hay
đánh bạc (sử dụng sai mục đích của việc vay tiền) thì NH sẽ không cho anh ta
vay, vấn đề ở đây cũng chính là sự thiếu thông tin hay thông tin không cân
xứng.
Thông tin không cân xứng trên thị trường tài chính là nguyên nhân phát

sinh ra rủi ro NH. Trong các nghiệp vụ của mình: khi thực hiện nghiệp vụ nợ
NH đóng vai trò người đi vay, khi thực hiện các nghiệp vụ có NH đóng vai trò
người cho vay. Như vậy, nếu có vấn đề thông tin không cân xứng trên thị
trường tài chính tất yếu sẽ phát sinh rủi ro NH. Chúng ta xem xét nhận định
này trên hai phương diện sau:
Khi đóng vai trò ngƣời đi vay: NH tạo nguồn vốn cho mình bằng
cách thu hút các nguồn tiền gửi, đi vay của các cá nhân và các tổ chức xã hội.
Nếu có đầy đủ thông tin về NH cũng như về nguồn vốn tự có, đội ngũ nhân
viên, các dịch vụ cung cấp, tình hình kinh doanh, khả năng thanh toán của
NH, v.v. các cá nhân cũng như tổ chức xã hội sẽ quyết định có gửi tiền tại NH
đó hay không? Ngược lại nếu thông tin về NH đó không đầy đủ, khi đó sự lựa
chọn nghịch sẽ xuất hiện, sẽ làm cản trở việc huy động vốn của NH, cho dù
NH hoàn toàn không có ý định thực hiện những kết cục không mong muốn.
Sự lựa chọn nghịch trong trường hợp này làm cho NH bị rủi ro vì không huy
động được vốn dẫn tới không đủ vốn hoạt động. Đối với NH nếu không có
một nguồn vốn dồi dào thì không thể mở rộng được hoạt động và khả năng
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

12


thanh toán sẽ gặp khó khăn, điều này đặt NH trước nguy cơ lớn hơn là có thể
đóng cửa hoặc vỡ nợ.
Mặt khác do thông tin không cân xứng, rủi ro đạo đức sẽ xảy ra. Giả sử
NH đã huy động được một nguồn vốn dồi dào. Để thu được lợi nhuận cao,
NH sẽ thực hiện những hoạt động mạo hiểm, dễ bị rủi ro như đầu tư vào các
cổ phiếu công ty, cho những người mạo hiểm vay tiền với mức lãi suất hứa
hẹn cao, tham gia kinh doanh hối đoái, bảo lãnh tín dụng cho những khách
hàng không đủ tin cậy, hoặc những người điều hành NH ôm gọn số tiền huy

động rồi bỏ trốn, v.v. Khi đó, rủi ro xảy ra số tiền bị mất mát quá lớn, vốn tự
có NH không bù đắp được, NH sẽ phá sản.
Khi đóng vai trò ngƣời cho vay: Vai trò là người cho vay biểu hiện ở
các tài sản có mà NH nắm giữ. Ngoài số dự trữ bắt buộc theo qui định, các
NH đều có xu hướng muốn giữ nhiều tài sản có sinh lợi càng tốt. Đó là chứng
khoán, các trái phiếu, các món cho vay, v.v. với lãi suất cao thấp khác nhau
nhưng tương xứng với độ rủi ro và tính thanh khoản của từng loại tài sản.
Nếu có đầy đủ thông tin cần thiết về các đối tượng cần đầu tư hoặc vay
tiền, NH sẽ quyết định dễ dàng trong việc có cho vay hay không. Nhưng thực
tế không suôn sẻ như vậy. Trên thị trường luôn tồn tại thông tin không cân
xứng giữa người đi vay và người cho vay. Do đó, sự lựa chọn nghịch đã làm
cho những người rất kém tín nhiệm (những người rất dễ không hoàn trả món
vay) lại là những người tích cực vay nhất. Nếu NH cho họ vay tiền NH sẽ
đứng trước nguy cơ rủi ro tín dụng lớn. Ngược lại, cũng do sự lo ngại về lựa
chọn nghịch NH chối bỏ các món vay mà khả năng sẽ hoàn trả đúng kỳ hạn
rất cao, và như vậy NH bỏ mất cơ hội kiếm lợi nhuận.
Cũng do thông tin không cân xứng, rủi ro đạo đức trên thị trường vay
nợ dễ xảy ra. Trên thị trường có rất nhiều người vay tiền có ý muốn thực hiện
những hoạt động không đạo đức (xét theo quan điểm của người cho vay). Một
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

13


khi những người này vay được tiền NH, họ có thể sẽ đầu tư vào những dự án
có độ rủi ro cao, những dự án khác hẳn với phương án xin vay trình với NH.
NH cho vay tiền sẽ bị đặt vào tình cảnh đứng trước nguy cơ bị rủi ro tín dụng.
Nếu NH không thận trọng trong việc thẩm định cho vay và không giám sát
chặt chẽ việc sử dụng vốn vay, rủi ro đạo đức trên thị trường sẽ đặt NH trước

nguy cơ rủi ro tín dụng rất lớn. Nhưng nếu NH quá thận trọng trước rủi ro đạo
đức mà đột ngột cắt đứt các hợp đồng tín dụng thì NH sẽ bị thiệt hại về lợi
nhuận và mất uy tín với khách hàng.
Vậy vấn đề đặt ra là làm sao để giảm thiểu và hạn chế sự lựa chọn
nghịch và rủi ro đạo đức.




1.2.3 Các giải pháp cho vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn nghịch
và rủi ro đạo đức
Như chúng ta đã biết thông tin không cân xứng sẽ tạo ra lựa chọn
nghịch trước khi cuộc giao dịch diễn ra và tạo ra rủi ro đạo đức sau khi cuộc
giao dịch diễn ra. Vấn đề thông tin không cân xứng luôn tồn tại như một
khuyết tật của thị trường, chúng ta không có thể loại bỏ chúng một cách hoàn
toàn mà chỉ có thể làm giảm thiểu chúng mà thôi. Một trong những cách làm
giảm thiểu vấn đề đó là:
- Tự sản xuất và bán thông tin: giải pháp cho vấn đề lựa chọn nghịch
và rủi ro đạo đức trong hệ thống NH là đưa ra các thị trường có tác dụng loại
bỏ thông tin không cân xứng và cho phép những người cung cấp vốn có thông
tin đầy đủ về những cá nhân hay những công ty cần tài trợ vốn cho các hoạt
động đầu tư của họ. Một cách để thu lượm thông tin này cho những người gửi
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

14


tiền và những người đi vay là có các công ty riêng thu thập và đưa ra thông
tin, thông tin này giúp phân biệt các công ty tốt các công ty tồi, và bán thông

tin này cho các NH, hay có thể bán nó cho những người mua chứng khoán.
Một ví dụ minh họa điển hình là ở Mỹ, những công ty như Standard and Poor,
Moody và Value Line tập hợp những thông tin về tình trạng các bảng quyết
toán của các công ty đó và về hoạt động đầu tư của họ, công bố các số liệu
này và bán nó cho người đặt mua là các cá nhân, các thư viện, và các trung
gian tài chính liên quan đến việc mua những chứng khoán. Hệ thống sản xuất
mua bán thông tin riêng này, tuy thế không giải quyết được một cách đầy đủ
vấn đề lựa chọn nghịch nói trên trong các thị trường chứng khoán bởi vì nó lại
xuất hiện vấn đề gọi là “vấn đề người đi xe không tốn tiền” (Free rider
problem). Vấn đề người đi xe không tốn tiền tức là khi những người không
chi tiền mua thông tin mà vẫn có thể hưởng lợi của thông tin mà người khác
đã mua. Khi đó các công ty sẽ không còn khả năng bán đủ lượng thông tin để
bù đắp vào chi phí thu thập và sản xuất nó. Khả năng thu lợi của các công ty
riêng nhờ vào bán thông tin yếu đi, nghĩa là có ít thông tin được sản xuất ra
hơn cho thị trường này, và như vậy vẫn tồn tại vấn đề lựa chọn nghịch.
- Điều hành của chính phủ để làm tăng thông tin: vấn đề người đi xe
không tốn tiền ngăn trở thị trường tư nhân sản xuất đủ thông tin để loại bỏ
thông tin không cân xứng. Liệu các thị trường tài chính có thể trông cậy vào
sự can thiệp của chính phủ? Chính phủ có thể sản xuất thông tin để giúp các
nhà đầu tư phân biệt những công ty tốt, công ty tồi và cung cấp miễn phí cho
công chúng? Vấn đề thông tin không cân xứng tạo ta lựa chọn nghịch và rủi
ro đạo đức trong các thị trường tài chính như vậy giúp giải thích vì sao các thị
trường tài chính nằm trong số những bộ phận điều hành một cách ngặt nghèo
nhất trong nền kinh tế. Quy chế của chính phủ để tăng lượng thông tin cho các
nhà đầu tư là cần thiết để giảm vấn đề lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức. Qui
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

15



chế chính phủ cũng chỉ làm giảm nhẹ vấn đề chứ không hoàn toàn loại bỏ
được nó. Các chính phủ ở mọi nước có những luật lệ bắt buộc các công ty
tuân thủ những nguyên tắc kế toán chuẩn là những nguyên tắc khiến cho việc
kiểm tra lợi tức dễ dàng hơn, và chính phủ cũng thông qua những luật lệ áp
đặt những hình phạt nghiêm khắc đối với những ai phạm tội gian lận che dấu
hay ăn cắp lợi nhuận. Tuy vậy, những biện pháp này sẽ chỉ hữu hiệu một
phần. Ngăn chặn được hình thức gian lận này là không phải dễ; những người
quản lý gian lận có ý muốn gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan chính phủ
phát hiện hoặc làm rõ vấn đề gian lận.
- Vật thế chấp: lựa chọn nghịch chỉ gây chở ngại cho hoạt động của
các thị trường tài chính nếu người cho vay chịu một tổn thất khi người đi vay
không thể thanh toán các món tiền vay và chịu vỡ nợ. Vật thế chấp là vật sở
hữu được cam kết trả cho người cho vay nếu người đi vay vỡ nợ, giúp giảm
được hậu quả của lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức vì nó làm cho người đi
vay thận trọng hơn với hành vi kinh doanh, đầu tư của mình và như vậy giảm
được tổn thất của người cho vay trong trường hợp có vỡ nợ. Nếu một người đi
vay bị vỡ nợ đối với một món vay, người cho vay có thể bán vật thế chấp và
dùng tiền thu được bù vào tổn thất ở món vay đó. Ví dụ, nếu bạn thất bại,
không thanh toán được món vay thế chấp của bạn, người cho bạn vay có thể
sở hữu ngôi nhà của bạn, bán công khai nó đi, và dùng món tiền thu được để
thanh toán dứt điểm cho món vay đó. Người cho vay dễ chấp nhận việc cho
vay có thế chấp, sự có mặt của lựa chọn nghịch trong các thị trường tài chính
giải thích vì sao vật thế chấp là một đặc điểm nổi bật của những hợp đồng nợ.
Tuy nhiên, các hợp đồng nợ đối với vấn đề rủi ro đạo đức có hai khả năng xảy
ra, nó cũng có thể làm giảm thiểu một phần rủi ro đạo đức nhưng mặt khác nó
cũng làm vấn đề rủi ro đạo đức dễ dàng xảy ra vì khi những người đi vay có
vật thế chấp cầm cố họ có thể sẽ tham gia vào những hoạt động mang lại rủi
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế


16


ro cao hơn và như vậy họ dễ bị phá sản và điều đó là không có lợi đối với nền
kinh tế.
- Giá trị tài sản ròng (net worth): hay còn gọi là vốn cổ phần (equity
capital) là hiệu số giữa tài sản có của một công ty (gồm những tài sản nó sở
hữu hoặc bị nợ) và tài sản nợ của nó (tài sản mà công ty nợ): giá trị tài sản
ròng có thể thực hiện vai trò tương tự như vật thế chấp. Nếu một công ty có
giá trị tài sản ròng cao, thì khi công ty thực hiện những cuộc đầu tư khiến
công ty bị thua lỗ và công ty phá sản thì lúc đó người cho công ty này vay tiền
đều có thể sở hữu giá trị tài sản ròng của công ty, bán nó đi và dùng tiền thu
được để bồi thường một số trong những tổn thất do món vay này gây ra.
Ngoài ra, một công ty càng có nhiều giá trị tài sản ròng, nó càng ít có khả
năng vỡ nợ bởi vì công ty này có một dự trữ tài sản có thể dùng để thanh toán
xong các món nợ của mình. Do đó, nếu những công ty đang đi tìm vay tiền
mà có giá trị tài sản ròng cao, thì việc lựa chọn nghịch sẽ ít quan trọng, và
những người cho vay sẽ sẵn lòng cho vay. Với vấn đề rủi ro đạo đức: khi một
người vay tiền có nhiều vốn bởi vì giá trị tài sản ròng của anh ta (hiệu số giữa
tài sản có và tài sản nợ của anh ta) lớn, thì ý muốn lao vào rủi ro đạo đức sẽ
giảm đi nhiều do nếu anh ta thực hiện những vụ làm ăn thiếu đạo đức, những
vụ đầu tư đó đổ bể hoặc phá sản thì anh ta sẽ là người thua thiệt nhiều hơn
người cho anh ta vay tiền. Một cách mô tả giải pháp mà giá trị tài sản ròng
cao mang lại cho vấn đề rủi ro đạo đức là nói rằng nó khiến cho ý muốn ký
hợp đồng vay nợ trở thành tương hợp nhau, tức là nó làm cho ý muốn của
người cho vay và người đi vay ngang hàng với nhau. Người đi vay càng có
nhiều giá trị tài sản ròng, anh ta càng có nhiều ý muốn xử sự theo chiều
hướng mà người cho vay dự tính mong muốn. Do đó, giá trị tài sản ròng của
người vay càng lớn thì vấn đề rủi ro đạo đức trong hợp đồng nợ của người

Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

17


vay càng nhỏ và công ty dễ vay hơn. Ngược lại, với một giá trị tài sản ròng
nhỏ, vấn đề rủi ro đạo đức sẽ lớn hơn và công ty khó vay tiền.
- Việc giám sát và bắt tuân theo những qui định hạn chế: nếu bạn
chắc chắn rằng người vay tiền của bạn không đầu tư vào bất cứ cái gì rủi ro
thì bạn có thể cho anh ta vay tiền. Bạn có thể bảo đảm rằng người vay tiền của
bạn sử dụng khoản vay đó vào mục đích mà bạn muốn bằng cách viết ra
những điều khoản qui định hạn chế ở trong hợp đồng nợ để hạn chế các hoạt
động đầu tư mang lại rủi ro của anh ta. Và bằng cách giám sát các hoạt động
của anh ta để xem liệu anh ta có tuân thủ theo những qui định hạn chế hay
không và buộc anh ta phải tuân thủ theo các qui định hạn chế khi bạn có thể
chắc chắn rằng anh ta sẽ gây rủi ro cho bạn. Những qui định hạn chế được
nhắm vào việc giảm rủi ro đạo đức bằng cách loại bỏ những xử sự không
mong muốn. Có bốn qui định hạn chế để đạt đến mục tiêu này:
1. Những qui định hạn chế có thể được soạn ra để ngăn ngừa rủi ro đạo
đức bằng cách không để cho người vay có những xử sự không mong
muốn về sự thực hiện các dự án đầu tư có rủi ro. Một số qui định
này đòi hỏi rằng một món tiền vay chỉ có thể được dùng để tài trợ
những hoạt động được chỉ định sẵn ví dụ như mua thiết bị đã được
định sẵn hoặc mua các phát minh đã được nói trước. Những kiểu qui
định khác hạn chế một công ty không thực hiện một số hoạt động
rủi ro như mua một doanh nghiệp khác.
2. Những qui định hạn chế có thể khuyến khích người vay thực hiện
các hoạt động mong muốn giúp cho món vay đó sẽ dễ có khả năng
được hoàn trả hơn. Một qui định hạn chế thuộc loại này yêu cầu

người trụ cột nuôi sống một gia đình mua bảo hiểm sinh mạng loại
sẽ thanh toán hết số tiền vay thế chấp khi người đó chết. Những qui
định hạn chế thuộc kiểu này cho các doanh nghiệp tập trung vào
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

18


việc khuyến khích công ty vay giữ cho giá trị tài sản ròng của công
ty cao vì giá trị tài sản ròng của người vay cao hơn sẽ giảm độ rủi ro
đạo đức và khiến cho người vay giảm bớt khả năng bị tổn thất.
Những qui định hạn chế này qui định riêng rằng công ty này phải
duy trì một lượng giá trị tối thiểu của một số loại tài sản nào đó
tương ứng với tầm cỡ công ty này.
3. Do vật thế chấp là một sự bảo vệ có ý nghĩa quan trọng đối với
người cho vay, những qui định hạn chế có thể khuyến khích người
vay giữ cho vật thế chấp trong điều kiện tốt và chắn chắn rằng nó
vẫn thuộc sở hữu của người vay đó. Đây là kiểu qui định hạn chế
thường gặp nhất.
4. Những qui định hạn chế cũng đòi hỏi một công ty vay cung cấp
thông tin về hoạt động của công ty đó một cách định kỳ ở dạng báo
cáo kết toán quý và báo cáo thu nhập, nhờ vậy mà người cho vay dễ
giám sát công ty đó và ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Kiểu qui định hạn
chế này cũng có thể đặt điều kiện rằng người cho vay có quyền kiểm
tra thanh tra sổ sách kế toán của các công ty mà họ cho vay. Chúng
ta thường thấy các hợp đồng nợ thường là những tài liệu pháp lý
phức tạp với rất nhiều hạn chế đối với thái độ cư xử của người vay,
và như vậy vấn đề rủi ro đạo đức được giảm đến mức tối thiểu.
Mặc dù có các giải pháp trên để phòng ngừa, giảm thiểu lựa chọn

nghịch và rủi ro đạo đức, nhưng những kết quả thường không được như mong
muốn vì:
Do trình độ cán bộ của NH không được như mong đợi, không đáp ứng
được yêu cầu để phân tích đánh giá rủi ro, không bao quát hết được các điểm
yếu trong hồ sơ tín dụng, kể cả những sai sót về pháp lý trong hồ sơ chứng từ
hoặc do cán bộ thoái hóa biến chất, cố ý làm trái, không chấp hành đúng
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

19


chính sách chế độ, tiếp tay, đồng lõa với kẻ gian để lừa đảo chiếm đoạt tài sản
NH, v.v. Bên cạnh đó còn xuất hiện sự không tương đồng về lợi ích giữa
người chủ của NH với nhân viên của ông ta, khi điều này xảy ra dẫn đến khả
năng rủi ro đạo đức của nhân viên NH là điều tất yếu, các nhân viên sẽ thực
hiện những việc làm sai trái với quy định và yêu cầu để từ đó họ tự thực hiện
hành vi rút tiền của NH hoặc sẽ cấu kết với khách hàng rút tiền NH.
Mặt khác, nếu NH được bảo hiểm tiền gửi hay do chính sách quản lý vĩ
mô của chính phủ không để cho một cuộc hoảng loạn NH diễn ra, thì sự lựa
chọn nghịch và rủi ro đạo đức có thể làm tăng nguy cơ các rủi ro NH. Khi đó
NH sẽ kém thận trọng trong cho vay đầu tư vì đã có công ty bảo hiểm chịu
trách nhiệm thanh toán tiền gửi cho khách hàng nếu có vỡ nợ và chính phủ sẽ
trợ giúp để NH khỏi bị đóng cửa. Tình trạng này đã xảy ra ở hệ thống NH của
Mỹ, và điều này đang dẫn tới một tranh cãi có nên duy trì chế độ bảo hiểm
tiền gửi hay không.

1.3 KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH là một vấn đề rộng lớn và đa
dạng. Thật khó có thể hình dung ra tất cả những tình huống bất ngờ có thể xẩy

ra để phòng ngừa một cách có hiệu quả. Và như vậy, rủi ro trong hoạt động
kinh doanh NH là một phạm trù “tiềm ẩn” có thể xẩy ra bất cứ lúc nào và gây
tổn hại đến khả năng tài chính của NH. Ngay cả những nền kinh tế mạnh nhất
thế giới, với hệ thống ngân hàng hiện đại tinh vi cùng nhiều lớp hàng rào che
chắn về quy chế, luật pháp, thanh tra, kiểm toán hùng hậu, các loại quỹ bảo
hiểm, v.v. mà hầu như năm nào cũng có một số NH bị phá sản.

1.3.1 Những vụ phá sản các ngân hàng ở Mỹ
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

20


Trong lịch sử hoạt động ngành NH ở Mỹ luôn luôn được chứng kiến
những vụ đổ bể và phá sản của các NH. Điển hình là những vụ hoảng loạn
NH trong thời kỳ đại suy thoái 1930-1933. Trước đó vào những năm 20, một
vụ đông đảo các NH vỡ nợ đã diến ra, đặc biệt tại Missouri, Illinois, Indiana,
Iowa, Arkansas và North Carolina, khiến công chúng ráo riết chuyển đổi các
món tiền gửi có thể phát séc và các món tiền gửi có kỳ hạn sang tiền mặt và
sang tiền gửi tiết kiệm bưu điện (postal savings deposits). Một sự lây truyền
sợ hãi lan rộng ra trong những người gửi tiền, bắt đầu từ các khu vực nông
nghiệp nơi đã trải qua tác động nặng nề nhất của các vụ NH vỡ nợ trong thời
kỳ “Những năm 20”. Những vụ vỡ nợ của 250 NH với 180 triệu đôla tiền gửi
tháng 11/1930 đã được nối tiếp bằng vụ vỡ nợ của 532 NH với trên 370 triệu
đôla tiền gửi, vụ vỡ nợ gây chấn động nhất là vụ vỡ nợ vào ngày 11/12 của
Bank of the United States với trên 200 triệu đôla tiền gửi. Vụ vỡ nợ đó đã đặc
biệt quan trọng vì Bank of the United States là NHTM lớn nhất đã bị vỡ nợ
tính đến thời điểm lúc đó trong lịch sử nước Mỹ. Hơn thế, tuy là NHTM
thông thường, tên gọi của nó đã khiến nhiều người trong nước và nước ngoài

xem nó như là NHNN, do đó sự vỡ nợ của nó ít nhiều tác động đến lòng tin
của công chúng so với sự sụp đổ của một NH ít đặc biệt hơn.
Cho tới những năm 1980, phần lớn dân chúng vẫn tin rằng các vụ
hoảng loạn NH là chuyện của quá khứ, vụ xảy ra sau chót là trong thời kỳ đại
suy thoái. Tuy nhiên, các sự kiện ở Ohio, Maryland và Rhode Island trong
những năm gần đây đã chứng tỏ rằng các vụ hoảng loạn NH vẫn còn là mối
nguy hiểm cho sự an toàn của hệ thống tài chính. Trong cả ba tiểu bang trên,
tiền gửi không được bảo hiểm bằng bảo hiểm tiền gửi liên bang; thay vào đó,
chúng được bảo lãnh bằng một quỹ bảo hiểm tư nhân ở tiểu bang: ở Ohio là
Ohio Deposit Guarantee Fund (quĩ bảo hiểm tiền gửi Ohio), ở Maryland là
Maryland Savings - Share Insurannce Corporation (công ty bảo hiểm tiền tiết
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

21


kiệm - cổ phần Maryland), ở Rhode island là Rhode island Share & Deposit
Indemnity Corporation (công ty bảo đảm cổ phần và tiền gửi Rhode Island).
Khi các khoản tiền dự trữ được gửi ở các quỹ bảo hiểm này ít hơn số tiền tổn
thất ở các tổ chức được bảo hiểm bị vỡ nợ, những người gửi tiền ở các tổ
chức NH khác lo sợ họ sẽ chịu tổn thất ở các khoản tiền gửi. Vì vậy họ đổ xô
tới các NH để rút tiền và do đó các vụ hoảng loạn NH diễn ra. Vụ hoảng loạn
NH đầu tiên kể từ sau đại suy thoái đã xảy ra ở Ohio sau khi quỹ bảo đảm tiền
gửi Ohio bị cạn sạch và các tổn thất trong vụ vỡ nợ của Home State Saving
Bank of Cicinati (NH tiết kiệm mua nhà tiểu bang Cicinati) vào tháng 3/1985
bởi vì các món cho vay lâm vào tình trạng tồi tệ (do một công ty chứng khoán
vay, công ty này đã thực hiện các hoạt động gian lận). Thống đốc Ohio đã
tuyên bố một ngày ngừng hoạt động NH, tạm thời đóng cửa 70 tổ chức tiết
kiệm, nhưng các NH này sau đó được mở cửa trở lại nhờ sự hỗ trợ của cục dự

trữ liên bang và của hội đồng NH cho vay mua nhà của liên bang (FHLBB)
sau khi họ có được bảo hiểm tiền gửi liên bang. Liền sau đó, tháng 5/1985, do
việc vỡ nợ của hai NH tiết kiệm và cho vay Maryland đã phá sản Maryland
Saving- Share Insurance Corporation. Một hoảng loạn của 100 ngân hàng ở
Maryland sau cùng được chặn lại bởi quyết định tạm thời của thống đốc bang
này quy định một giới hạn rút tiền 1000 đôla một tháng và thay thế bảo hiểm
tiền gửi tư nhân bằng một cơ quan bảo hiểm mới được thành lập là State -
backed deposit insurance fund (Quỹ bảo hiểm tiền gửi do tiểu bang bảo trợ).
Vụ hoảng loạn NH vỡ nợ tai hại nhất đã xảy ra ở Rhode Island vào tháng
1/1991. Sau vụ vỡ nợ của một NH ở Providence thuộc Rhode island, thống
đốc tiểu bang đã buộc phải tuyên bố một ngày ngừng hoạt động NH vào ngày
1/1, đóng cửa 45 NH nhỏ và liên hiệp tín dụng. Kết quả là sự bất động của 1,3
tỷ đôla trong 359.000 tài khoản ở một tiểu bang có 1 triệu dân. Đề nghị bảo
lãnh của thống đốc tiểu bang trả cho mỗi người gửi tiền ở các tổ chức vỡ nợ
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh
tế

22


tối đa tới 12.500 đôla tiền mặt và phần còn lại của số tiền gửi của họ tối đa tới
giới hạn được bảo hiểm 100.000 đôla, được nhận chứng chỉ tạm thời của tiểu
bang (không có lãi suất), chứng chỉ này sẽ được hoàn trả tiền qua một vài năm
(chứng chỉ tạm thời như thế này đã được phát hành lần cuối trong thời kỳ các
vụ hoảng loạn NH ở những năm 1930). Phần tiền gửi vượt quá 100.000 đôla
tại một NH vỡ nợ không có khả năng được hoàn trả.
Đầu những năm của thập kỷ 90 số các vụ vỡ nợ NHTM diễn ra ở mức
gấp 10 lần của giai đoạn những năm 1945 - 1981. Công ty bảo hiểm tiền gửi
liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation: FDIC) chi tiêu nhiều hơn
so với số nó thu vào suốt các năm 1988, 1989 và 1990, một khoản thiếu hụt

chưa từng có trước đó kể từ khi FDIC khởi đầu các hoạt động của mình năm
1934. Thực vậy, chính quyền Bush đã trù tính rằng nếu không được tiếp thêm
tiền mặt, quỹ bảo hiểm FDIC sẽ kiệt quệ vào năm 1992. Tuy thế, nếu ở vào
trạng thái đó các NHTM là rất khó khăn thì tình trạng này lại trở nên nghiêm
trọng hơn đối với các quỹ tiết kiệm và cho vay. Các tổn thất của khu vực này
là gần 20 tỷ USD năm 1989, và luật pháp được thông qua trong năm đó để
bảo lãnh cho khu vực này. Vì sao hoạt động NH ở Mỹ lâm vào tình trạng lộn
xộn như vậy? Ai đáng phải khiển trách vì các tổn thất khó tin được trong công
nghiệp tiết kiệm và cho vay? Vì sao cuộc khủng hoảng NH đã diễn ra trong
những năm 1980?
Một nguyên nhân trong các nguyên nhân dẫn đến các vụ sụp đổ là rủi
ro đạo đức, rủi ro xảy ra khi một bên tham dự vào cuộc giao dịch có có ý
muốn thực hiện những hoạt động bất lợi cho bên kia. Rủi ro đạo đức là một
đặc điểm quan trọng của dàn xếp bảo hiểm nói chung bởi vì sự tồn tại của bảo
hiểm mang lại những ý muốn mạnh hơn đối với việc mang lấy những rủi ro
và điều đó có thể đưa đến một sự thanh toán bảo hiểm. Ví dụ, một lái xe với
bảo hiểm va đụng ôtô có khoản khấu trừ nhỏ có thể dễ làm cho lái xe không

×