Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tìm hiểu về tranh lụa Việt Nam qua họa sĩ Nguyễn Phan Chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.12 KB, 27 trang )

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong kho tàng mĩ thuật Việt Nam, bên cạnh các dòng tranh dân gian
như tranh Đông Hồ, tranh hàng Trống thì tranh lụa là một thể loại mang đậm
bản sắc và dấu ấn dân tộc hơn cả. tôi được biết nhà báo Giúoc - giơ Bu - đa ren (Georges Boudarel) khi viết về tranh lụa Việt Nam: “... Nghệ thuật này
giản dị và kín đáo, hình như lại có vẻ quá trang trọng nữa. Giữa cái rực rỡ
đầy kiêu hãnh của sơn mài và sự hũa hợp nặng nề của sơn dầu, tranh lụa có
một sắc thái quê hương thanh nhã, một điệu hát ru em, một giấc mơ trong
tâm hồn những nông dân bình dị và những em nhỏ. . . ”.
Xuất phát từ sự yêu thích đối với một loại hình nghệ thuật đặc sắc của
dân tộc cùng với mong muốn tìm hiểu khám phá về tranh lụa Việt Nam, tôi đã
chọn đề tài: “Tìm hiểu về tranh lụa Việt Nam qua họa sĩ Nguyễn Phan
Chánh”.


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Sự ra đời của tranh lụa việt Nam và vài nét về tác giả
Nguyễn Phan Chánh

1.1.

Sự ra đời của tranh lụa
Tranh lụa đã có mặt ở Việt Namtừ lâu đời . Ở thời kìđó, những

người làm bộ môn mỹ thuật này đều không được đào tạo qua trường lớp nào
cả, những gì họ biết được chỉ là sự tiếp thu kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế
hệ khác, hay nói cách khác, đó là sự truyền nghề. Các nghệ nhân xưa đã để lại
một di sản quí báu, mang tính dân tộc đậm đà, đó chính là cơ sở cho sự phát
triển của tranh lụa sau này. Tuy vậy, tranh lụa xưa còn để lại đến nay quá ít ỏi.


Hiện nay, chúng ta cònbức “Chõn dung Nguyễn Trói” (Bảo tàng Lịch
sử) và “Chân dung Phựng Khắc Khoan” (nhà thờ Trạng Bùng, Thạch
Thất).Qua những bức tranh lụa cổ của nước ta còn để lại đến nay các nhà
nghiên cứu đã thấy có hai lối vẽ khác biệt nhau, tiêu biểu là ở hai bức chân
dung Nguyễn Trói và chân dung Phựng Khắc Khoan. Bức chân dung Nguyễn
Trói vẽ nét cách điệu, màu sắc tế nhị, có sự hũa sắc điêu luyện, nhiều đường
cong có suy tính theo những công thức nhất định, màu vẽ nhuyễn vào lụa, kĩ
thuật từng trải mượtmà. Còn bức chân dung Phựng Khắc Khoan phong cách
vẽ khác hẳn. Tranh được vẽ trên khổ lụa rộng (khoảng 1, 50m x 2,50m), nét
vẽ khỏe, tả thực, màu sắc mộc mạc, sắc mặt đen giống thần thái ông Trạng
Bùng theo như trong truyện xưa kể lại. Dùng màu thuốc cái, son, mực nho,
điệp. Chất lụa hiện ra thưa, thoải mái, không cố định phụ trương lối vẽ. Phía
sau tranh có quét một lần sơn ta (giai đoạn sau)làm bức lụa giòn, gãy. Đó là
phong cách dân gian, gần gũi với lối vẽ của người thợ thủ công – nông dân ít
có dịp tiếp xúc với kỹ thuật bên ngoài. Như vậy, có thể thấy rằng vẽ lụa xưa


không chỉ có một phong cách.Mỗi nơi, mỗi vùng miền, mỗi thời điểm lịch sử
khác nhau lại có sự khác biệt nhau về kiểu thức tạo hình.
Nghệ thuật vẽ tranh lụa chính thức được đánh dấu vào những năm 30
của thế kỷ XX. Năm 1925, trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương – do họa
sĩ người pháp Victor Tardieu làm hiệu trưởng – được thành lập tại Hà
Nội. Các sinh viên học tập ở đây được đào tạo theo nguyên tắc: về chương
trình học tập thì phải đúng như các trường Mĩ thuật ở châu Âu, nhưng trong
sáng tác thì họ lại được đặc cách hướng về các chất liệu Á Đông. Cũng trong
thời gian này, trên thị trường thế giới, tranh lụa đang thu hút được sự quan
tâm của bọn thực dân phương Tây. Do vậy, Victor Tardieu quyết định mang
một số bức tranh lụa từ Trung Quốc về cho sinh viên của mình nghiên
cứu. Trong số những sinh viên đó, có nhiều người đã biết kết hợp phương
pháp nghiên cứu của châu Âu để khai thác những vốn nghệ thuật truyền thống

của dân tộc.Sự kết hợp giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã đem lại một sắc
thái mới trong sáng tác và là bước đầu của sự phát triển tranh lụa. Thời kì này,
ở trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương chỉ có một số ít sinh viên nghiên
cứu về tranh lụa, tiêu biểu như: Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tiến
Chung, Trần Phềnh, Nguyễn Nam Sơn, Lương Xuân Nhị, Trần Văn Cẩn, Tô
Ngọc Vân, Mai trung
Thứ, Lê Thị Lựu, Lê Phổ... với khuynh hướng thiên về tìm tòi những
mảng màu đơn giản, tìm phối sắc trong mảnh hình, thường dùng màu nâu,
đen, màu sáng là màu của lụa.
Kết quả bước đầu trong việc mở đường cho nghệ thuật tranh lụa Việt
Nam của các sinh viên trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương được khẳng
định tại cuộc triển lãm thuộc địa năm 1931, tranh lụa Việt Nam đã ra mắt
công chúng châu Âu với những tác phẩm của Nguyễn Phan Chánh, Trần
Phềnh, Nguyễn Nam Sơn, Tô Ngọc Võn… Trong đó, bức “Chơi ô ăn


quan” của Nguyễn Phan Chánh được đánh giá “như một tác phẩm có giá trị
nghệ thuật cao và hiếm lạ, không giống một nước nào”. Thành công này của
Nguyễn Phan Chánh là minh chứng chứng tỏ rằng nghệ thuật vẽ lụa có khả
năng trở thành tiếng nói riêng của hội họa Việt Nam.
1.2. cuộc đời, sự nghiệp của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
1.2.1. cuộc đời,sự nghiệp
Nguyễn Phan Chánh sinh ngày 21 tháng 7 năm 1892 tại thôn Tiền Bạt,
xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà nay là phường Tân Giang, thị xã Hà Tĩnh,
tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1922 ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm thuộc trường
Quốc học Huế. Sau đó ở lại dạy học tại trường tiểu học Đông BaHuế.
Năm 1925, Nguyễn Phan Chánh là sinh viên khóa đầu tiên của Trường Cao
đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cùng học với Lê Phổ,Lê Văn Đệ, Mai Trung
Thứ, Công Văn Trung, Georges Khánh (điêu khắc). Năm 1928, ông bắt đầu

sáng tác các tranh sơn dầu: "Mẹ bầy cho con đan len", "Hai vợ chồng người
nông dân trục lúa". và cũng năm nay ông bắt đầu học vẽ trên lụa Vân Nam và
đã thành công. Ông tốt nghiệp năm 1930.
Năm 1931, Nguyễn Phan Chánh sáng tác tranh lụa "Chơi ô ăn quan"
cùng một số họa phẩm khác như "Cô gái rửa rau", "Em bé cho chim ăn", "Lên
đồng". Cũng năm này tại triển lãm Paris, Pháp một số tranh lụa của Nguyễn
Phan Chánh đã được Giám đốc Victor Tardieu mang về Pháp giới thiệu. Lần
đầu tiên công chúng Pháp biết tranh lụa Việt Nam qua bút pháp Nguyễn Phan
Chánh. Họa báo L'Illustration xuất bản ở Paris số Noel 1932 đã giới thiệu 4
bức tranh này của hoạ sĩ. Một số tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh đã được
trưng

bày

ở Milan (Ý)

năm 1934,

ở San

Francisco (Mỹ)

năm 1937,

ở Tokyo (Nhật Bản) năm 1940. Sau cuộc triển lãm ở Paris, hoạ sĩ Nguyễn
Phan Chánh được coi là người đặt nền tảng cho tranh lụa hiện đại Việt Nam.


Năm 1933, ông tham gia bày tranh ở Địa ốc Ngân hàng Hà Nội và triểm lãm
cá nhân lần thứ nhất ở Hà Nội. Năm 1935, ông tham gia triển lãm do Hội

Chấn hưng Mỹ thuật và Kỹ nghệ (SADEAI) tổ chức lần thứ nhất tại Hà Nội.
Năm 1938, ông tham gia triển lãm do SADEAI tổ chức lần thứ 2 tại Hà Nội,
cũng năm nay ông tổ chức triểm lãm cá nhân lần thứ 2 tại Hà Nội với các tác
phẩm tiêu biểu: "Đôi chim bồ câu", "Chăn trâu trong rừng", "Đi chợ", "Tắm
cho trâu", "Đi lễ chùa". Năm 1939, tại quê ông đi vẽ ảnh "Đền làng", "Cầu
ao", "Xóm Chài", "Hui thuyền", "Thuyền đánh cá", và cũng trong năm đấy
Nguyễn Phan Chánh gửi sang Pháp những tranh cỡ lớn "Mùa đông đi cấy",
"Chim sổ lồng", "Chị em đùa cá", "Công chúa hoa dâm bụt" cùng một số tác
phẩm khác.
Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Phan Chánh là Ủy viên Thường vụ
Hội Văn hóa Cứu quốc của tỉnh. Trong thời gian này ông đã vẽ hình của rất
nhiều các lãnh tụ và các chiến sĩ cộng sản: Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng
Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Phú. Trong chín năm tham gia kháng
chiến, họa sĩ đã vẽ tranh tuyên truyền cổ động: "Em bé tẩm dầu", (1946),
"Phá kho bom giặc" (1947), "Lội suối", (1949).
Năm 1955, Nguyễn Phan Chánh trở về Hà Nội, làm giảng viên hội họa
Trường Đại học Mỹ thuật trong vài năm. Năm 1957, ông được bầu vào Ban
Chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam khoá I. Năm 1962, ông là Đại biểu Đại hội
liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III.
Tháng 8 và tháng 9 năm 1982, mừng thọ hoạ sĩ 90 tuổi, Bộ Văn hoá
Việt Nam cùng Bộ Văn hoá Tiệp Khắc, Bộ Văn hoá Hungary tổ chức triển
lãm 47 tác phẩm của các thời kỳ sáng tác của Nguyễn Phan Chánh
tại Praha, Bratislava, Budapest, Bucharest. Tháng 7 năm 1983, phòng tranh
Nguyễn Phan Chánh được trưng bày tại Viện Bảo tàng Phương Đông
ở Moskva.


Ông mất ngày 22 tháng 11 năm 1984 tại Hà Nội và được an táng
tại Nghĩa trang Mai Dịch.


1.2.2 Đóng góp
Ông được coi là người chiết trung phương pháp tạo hình phương Tây
và họa pháp tranh lụa phương Đông.
Trong cuộc Đấu xảo thuộc địa 1931 tại Paris những tác phẩm đầu tiên
của Nguyễn Phan Chánh đã gây được tiếng vang lớn. Ông được xem như một
trong những họa sĩ tiêu biểu cho nền hội họa Đông Dương.
Với những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Phan Chánh
được mời tham gia giảng dạy Mỹ thuật tại một số trường học, trong đó
có Trường Bưởi và Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1955). Ông đã góp
phần đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam sau này.
Suốt cuộc đời làm nghệ thuật, Nguyễn Phan Chánh đã để lại một sự
nghiệp đồ sộ với số lượng ước khoảng trên 170 tác phẩm. Ông là người đang
giữ kỷ lục về số tác phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Bức tranh Người bán gạo (tiếng Pháp: La marchand de riz) trong cuộc bán
đấu giá của Christie's International tại Hồng Kông ngày 27 tháng 5, 2013
được bán với giá kỷ lục là 390.000 Mỹ kim. Vào thời điểm đó, đây là giá cao
nhất trên thị trường mỹ thuật trả cho một bức tranh của họa sĩ người Việt.[1]
1.2.3 Các tác phẩm tiêu biểu

Chơi ô ăn quan •
Trốn tìm


Lên đồng



Em






Sau giờ trực chiến

Chim sổ lồng



Bát nước giải lao

Chị em đùa cá



Đi chống hạn



Trăng tỏ



Đan mây



Bữa cơm mùa thắng lợi




cho •

chim ăn


Rửa rau cầu ao



Trăng lu



Đi cày



Chiều về tắm cho •

Tiên

Dung



Chử


Đi cấy




con

Đồng Tử

PHẦN II: TÁC PHẨM “ Chơi ô ăn quan”
2.1. Bức tranh “Chơi ô ăn quan”(1931)

Chơi ô ăn quan – Nguyễn Phan Chánh
Đây là một trong số những sáng tác đầu tay của Nguyễn Phan Chánh
và đã thu hút được nhiều sự chú ý. Bố cục bức tranh có bốn người chia làm
hai phe: một cô bé khoảng chừng hơn mười tuổi ngồi một phía, còn ba cô
ngồi về phía bên kia. Cách bố cục như vậy làm cho bức tranh không bị rời rạc
và người xem có cảm giác các cô bé rất tập trung, chăm chú vào ô quan khi
chơi.
Trong bức tranh cô nhỏ nhất đang đánh ô quan. Cô này ngồi một mình
nên người xem chú ý nhiều hơn, còn ba cô kia ngồi bên phải được nhẹ nhàng,
mặc dầu là ba người. Có thế mới cân đối, không có ấn tượng bên nhẹ, bên
nặng. Người ngồi gần giữa, mặc áo xanh quần trắng về phe cô đang đánh. Về
phe bên này, cụ lớn nhất ngồi đầu, chừng mười lăm tuổi, quàng khăn mỏ quạ
và cô chít khăn nâu lú khuất một phần mặt, trạc mười ba, mười bốn tuổi. Cô
đang đánh bé nhất trong bốn cô nên không chít khăn mà cũng không quàng


khăn mỏ quạ trên đầu, tóc phất phơ. Cô gái ngồi cùng phía với cô, mặc quần
trắng, chăm chú nhìn tay cô đang đánh ô như đã hội ý với nhau rồi.
Bức tranh còn thêm cả những "bộng" ô ăn quan, vẽ vào khoảng giữa
hai người bên kia và một người bên này, tựy theo địa thế rộng hẹp, để cả bốn

em thấy rõ "bộng" đánh.
Về màu sắc: Tranh " Chơi ô ăn quan"tả các em vào mùa lạnh nên các
em mặc đồ ấm của bà con lao động. Phần nhiều là áo nâu bầm, chít khăn mỏ
quạ, rất hợp với màu áo vì khăn mỏ quạ màu đen và màu đen của quần hợp
với màu nâu đều là màu nóng. Nếu để cả màu nóng thì tranh sẽ tối, không nổi
nên phải xen vào màu lạnh như màu trắng và màu xanh tím của áo cô mặc
quần trắng để giảm bởimàu nâu tối đi mà sáng sủa lên. Màu các ô ăn quan tuy
là phụ nhưng cũng điều hũa với màu áo. Khoảng trên bức tranh không thêm
gì hơn vì các em đã choán hết không gian bức tranh, chỉ có đề bài thơ chữ
Hán rồi đánh dấu son và chữ ký của tác giả. ấn son màu đỏ rất cần thiết để
làm tươi thêm bức tranh.
Sau khi cho đứa trẻ bú no nằm ngủ, người mẹ với chiếc áo xanh trễ
nải làm lộ bộ ngực trần, lặng ngắm nhìn con. Đó là tranh khoả thân đẹp nhất
của Nguyễn Phan Chánh bên cạnh các tác phẩm tả chất da thịt mịn
màng:“Tắm cho con, Rửa khoai, Hái rau muống, Trăng tỏ, Trăng lu, Kiều
tắm, Tiên Dung tắm”... Tranh bán khoả thân của Nguyễn Phan Chánh là
những tác phẩm có hoà sắc tinhtế mộc mạc và gợi cảm thơ mộng.
2.2. Chất liệu vẽ tranh
2.2.1 Bảng pha màu
Để pha màu, có thể dùng loại bảng làm bằng nhựa trắng có những ô
tròn lừm sâu để chứa màu được pha, hoặc có những hộp màu nước bằng sắt
sơn trắng hoặc hộp nhựa. Với những mảng màu lớn có thể dùng bát, chén
hoặc đĩa sứ để pha màu.


2.2.2. Bút vẽ
Bút vẽ có nhiều loại. Tựy theo thói quen, họa sĩ có thể dùng các loại
bút khác nhau và tận dụng mọi khả năng của chúng.
Loại bút tròn, bút lông dài và nhọn đầu thường là loại long mềm
chứa lượng mầu nước nhiều hơn loại bút lông dẹt.

Loại bút lông tròn thường dùng để vẽ nét và có thể vẽ cả những
mảng màu.
Họa sĩ cũng có thể sử dụng bút vẽ sơn dầu hoặc bột màu, thậm chí cả
những bút đã mòn lông để cọ những đoạn nhỏ cần sửa chữa làm cho mềm đi.
2.2.3. Khung căng lụa
Do kĩ thuật vẽ tranh lụa của Việt Nam là “nhuộm lụa”, nghĩa là lụa
vẽ xong một lớp màu rồi lại đem ra rửa nước làm cho cặn màu trôi đi, rồi lại
tiếp tục vẽ, lại rửa lụa và vẽ tiếp cho tới khi đạt đọ như ý. Do đó, nhất thiết
phải dùng khung để căng lụa trước khi vẽ.

Khung căng lụa không cần quá dầy vì lụa mỏng manh không cần căng
mạnh. Gỗ làm khung căng lụa cần hơi mềm để có thể cắm đinh vào dễ dàng.
2.2.4. Lụa vẽ
“Nền lụa” là cái gốc, là cơ sở cho sự ra đời của nghệ thuật vẽ tranh lụa. Có thể
nói rằng để có một bức tranh lụa đẹp thỡ khơu chọn lụa nền cũng phải rất cẩn
thận và yêu cầu sự tỉ mỉ, tinh tế bởi lụa là chất liệu khá “kĩ tớnh”.
Có nhiều loại lụa vẽ, mỗi loại lụa do cách dệt thưa mau khác nhau hoặc sợi
lụa to nhỏ thay đổi tạo ra các thớ lụa khác nhau: mịn màng óng ả hay thô
khỏe. Tùy vào từng loại lụa mà khi vẽ cho những hiệu quả không giống nhau.
Nắm vững tính chất của từng loại lụa giúp các họa sĩ xử lý linh hoạt và đạt
hiệu quả cao nhất trong tác phẩm của mình.


Lụa tơ tằm là loại lụa thấm màu rất tốt, dễ sử dụng hơn là lụa trộn tơ nhân tạo.
Lụa tơ tằm thớ mịn hoặc hơi thô, có thể dệt thủ công hoặc dệt bằng máy. Vào
thời kỳ đầu khi tranh lụa mới ra đời, các họa sĩ dùng lụa nền là thứ lụa Vân
Nam, thớ lụa dày xớt, khú vẽ nét mà lại dễ bị loang màu. Hiện nay, lụa phục
vụ cho việc vẽ tranh có làng Vạn Phúc (Hà Tây) dệt lụa cải hoa và vùng Duy
Tiên (Hà Nam) dệt lụa trơn. Dệt lụa tơ tằm dùng để vẽ tranh lụa cho các họa
sĩ ở thủ đô Hà Nội và một vài nơi khác chủ yếu là dơn vựng Duy Tiên (Hà

Nam) với hai làng Nhai Xá và Quan Phố. Nhân dân ở hai làng này vẫn vảo
tồn việc dệt lụa vẽ từ khi các họa sĩ vẽ tranh lụa vốn quê gốc ở vùng này t́m
đến đặt hàng. Những năm gần đây, do yêu cầu của ngành mĩ thuật, các nhà
máy dệt đă sản xuất loại lụa chuyên dùng để vẽ tranh, mỏng và hơi thưa.


PHẦN KẾT LUẬN
Thể loại tranh lụa đã góp phần xứng đáng vào nghệ thuật tạo hình
ViệtNam. Tranh lụa đã phát triển được những vốn cổ truyền của hội họa dân
gian. Dựa vào cốt cách và tinh thần dân tộc, tranh lụa đã tiếp thu những kỹ
thuật của các nước phong kiến phương Đông cũng như kỹ thuật tạo hình của
phương Tây. Từ những đề tài cổ truyền về chân dung, chim hoa hay phong
tục, tranh lụa đã phát triển lên diễn tả những đề tài về sản xuất và chiến đấu,
đến tính cách và hoạt động của những tầng lớp người trong giai đoạn cách
mạng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Nâng cao dạng phát triển mới
của nghệ thuật tranh lụa thì chúng ta chưa làm được bao nhiêu. Cái mạnh của
tranh lụa cũng như của hội họa Việt Nam là cái mạnh của con mắt tươi trẻ,
cách nhìn cuộc sống mạnh dạn, ít bị câu thúc vì những gò bó kỹ thuật, họa sĩ
vẽ lụa biết nhìn cái mới và tiếp thu những sáng kiến khoa học, lành mạnh của
dân gian cũng như những thành tựu nghệ thuật của thế giới.


THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nhiều tác giả, Tranh lụa Việt Nam, NXB Mĩ thuật, 1997
2. Quang Phòng, Các họa sĩ trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, NXB
Mĩ thuật Hà Nội, 1998.
3. Nguyễn Phan Chánh,tailieuvietnam
4. Nguyễn Thụ, Kĩ thuật vẽ tranh lụa Việt Nam, NXB Đại học Mĩ thuật Hà
Nội, 1995.

5. Quang Việt, Từ điển họa sĩ Việt Nam, NXB Mĩ thuật, 2008.
6. Và một số bài báo đăng trên mạng Internet














×