Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Bài Thuyết trình Môn Văn hóa các Dân tộc thiểu số Vùng Nam Bộ: Tìm hiểu Văn hóa Dân tộc Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.54 KB, 24 trang )

Bài Thuyết Trình Môn Văn Hóa các Dân Tộc Thiểu Số Vùng Nam Bộ

Đề Tài:
Tìm Hiểu Văn Hóa Dân Tộc Hoa
(Thuộc Nhóm Ngôn Ngữ Hoa - Hán)

A. Bố Cục
I. Tên gọi (tộc danh), nguồn gốc lịch sử, dân số phân bố dân cư.
1.1 Tên gọi (tộc danh),Nguồn gốc lịch sử
1.2 Dân số và phân bố dân cư
1.3 Lược sử dân tộc Hoa ở Nam Bộ
II.Đặc điểm đời sống kinh tế (mưu sinh)
2.1 Đặc điểm chung
2.1.1 Trồng trọt
2.1.2 Chăn nuôi
2.1.3 Thủ công gia đình
2.1.4 Chiếm đoạt tự nhiên
2.1.5 Buôn bán, dịch vụ
2.2 Đặc điểm kinh tế người Hoa Nam Bộ
III.

Đặc điểm xã hội truyền thống

3.1 Tổ chức, thiết chế xã hội
3.1.1 Đặc điểm chung trong tổ chức, thiết chế xã hội người Hoa
3.1.1.1 Thôn trại
3.1.1.2 các tổ chức thiết chế xã hội
3.1.1.3 dòng họ và gia đình
3.1.2 Tổ chức xã hội cổ truyền của người Hoa Nam Bộ
1



3.1.2.1 tổ chức thiế chế xã hội
3.1.2.2 dòng họ và gia đình
3.2

Nghi lễ, tập tục đời người

3.2.1 Đặc điêm chung của nghi lễ, tập tục đời người của người Hoa
3.2.1.1 sinh đẻ
3.2.1.2 cưới xin
3.2.1.3 tang ma
3.2.2 Nghi lễ, tập tục vòng đời người của người Hoa vùng Nam Bộ
3.2.2.1 hôn nhân
3.2.2.2 mừng thọ
3.2.2.3 tang ma
IV.

Văn hóa vật chất

4.1 Nhà ở
4.2 Chùa đình
4.3 Trang phục
4.4 Đồ ăn, uống, hút
4.5 Đồ dùng sinh hoạt
V.Văn hóa tinh thần
5.1 Ngôn ngữ, chữ viết
5.2 Nghệ thuật dân gian
5.3 Văn học dân gian
5.4 Tín ngưỡng, tôn giáo
5.5 Lễ hội

5.6 Tri thức dân gian
VI.

Các xu hướng biến đổi của dân tộc Hoa

2


B. Nội dung
I. Tên gọi (tộc danh), nguồn gốc lịch sử, dân số phân bố dân cư.
1.1 Tên gọi (tộc danh)
Trên thế giới, tên gọi và khái niệm người Hoa đã từng là vấn đề tranh cãi,
chưa kết thúc. Nhiều học giả chỉ thừa nhận người Hoa, thuộc Hán tộc. Ở nhiều
quốc gia, những người di cư đến từ Trung Hoa, bất luận họ thuộc tộc người nào,
đều được gọi theo tên các triều đại, khi họ ra đi: người Hán, người Tùy, người
Đường, người Tống, người Nguyên, người Minh, người Thanh,... Những tên
gọi này thực ra chỉ phù hợp với những bộ phận người Trung Hoa di cư ở các
thời điểm lịch sử cụ thể, không thể đại diện cho mọi thời kỳ. Nếu gọi là người
Hán cũng không ổn, bởi trong số những người Trung Hoa cư trú ở nước ngoài,
có cả những người thuộc Hồi tộc, Choang tộc, Mông tộc, Tạng tộc, Mãn tộc,...
Trong thực tiễn một số quốc gia gọi những người nhập cư từ Trung Hoa là
người,.. Gốc Hoa. Trong sử sách Trung Hoa xưa kia thường dùng khái niệm
người Hạ, người Ân, người Thương, người Chu,...hay nhà Hạ, nhà Ân, nhà
Thương, nhà Chu,...để chỉ người hay đế chế, thời đại. Sau khi nhà Tần thống
nhất Trung Hoa, tên người, tên nước, tên thời đại nhất loạt được gọi là Tần. Từ
thời nhà Tần về sau, trong các tài liệu của phương Tây, Tần (Chin) được dùng
để chỉ người Trung Hoa, với các chuyển âm : Chin, China, Chinese,
Chinois,...tất cả đều có tiền tố chung là Chin (Tần). Và các thuật ngữ, khái niệm
chỉ người Trung quốc di cư tới các quốc gia khác được thống nhất sử dụng:
Overseas Chinese (người Trung Hoa nhập cư chưa có quốc tịch sở tại); Chinese

Overseas: người Hoa ( người Trung Hoa nhập cư đã có quốc tịch sở tại); hoặc:
Résident Chinois, Ressorsants Chinois,... Trong sử sách Trung Hoa cổ, từ sau
đời Trần, dân ngụ cư được gọi là kiều ngụ, người ngụ cư gọi là kiều nhân. Theo
các từ điển Hán ngữ hiện đại, thuật ngữ Hoa Kiều xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1878 (đến nay thuật ngữ này đã tồn tại 135 năm).
Xưa kia, ở Việt Nam, người Trung Hoa cũng được gọi theo cách ở chính
quốc của họ: người Hán, người Đường, người Tống,... Ngoài các cách gọi chính
thống, trong dân gian Việt Nam còn gọi họ là: người Tàu, Khách (Hakka, Khee,
3


kejia...); người Minh Hương; người Thanh Hà,... Hiện nay, ở VN cộng đồng
Hoa kiều đã được nhà nước Vn công nhận là dân tộc Hoa. Họ tự gọi mình là
Han Chý (zhì/ Hán Tử/ người Hán) hoặc Chung Coọc rấn (Zhong Guos rén/
người Trung quốc), người Minh Hương,... Người Hoa ở VN đa số có nguồn gốc
từ các tỉnh Quảng Đônng và Quảng Tây (CHND Trung Hoa). Tổ tiên của họ,
một số vốn là những nông dân nghèo đói, phiêu bạt mưu sinh; số khác có thể là
hậu duệ những chiến binh Thái Bình Thiên Quốc chống lại nhà Thanh, bị đàn
áp nên phải di cư sang VN.
1.2 Dân số và phân bố dân cư
 Dân số
Theo số liệu tổng điều tra dan số và nhà ở Việt Nam 2009, toàn quốc có
823.071 người Hoa.
 Phân bố dân cư
Họ cư trú tập trung đông nhất ở TP Hồ Chí Minh: 414.045 người và cư trú
rộng khắp trên 53 tỉnh thành phố khác trong cả nước:
+ Ở Nam Bộ : Đồng Nai: 95.162 người: Sốc Trăng: 64.910 người: Kiên
Giang: 29.850,...
+ Ở vùng duyên hải miền Trung và Tây nguyên : Bình Thuận: 10.243
người, Ninh Thuận: 1.847 người, Lâm Đồng; 14.929 người, Đắk Nông: 4.686

người,.....
+ Ở các tỉnh Phía Bắc: Hà Giang: 7.062 người, Điện Biên: 2.445 người,
Thái Nguyên: 2.064 người, Tuyên Quang: 5.982 người,...
1.3 Lược sử dân tộc Hoa ở Nam Bộ
Hoa là tên gọi chính thức của dân tộc được Đảng, Nhà nước và Quốc hội
ta công nhận. Người Hoa còn có tên gọi khác như Hán, Triều Châu, Phúc Kiến,
Quảng Đông .... Đó là những cong dân Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc
đã di cư và sống hào hợp với các dân tọc Việt Nam từ lâu đời. Đó là những
người có quan hệ gán bó với lịch sử khai phá đồng bằng sông Cửu Long, với
cuộc đấu tranh chống áp bức và bóc lột, chống sâm lược ở Nam Bộ, người Hoa
sinh sống thành từng cụm dân cư và sen kẽ với người Khmer,người Kinh từ lâu
4


đời. Phần lớn người Hoa đều nói được tiếng khmer và tiếng Việt và cũng không
có phân biệt tộc người trong hôn nhân.
Người Hoa miền Tây Nam Bộ sống ở nông thôn. Một số tập trung ở ven
biển và những thị trấn, thị tứ đầu mối các đường giao thông thủy và bộ. Phần
đông người Hoa ở các tỉnh Cà Mau, Trà Vinh, kiên Giang... Có gốc từ Triều
Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngay nay. Ở các tỉnh Bến Tre, Long An, Tiền
Giang chủ yếu là số người Hoa gốc Quảng Đông và Phúc Kiến.
Căn cứ theo quê hương xuất phát, người Hoa còn có hai tên gọi phân biệt:
người Tiểu(tức người Triều Châu) và người Quảng(tức người Quảng Đông)
theo thống kê của người Pháp năm 1926 thì vào lúc đó có 15 đơn vị hành chính
thì 2/15 (tức vùng Bạc Liêu, Cà Mau) chưa thấy thống kê dân số người kinhvaf
6/15 (tức vung Mĩ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau) không
có thông kê người Khmer song hai nhóm Minh Hương và Trung Quốc đều có
người sinh sống ở 15 đơn vị hành chính. Nhóm Minh Hương vào thời điểm trên
nhiều hownnhoms Trung Quốc 13.682 người. Ở các địa phương như Sóc
Trăng , Trà Vinh, Cà Mau, Bến tre, dân số người Minh Hương thường đông gấp

hai lần người Trung Quốc ở địa phương. Song, trong các thông kê dân số tự
khai là người Minh Hương đã không còn được ghi nhận trong các văn bản hành
chính cũ. Đồng thời những nhóm dân cư trước đây tự khai là người Trung Quốc
thì nay tự khai là người Hoa kiều. Trước năm 1954 số Hoa kiều ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long còn lại không nhiều (ước tính khoang 20.000 người) số
đông đều tự khai là người Việt.
Hầu hết người Hoa đều nói thạo tiếng Việt và dùng tiếng Việt để sử dụng
trong sinh hoạt hàng ngày. Nhiều người Hoa còn nói thạo tiêng Khmer, song
cũng chỉ là ngôn ngữ giao tiếp có tính hạn chế trong những vùng dân cư khu
biệt. Sự có mặt của người Hoa vung đòng bằng chau thổ sông Cửu Long là một
quá trình di cư Từ Trung Quốc vào Việt Nam trong những thời gian và các lý
do khác nhau là quá trinh cư trú, phân bố dân cư của tộc người; là quá trình hòa
hợp dân tộc là “quá trình xã hội” với các mối quan hệ trên nhiều phương diện
để cùng tồn tại mưa sinh và phát triển.
5


Nửa sau thế kỷ XVII (1680) lần đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long xuất
hiện những nhóm di dân người Hán từ các vùng Nam Trung Quốc đến. Đó là
một cuộc di dân đông và đọt biến diễn ra ở một vung đồng bằng vừa bắt đầu
khai phá và vung môi sinh thiên nhiên vẫn còn bỏ hoang với diện tích lớn.
Thành phần người Hán ở miền Nam Trung Quốc đến khai phá ở đồng bằng này
là những binh lính(khoang 7.000 người) trung thành với nha Minh và bị thất bại
trong các ohong trào đấu tranh chống chế độ Mãn Thanh. Lúc đầu họ đổ bộ
bàng thuyền lên Hội An và bị triều đình nhà Nguyễn buộc sòi toàn bộ vào đất
Gia Định để khai khản vùng đất tỉnh Tiền Giang hiện nay. Tiếp đó, năm 1715
một cuộc di dân đông người từ vùng đất Triều Châu lại đổ bộ lên tỉnh Hà
Tiên(Kiên Giang)
Những người Hán đầu tiên xuất hiện ở đồng bằng sông Cửu Long là những
người có tinh thần dân tộc sâu sắc, đấu tranh với giai cấp phong kiến phản động

Mãn Thanh và tư bản phương Tây. Hộ đến đồng bằng song Cửu Long khi
phong trào nông dân ở nước ta đang diễn ra quyết liệt chống lại vua quan nhà
Nguyễn. Qúa trình hòa hợp dân tộc giữa nông dân Việt nghèo khổ và bị đàn áp,
bóc lột với những người dân Triều Châu, Quảng Đông từ miền đất xa mới đến
đã được bắt đầu bằng sự đồng cảm sâu sắc, có mang tính giai cấp. Các điều kiện
đó đã thúc đẩy quá trình hòa hợp dân tộc, làm xuất hiện này cang nhiều gia đình
hỗn hợp Hán-Việt, xuất hiện ngày càng đông những lớp cư dân lai chủng,
những vùng dân cư có văn hóa và phong tục tập quán hỗn hợp giữa hai dân tộc.
Cuối thế kỷ XVIII, những lớp dân cư gốc Triều Châu và Quảng Đông phần
lớn đã trở thành người Minh Hương (tức lai Việt) hoặc là người Việt hoàn toàn.
Ý thức tự giác về thành phần tộc người và tâm lý của họ tự nhận mình là người
Việt rất mạnh mẽ.
Dưới thời Pháp, chúng áp dụng chính sách khai thác và bóc lột thuộc địa
Nam kỳ, Pháp thực hiện âm mưu lợi dụng khả năng thương nghiệp của người
Hoa, phục vụ việc vơ vét lúa gạo xuất khẩu và triệt để khai thác tâm lý chia rẽ
kỳ thị dân tộc giữa người Hoa và người Việt. Chúng ra sức nâng đỡ thương
6


nhân người Hoa gốc Phúc Kiến và Quảng Đông, một số ít trở thành địa chủ làm
trung gian giúp người Pháp giao lưu hàng hóa với những chi nhánh thương mại
người Hoa ở miền Tây. Thương nhân, địa chủ người Hoa đã đi sâu vào quần
chúng lao động người Hoa, lợi dụng tình cảm đồng hương, đồng tộc nhằm tranh
giành nông phẩm và cạnh tranh với người Việt, mua lúa non và nông phẩm của
người Khơ me với giá rẻ mạt. Do vậy mà quan hệ hòa hợp dân tộc giữa lao
động người Hoa, người Việt, người Khmer đã bị đầu độc, tạo nên tâm lý kỳ thị
và chia rẽ dân tộc sâu sắc.
Mỹ và Ngụy quyền trước đây đã thực hiện những thủ đoạn kinh tế - chính
trị vừa đồng hóa cưỡng bức người Hoa vừa tách họ ra khỏi cộng đồng dân tộc
Việt Nam

Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, người Hoa lao động ở đồng bằng
SCL rất phấn khởi và tin tưởng vào cuộc sống mới. Vì họ đã được tham gia
đóng góp với những hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã đưa
đến thắng lợi vẻ vang. Họ nhận thấy vị trí và vai trò trách nhiệm làm chủ nông
thôn của mình trong chế độ mới, tin tưởng vào thắng lợi cách mạng Việt Nam
và chính sách của Đảng và nhà nước ta.
II.Đặc điểm đời sống kinh tế (mưu sinh)
2.1 Đặc điểm chung
Người Hoa có nhiều phương thức mưu sinh khác nhau. Ở nông thôn phần
lớn sống bằng trồng trọt, có sự bổ trợ của chăn nuôi và một và nghề thủ công
(đường mía, làm miến dong,...). Bộ phận ở các thành thị thì buôn bán các tạp
phẩm, thuốc bắc, dịch vụ hoặc các xưởng thủ công, chữa oto, xe máy, xe đạp. Ở
thành phố Hồ Chí minh, Đà Nẵng, Hội An, Hà Nội,... Họ kinh doanh khách sạn
dịch vụ là chính.
2.1.1 Trồng trọt
Có thể nói, kỹ thuật canh tác cây trồng của người Hoa khá phát triển.
Ruộng nước (thìn sủi) của họ ở phía Bắc, chủ yếu là ruộng thung lũng. Xưa kia,
họ canh tác các giống lúa (vổ): khẩu lài, khẩu pét, khẩu pay, khẩu lai, khẩu
7


múi,... Nay họ dùng nhiều giống mới cho năng xuất khá cao. Hàng năm họ làm
vụ chiêm và vụ mùa. Việc canh tác các giống lúa mới, tạo điều kiện để nông
dân người Hoa thâm canh tăng vụ.
Đối với người Hoa, vườn đồi xưa và nay có vị trí đặc biệt quan trọng.
Vườn nhà là loại hình tồn tại ở tất cả các hộ người Hoa ở nông thôn. Vườn của
hị thường trồng cải xanh (sính xoi), caair bắp (pác xoi), cải trắng (pạc xoi), đậu
tương (tâu phu), .... Bên cạnh ruộng nước và vườn nhà, người Hoa ở trung du,
miền núi cũng làm nương rẫy (soi dìu). Ở đó họ trồng đậu tương (tâu phu), mía
(chá), ngô, khoai, bầu, bí,...

Trong canh tác nông nghiệp, người Hoa đã đạt đến trình độ kỹ thuật cao.
Họ biết dùng nhiều loại phân như phân chuồng, phân băc, phân xanh, và gần
đây là các loại phân hóa học hay phân vi sinh. Mặt khác, họ cũng rất thành thạo
trong việc dùng thuốc trừ sâu và các loại thuốc kích mầm.
2.1.2 Chăn nuôi
Trong cơ cấu vật nuôi truyền thống của người Hoa, lợn (chí), gà (cáy), và
chó (cẩu) là những loại quen thuộc hơn cả.
Lợn, gà được nuôi chủ yếu phục vụ cho nhu cầu cúng bái, tết lễ, ma chay,
cưới xin hoặc để mổ bán. Mỗi gia đình thường nuôi một con lợn nái, các lứa lợn
sau khi sinh được giữ lại toàn bộ nuôi cùng mẹ. Gà được nuôi tương đối phổ
biến với số lượng nhiều. Họ nuôi gà phục vụ những ngày lễ tết, cưới xin, ma
chay, sinh đẻ...và khi có việc cần một ít tiền thì có thể mang ra chợ bán. Họ
chăn nuôi đại gia súc (trâu-sủi ngầu, bò-voòng ngầu), để cung cấp sức kéo và
phân bón cho trông trọt.
Nhiều gia đình người Hoa ở Trung du, miền núi nuôi ong lấy mật (voỏng
phống)
2.1.3 Thủ công gia đình
Ở nông thôn, thủ công gia đình của người Hoa chỉ mang tính bổ trợ. Cơ
cấu các nghề thủ công của họ đa dạng với nhiều nghề khác nhau: rèn đúc,
đường mía, làm kẹo, làm miến, làm mì gạo, chế tác đồ gỗ và đan lát,...
Xưa kia, nghề rèn đúc của họ có thị trường khá rộng. Bên cạnh những mặt
8


hàng thông thường như dao, cuốc, liềm, răng bừa,...các thợ thủ công người Hoa
rất giỏi chế tác một số loại công cụ đặc dụng như dao thái mì, đai và trục kéo
mía, yên ngựa, gùi, thúng, mủng, đồ đánh bắt thủy sản,...
Ở các thành phố, thị xã... Người Hoa mở các xường cơ khí, các cơ sở sửa
chữa xe cộ,...
Ở miền Tây Nam Bộ, họ mở các xưởng sửa chữa tàu, thuyền,... Buôn bán

vật tứ cơ khí, máy móc, vật tư nông nghiệp,..
2.1.4 Chiếm đoạt tự nhiên
Việc khai thác sản phẩm sẵn có trong tự nhiên của bộ phận người Hoa ở
nông thôn, trung du, miền núi, cũng là hoạt động phụ trợ. Sản phẩm thu hái của
họ gồm: móc, báng, cọ, củ mài, củ lỗ, quả gắm, các loiaj rau rừng, măng, hạt
dổi, gừng, tía tô, thuốc nam,...
Xưa kia, ở khu vực rừng núi, họ dùng súng kíp, bẫy, nỏ,... Săn bắt các loại
muông thú. Ở những nơi có điều kiện họ dùng lưới, vó, câu,...đánh bắt thủy sản
2.1.5 Buôn bán, dịch vụ
Đối với người Hoa, buôn bán là ưu thế của họ. Nhất là bộ phận sống ở
thành thị. Họ rất năng động trong các hoạt động thương mại, kinh doanh, dịch
vụ. Đời sống kinh tế của bộ phận này khá hơn hẳn so với những người làm nghề
nông.
Về cách thức tổ chức, hoạt động trao đổi buôn bán của họ chủ yếu diễn ra
thông qua hệ thống cửa hàng, cửa hiệu, các trung tâm thương mại và các chợ
phiên.
Đối tượng buôn bán đủ loại: từ tạp phẩm, đồ gia dụng, nông lâm thổ sản,
các loại hóa chất, vải, giấy,... Cho đến ô tô, máy kéo, tàu thuyền,.. Hiện nay,
việc trao đổi, buôn bán của người Hoa càng có điều kiện phát triển. Ở thành phố
Hồ Chí Minnh, và các thành phố lớn khác, người Hoa là lực lượng chính trong
kinh doanh dịch vụ, khách sạn, nhà hàng,...
2.2 Hoạt động kinh tế của người Hoa ở Nam Bộ
Sự hình thành các nhóm hoạt động kinh tế theo địa phương, ngề nghiệp
khác nhau là đặc trưng của người Hoa gắn với quá trình di cư sang Việt Nam
9


trong thế kỷ XVIII và XIX.
Những người đồng hương họ tìm đến nhau và tập hợp lại trong các bang,
hội,.. Giúp nhau công việc làm ăn và tạo dựng cơ sở kinh tế ban đầu. Đặc biệt là

giữa các nhóm địa phương (Quảng Đông, Phúc kiến, Triều châu, Hải Nam, Hẹ).
Có sự phân chia các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau.
Ngoài thành phố Sài Gòn, người hoa thường sống trong các thị trấn, thị xã
và lấy hoạt động thương mại dịch vụ làm chính. Hoạt động tại các trung tâm
kinh tế lớn như Sài Gòn - Chợ Lớn, thậm chí cả các tỉnh khác trong vùng Nam
Bộ đều được “Trung tâm thương mại người Hoa” điều hành.
Hoạt động kinh tế của người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh là nét điển
hình để nhận diện hoạt động kinh tế của họ ở Nam Bộ:
+ Nhóm Quảng Đông có dân số đông nhất, kinh tế chính là các tiệm tạp
hóa, cung cấp các nhu cầu yếu phẩm, các vật dụng đơn giàn và có mặt hầu khắp
khu vực Chợ Lớn những năm 50 của thế kỷ trước.
+ Nhóm Triều Châu hoạt động chế biến lương thực, thực phẩm (làm bánh,
ướp cá khô, chè khô, làm đường,...), vận tải đường bộ, đường thủy và hoạt động
xuất nhập cảng...
+ nhóm Phúc Kiến: có nhiều thương gia hoạt động mua bán lúa gạo toàn
Nam Bộ và Campuchia. Họ mua lúa của nông dân tập trung về Chợ Lớn để xay
xát, xuất khẩu và thu mua phế liệu kim loại,...
+ Nhóm Hải Nam: kinh doanh các quán ăn (nhậu) bình dân, cà phê vỉa hè,
nhiều người giỏi nghề đầu bếp làm việc cho các nhà hàng Âu,...
+ Nhóm người Hẹ: kinh doanh các loại thuốc Bắc và Đông Nam dược và
độc quyền trong việc sản xuất bánh mì cho các nhà hàng lớn.
Sự phân công các lĩnh vực kinh tế trên có tính tương đối vào thời kỳ ban
đầu, về sau được mở rộng nhiều ngành nghề và không phân biệt nhóm địa
phương,... Những năm 60, 70 của thế kỷ XX, tư sản người Hoa đã phát triển
nhiều ngành nghề mới ở Nam Bộ như Thực phẩm, thuốc lá, dệt, giấy, hóa chất,
đồ gốm sứ, sắt thép, cơ khí, ngân hàng, tín dụng.
Sau năm 1975, các ngành nghề khác như tiểu thủ công nghiệp, giao thông
10



vận tải, thương mại dịch vụ,.. Được quan tâm và tiếp tục phát triển.
III.

Tổ chức xã hội

3.1 Tổ chức, thiết chế xã hội
3.1.1 Đặc điểm chung trong Tổ chức, thiết chế xã hội của người Hoa
3.1.1.1 Thôn trại
Mặc dù có số dân gần một triệu người, nhưng cộng đồng người Hoa cư trú
khá phân tán. Ngoại trừ thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung người Hoa
nhất, còn lại cư trú ở các địa phương khác, nhất là các tỉnh, thành phố phía Bắc.
Ở Trung du miền núi Bắc Bộ, Trung Bộ và các tỉnh miền Tây Nam Bộ, họ sống
xen ghép với các tộc người khác trong các thôn, trại,... Trước năm 1954, các
thôn trại của người Hoa, các công xã nông thôn, tụ cư trên cơ sở quan hệ láng
giềng. Đó chính là tổ chức xã hội tự quản cao cấp nhất của họ. Các thôn trại của
họ được tổ chức và vận hành, phù hợp với lối sống riêng của họ, và thích ứng
với bộ máy hành chính của nhà nước Việt Nam.
Cho đến 1955, xã hội của người Hoa về cơ bản đã có sự phân hóa giàu,
nghèo khá sâu sắc. Trong các thôn trại (nhất là vùng Nam Bộ), nhiều gia đình
có nguồn tư liệu sản xuất cố định lớn (vài chục - hàng trăm mẫu ruộng), không
thể tự canh tác, mà phải thue mướn, phát canh thu tô. Thực chất đây là quan hệ
giữa nông dân và địa chủ.
Thời thuộc Pháp, tổ chức xã hội của người Hoa khá chặt chẽ. Tại Việt
Nam, cộng đồng người Hoa có nguồn gốc thuộc một tỉnh Trung Hoa, đều thuộc
một Bang. Bang là tổ chức tự quản lớn nhất của người Hoaowr Việt Nam. Mỗi
Bang có một bang trưởng đứng đầu. Các thôn trại người Hoa đều thuộc về một
Bang nào đó, do trại trưởng đứng đầu. Trưởng trại đại diện cho các thành viên,
quan hệ với chính quyền sở tại. Việc tổ chức, và vận hành thiết chế tự quản ở
mỗi thôn trại được duy trì trên cơ sở của lệ tục, độc lập thành hương ước. Các
điều khoản trong hương ước khá cụ thể, tỷ mỷ.

Người Hoa đến vùng đất Nam Bộ vào thập kỷ 70 của thế kỷ XVII. Họ cư
trú đông đúc tại các đô thị: Sài Gòn, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch giá,... Những
người có nguồn gốc ở tỉnh bên Trung Hoa (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quý
11


Châu,...), sống thành các làng riêng, gọi là Minh Hương, người đến trước
thường được tôn làm Minh Hương tiên hiền. Về phương diện hành chính, mỗi
cộng đồng người Hoa ở tỉnh gốc lập thành một Bang, có một bang trưởng là
người đại diện để liên hệ với chính quyền sở tại. Trưởng bang có sổ hàng bang
ghi chép về các hộ, giống như sổ hộ khẩu. Thời Pháp thuộc và thời Mỹ Ngụy,
bộ phận người Hoa sống ở các đô thị lớn (Sài Gòn, Gia Định, Cần Thơ,...) trở
thahf những nhà tư sản công nghiệp và thương nghiệp, làm chủ các khách sạn,
các hãng buôn lớn; một số ở miền Tây Nam Bộ buôn ngũ cốc,phụ tùng xe máy,
lâm thổ sản. Họ trở thành các tư sản mại bản. Thời ấy, bộ phận người Hoa này
có quyền lợi gắn chặt với chế độ thực dân.
Từ khi hòa bình được lập lại đến nay, sau những biến động về lịch sử
(1979), toàn bộ người Hoa ở Trung du miền núi Bắc Bộ, đều xen cư với các dân
tộc anh em, họ không có tồn tại riêng. Họ quần tụ thành các xóm nhỏ ghép với
các thôn bản người Tày hay người Sán Dìu. Đôi khi, họ còn xen ghép cả với
người Việt, người Sán Dìu, người Sán Chay và người Ngái. Bộ phận người Hoa
sinh sống ở các đô thị, tính phân tán còn sâu sắc hơn.
3.1.1.2 Các tổ chức xã hội
Các bang, hội quán của người Hoa ở Việt Nam ra đời vào loại sớm nhất,
so với Hoa kiều ở các quốc gia khác. Đó là các Minh Hương xã, Thanh Hà xã,
Tam Sơn, Lệ Chu,... Mỗi bang có trường học, bệnh viện, nhà xuất bản, báo chí,
cơ sở tín dụng, đỉnh chùa, nghĩa địa, câu lạc bộ,các từ đường,... Thời nhà
Nguyễn, 1787 đã có 4 hội đoàn của người Hoa được thành lập. Đời vua Gia
Long (1814) đã ban hành điều luật cơ cấu, tổ chức những hội đoàn của người
Hoa ở Việt Nam và cho phép 7 bang mới của người Hoa được thành lập: Triều

Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, Quỳnh Châu, Phúc Châu và Hakka.
Các Bang trưởng, do đại hội các thành viên bâu chọn, và được vua nhà Nguyễn
phê chuẩn. Đến đời Minh Mạng, việc phê chuẩn cho chức bang trưởng được
giao cho chính quyền sở tại.
Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện Nam kỳ thương vụ tổng hội (1900),
Việt Nam - Trung Hoa Tổng thương hội (1903), và phòng thương mại người
12


Hoa (1925),... Ngoài các tổ chức công khai trên, người Hoa ở Việt Nam còn có
hội kín. Thiên địa hội,.. Ra đời từ đầu thế kỷ XX ở Nam kỳ, đến những năm
1940, tổ chức này phát triển các chi nhánh ở Chợ Lớn, các tỉnh thành phố ven
biển miền Trung... Khi ở Việt Nam có Đảng Cộng sản lãnh đạo, Hoa kiều được
tổ chức lại thành: Hội Giải liên (1950), Hội Ái Liên, hội Hoa Liên (1950), Đoàn
thanh niên tân dân chủ Hoa kiều (1949), Hoa kiều dân chủ phụ nữ liên hiệp hội
(1950),... Năm 1948, Nha Hoa kiều vụ trung ương được thành lập, theo đó các
tổ chức Lý sự hội, Hoa tân hội,... Lần lượt ra đời. Năm 1958 tổng hội Hoa liên ở
Việt Nam ra đời.
3.1.1.3 Dòng họ và gia đình
Dòng họ
Dòng họ của người Hoa là hình thức tông tộc khép kìn, huyết thống tính
theo dòng cha. Tại những vùng quê cũ, thiết chế dòng họ có truyền thống lâu
đời và có tác dụng lớn trong đời sống của mỗi gia đình. Tuy nhiên, với những
lưu dân đến Việt Nam lập nghiệp, dòng họ có xu hướng ngày càng xa nhóm
gốc, các chi ngành cũng ngày càng xa nhau. Hầu hết các dòng họ Hoa đều
không có liên hệ với những người cùng tông tộc ở Trung Hoa.
Người Hoa coi trọng việc chép gia phả của dòng họ mình. Phần lớn các tên
gọi dòng họ Hoa đều được là âm Hán Việt. Chức năng kinh tế - xã hội của dòng
họ Hoa vẫn là yếu tố đáng chú ý trong cấu trúc xã hội. Đứng đầu mỗi dòng họ
có tộc trưởng. Thế lực của các tộc trưởng trong người Hoa còn khá mạnh, nhất

là những tộc trưởng dòng họ lớn. Hằng năm, các dòng họ thường phải đóng góp
để cúng giỗ họ. Tộc trưởng còn là người giữ và ghi chép tộc phả. Cũng trong
ngày giỗ họ, các sự kiện lớn trong năm của dòng họ (công đức, tu sửa đường
đá,...) và mỗi gia đình (tang ma, cưới hỏi, sinh con,...) sẽ được bổ sung vào tộc
phả.
Gia đình
Cho đến trước năm 1954, người Hoa ở một vài nơi vẫn tồn tại những gia
đình lớn, gồm 3 - 4 thế hệ với 30 - 40 nhân khẩu. Về bản chất, gia đình người
Hoa là loại hình gia đình phụ quyền, một vợ một chồng. Tuy nhiên, hiện tượng
13


đa thê xưa kia tương đối nhiều. Trong gia đình, người cha hay chồng là người
quyết định mọi việc. Mỗi gia đình người Hoa thực sự là một đơn vị kinh tế, một
tế bào xã hội,... Trong gia đình người Hoa, sự ràng buộc chặt chẽ nhất thể hiện
ở mối quan hệ cha mẹ, con cái.
3.1.2 Tổ chức xã hội cổ truyền của người Hoa ở vùng Nam Bộ
3.1.2.1 Các tổ chức xã hội
Được tổ chức với nhiều dạng thức khác nhau và khác biệt với các tộc
người khác trong vùng. Đó là tổ chức cộng đồng với các Làng Minh Hương,
Bang, Hội Đoàn,...
Người Hoa ở Nam Bộ cư trú trên hai địa bàn nông thôn và thành phố. Dù
nông thôn hay thành phố, họ tập hợp trong các “làng Minh Hương”. Các “làng
Minh Hương” có từ thế kỷ XVII, là dạng tổ chức hành chính ở Đàng trong dành
cho người Hoa khi là công dân Việt Nam. Người Hoa sống xen cư với người
Kinh và Khmer. Tại Sài Gòn xưa, làng Minh Hương của người Hoa thuộc Quận
5 ngày nay, có đình Minh Hương Gia Thạch tại phường 10 và phường 11.
Chính quyền Đàng trong phân biệt người Hoa là công dân Việt Nam với Hoa
Kiều. Làng là đơn vị hành chính, có địa phận và có “Minh Hương điều ước”.
Làng bầu ra ban quản lý và được chính quyền chấp nhận.

Sang thế kỷ XVIII tình hình nhập cư của người Hoa tăng lên nhanh chóng,
những “làng Minh Hương” không còn đáp ứng nhu cầu quản lý xã hội người
Hoa. Trước tình hình đó, năm 1787 Nhà nước phong kiến Việt Nam cho phép
người Hoa thành lập các “Bang”. Bang là tổ chức tập hợp những người Hoa đến
Việt Nam thuộc cùng một địa phương. Tổ chức “Bang” là phương cách quản lý
người Hoa có tính đặc thù. Đứng đầu các Bang có một Bang Trưởng và một
Bang Phó,.. Do các thành viên bầu chọn, họ là người có tài sản khá, có hiểu biết
và quan hệ rộng rãi, có uy tín. Bang trưởng và các thành viên quản trị có trách
nhiệm giao tiếp với chính quyền, nhất là việc thu nộp những khoản thuế do nhà
nước quy định, dàn xếp công việc nội bộ. Bang trưởng có quyền trục xuất
những thành viên bất hảo ra khỏi bang và đề xuất với chính quyền cho những
thành viên mới có đủ điều kiện nhập Bang.
14


Hội là tổ chức mang tính quần chúng và phổ biến ở người Hoa với nhiều
dạng theo những tiêu chí khác nhau, nhưng quy mô nhất vẫn là hội thân tộc và
nghề nghiệp. Hội thân tộc (Tông thân hội) tập hợp những người cùng dòng họ
với nhau như hội họ Trần, họ Dao, họ lưu,... Người Hoa cùng họ không có
nghĩa là cùng huyết thống với nhau, song khi di cư sang Nam Bộ thì họ vốn có
mối quan hệ nguồn gốc lâu đời ở Trung Hoa nên phải có trách nhiệm đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau. Họ thân tộc mang tính tự nguyện, có từ đường làm nơi thờ
ông tổ của dòng họ và cúng giỗ tổ vào ngày cố định hàng năm. Đứng đầu hội
thân tộc là người có tên tuổi, có vai vế, thứ bậc cao, có nhiệm vụ chủ trì các lễ
tại từ đường, hòa giải các mối quan hệ, tranh chấp dòng họ,... Kinh phí hoạt
động của hội là tự nguyện đóng góp của các thành viên, người khá giả trong
họ...
Hội nghề nghiệp là tập hợp những người Hoa có cùng một hoạt động nghề
nghiệp như: Hội Thuộc da, Hội Đồ mộc, Hội Kim Hoàn,... Thành viên của hội
có trách nhiệm bảo vệ bí quyết nghề nghiệp, giúp đỡ nhau trong hoạt động nghề

nghiệp, cạnh tranh trên thương trường. Hội trưởng do các thành viên bầu và
thường là người lớn tuooircos thâm niên nghề nghiệp, tinh thông, có uy tín
trong nghề. Các thành viên đóng góp kinh phí chung để hoạt động. Quỹ của hội
dùng để cúng giỗ tổ - vị tổ sư, sáng lập ra nghề và để giúp các thành viên trong
hoạt động hoặc gặp khó khăn trong cuộc sống.
Người Hoa Nam Bộ còn có các hội đoàn như: Hội Đoàn tương tế gồm một
số người cùng quê thân thiết nhau, có ban bảo trợ nhằm giúp đỡ các thành viên
và hoạt động từ thiện... Hội Đoàn văn hóa thể thao là tập hợp những người có
nhiệt tình và đang hoạt động thể thao.
3.1.2.2 Dòng họ, gia đình
Gia đình người Hoa theo chế độ phụ hệ. Trong gia đình có 2 hoặc 3 thế hệ
cùng sinh sống. Con trai trưởng là người được thừa kế tài sản và có nghĩa vụ lo
hương hỏa tổ tiên.
Trong gia đình thờ thần tài, thờ trời, thổ địa, thần giữ cửa, chỗ trang trọng
thờ tổ tiên. Có nơi thờ phật Quan Âm, Quan Công, Bà Thiên Hậu, Ngũ hành
15


Nương Nương,...
Tại thành phố Hồ Chí Minh đa số thanh niên sống chung với bố mẹ. Quan
niệm về chọn người bạn đời phỉa là người thủy chung, có việc làm ổn định.
Phụ nữ có vai trò quan trọng trong nội trợ và cuộc sống gia đình, song nam
giới là người quyết định các công việc.
Tư tưởng Nho giáo vẫn coi trọng nam giới hơn nữ giới. Gia đình có nhiều
con là hoạnh phúc, là chỗ nương tựa khi tuổi già. Con cái phải có hiếu với cha
mẹ.
3.2 Nghi lễ, tập tục đời người
3.2.1 Đặc điêm chung của nghi lễ, tập tục đời người của người Hoa
3.2.1.1 Sinh đẻ
Trong thời kỳ thai nghén, các thai phụ người Hoa ít phải ăn kiêng. Họ chỉ

kiêng ăn thịt trâu, thịt chó,... Và đồ ăn quá bổ dưỡng. Sản phụ sinh con tại
buồng ngủ của mình. Khi vượt cạn có bà mụ vườn, mẹ hoặc các chị em gái của
chồng hỗ trợ. Ngay sau khi sinh con, sản phụ sẽ được uống một chén rượu
gừng. Khi trong nhà có người đẻ, họ cắm một cành lá xanh trước cửa ra vào, để
ngăn tà và vía dữ. Trong thời gian ở cữ, sản phụ được quan tân dặc biệt. Đồ ăn
chủ yếu của sản phụ là gà, chân giò lợn nấu gừng, nghệ,... Kiêng ăn thịt mỡ, thịt
trâu, thịt bò, thịt thú rừng, cà chua, bắp cải, su hào,..
Theo tục lệ người Hoa, hài nhi vừa chào đời được đặt tên ngay. Ông nội
đặt tên cho cháu đích tôn, các cháu tiếp theo có thể do ông nội, ông ngoại, cha
mẹ, hoặc ông cậu,... Đặt tên. Một tháng sau khi sinh, hài nhi được làm lễ thêm
sức. Sau một năm, trẻ được làm lễ thôi nôi. Người Hoa không có tục làm lễ
thành đinh cho con trẻ.
3.2.1.2 Cưới xin
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng ở người Hoa kha bền vững. Đối với
người Hoa, ngoại hôn dòng họ là nguyên tắc bắt buộc, hôn nhân khác dân tộc ít
thấy. Họ cũng nghiêm cấm quan hệ hôn nhân giữa con cô - con cậu, con gì con già, hôn nhân chị em vợ, và hôn nhân anh em chồng... Hôn nhân của con
16


cái thường do bố mẹ xếp đặt, môn đăng hộ đối được đặt lên hàng đầu.
Hiện nay, người Hoa lấy vợ, lấy chồng là người khác dân tộc (người Tày,
Sán Chay, Khơ Me, Chăm,...) cũng đã tăng dần. Nạn tảo hôn trước đây phổ biến
thì nay hầu như hiếm thấy. So với các dân tộc cận cư (Tày, Sán Chay, Sán Dìu,
Khơ Me, Chăm,...), tuổi kết hôn của nam nữ thanh niên Hoa, cao hơn (nam 22 24, nữ 20 - 22).
Theo lễ ký, cưới xin của dân tộc Hoa gồm các nghi thức: Nạp thái; vấn
danh; Nạp cát, Nạp trưng, Thỉnh kỳ; Thân nghinh.
Trong đám cưới, vai trò của mối rất quan trọng. Hiện nay, cưới xin của
người Hoa thay đổi, giản tiện nhiều. Tuy vậy, cưới xin của họ vẫn phải tuân
theo trình tự bốn bước: Xin mệnh, hay là lấy số so tuổi; Ăn hỏi và Báo cưới
(Xiu cày); cưới (Tài cảy); lại mặt.

3.2.1.3 Tang ma
Theo phong tục người Hoa, khi có người chết, tang chủ cho người đi mời
thầy cúng về tổ chức đám tang.
Đám tang của người Hoa gồm các nghi thức: Báo tang, phát tang; khâm
liệm, mở đường cho hồn người chết thoát khỏi trần gian; chôn cất; đưa hồn
người chết về Tây Thiên Phật Quốc, và đoạn tang. Khi chôn cất họ chú trọng
việc chọn ngày, giờ (tránh trùng tang, xui xẻo cho con cháu,...)
Xưa kia, họ quàn thi hài trong nhà hàng tuần, nên họ thường cho rất nhiều
chè khô vào ttrong quan tài trước khi nhập quan (nhất là người Hoa ở Nam Bộ).
Hiện nay, khi làm ma, họ chỉ quàn trong nhà 1 - 2 ngày. Họ thường chôn
theo những vật dụng của người quá cố. Họ cũng có tục chôn theo người quá cố
một nửa chiếc đòn gánh. Sau khi chôn cất họ làm chay cho người quá cố.
3.2.2 Nghi lễ, tập tục vòng đời người của người Hoa vùng Nam Bộ
3.2.2.1 Hôn nhân
Truyền thống trước đây, người Hoa chỉ kết hôn trong nội bộ dân tộc theo
chế độ hôn nhân một vợ một chồng, mang tính đẳng cấp, phụ thuộc vào tài sản,
có tính “mua bán”. Trai gái không được tự ý yêu đương, khoomng được tự ý
quyết định bạn đời trăm năm của mình.
17


Quan hệ hôn nhân nghiêm cấm quan hệ hôn nhân cùng dòng họ; cấm con
cô, con cậu, con gì,hai anh em trai lấy hai chị em gái. Tàn dư hôn nhân “nguyên
thủy” được thể hiện ở tục lại mặt, tục ở rể và vai trò của ông cậu (trong hôn
nhân của cháu gái và làm chủ đám cưới).
Trước đây nạn tảo hôn khá phổ biến. Sau khi bố mẹ chọn được con dâu,
con rể ưng ý thì chọn ngày lành tháng tốt dâng cúng, lễ bái để tiến tới hôn nhân.
Lễ cưới truyền thống phải qua 6 bước gọi là: Dạm hỏi; Vấn danh; Nạp cát;
Thỉnh kỳ, Nạp tế; Lễ cưới.
3.2.2.2 Lễ mừng thọ

Người Hoa có lễ mừng thọ dành cho những người sống từ 60 tuổi trở lên.
Con cháu tổ chức lễ mừng thọ cho ông bà, bố mẹ. Người được mừng thọ
mặc lễ phục có mù sắc khác nhau tùy theo tuổi thọ, ngồi trước ban thờ tổ tiên,
con cháu quỳ lạy chúc mạnh khỏe, sống lâu.
Trước đây trong dịp này người Hoa làm bánh “trái đào tiên” để dâng người
thọ và thượng thọ.
3.2.2.3 Tang ma
Người Hoa quan niệm chết là từ biệt cõi traanfsang thế giới bên kia, nơi
có cuộc sống không khác lắm so với trần gian.
Tang lễ được tiến hành qua các bước: báo tang - phát tang - khâm liệm mở đường cho hồn người chết thoát khỏi trần gian - chôn cất - đưa hồn người
chết vê Tây thiên Phật quốc - đoạn tang.
Nếu chồng chết trước vợ chặt đôi đong gánh, một nửa chôn theo chồng,
một nửa cất đi khi chết chôn theo để nhận nhau ở thế giới bên kia. Con gái chết
trước khi lấy chồng, hồn không được nhập vào tổ tiên mà phải ở ngoài cửa biến
thành “thần giữ nhà”.
Người Hoa có tập tục làm chay “tắm rửa” cho hồn người chết để chóng trở
về với tổ tiên và được đầu thai làm kiếp người. Chết dưới 14 tuổi không được
làm chay, chết không bình thường thì phải làm lễ “phá ngục giải oan”.
Các nhóm người Hoa có nghĩa trang riêng. Mộ của người Hoa thường đắp
nấm hình tròn và khá cao, phía đầu có bia đá ghi tên, họ, ngày mất và ngày lập
18


mộ. Người Hoa cúng cho người chết trong thời kỳ để tang 3 năm.
IV.

Văn hóa vật chất

4.1 Nhà ở
Nhà ở cổ truyền của dân tộc hoa ở Nam Bộ là nhà xây lợp ngói âm dương

và thường có cổng cài then ngang. Những nhà khá giả thường có “ trán tường”
chạm hoa lá. Của trang trí chữ hoặc treo đèn lồng trang trí bằng màu vàng và
màu đỏ với màu sắc sặc sỡ…
- Nhà cửa Nhà cổ truyền của người Hoa có những đặc trưng mang dấu ấn
của người phương Bắc rất rõ. Kiểu nhà "hình cái ấn" là rất điển hình. Nhà hình
cái ấn của người Hoa bên Trung Quốc. Nhà thường năm gian đứng (không có
chái). Bộ khung với vì kèo đơn giản, tường xây gạch một rất dày (30-40cm).
mái lợp ngói âm dương. Mặt bằng sinh hoạt: nhà chính bao giờ cũng thụt vào
một chút tạo thành một cái hiên hẹp. Gian chính giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên,
đồng thời còn là nơi tiếp khách. Các gian bên đều có tường ngăn cách với nhau.
Đến nay nhà người Hoa đã có nhiều thay đổi: có một số kiểu nhà là biến dạng
của nhà cổ truyền. Nhưng cũng có những kiểu nhà, người Hoa tiếp thu của
người Tày hay người Việt. Ở Quảng Ninh, một số cư dân Hoa chuyên đánh cá
ven biển thuyền đồng thời cũng là nhà. Riêng đồng bằng sông Cửu Long, người
Hoa còn có nhà sàn
- Nhà người hoa ở Sài Gòn Chợ Lớn thường tập chung ở các sở tín ngưỡng
của các bang, hội quanh các Chùa Bà, chùa Ông. Nhiều nơi ở sâu trong các ngõ,
hẻm thiếu ánh sáng. Nhà của người dân lao động vốn chật hẹp, thiếu tiện nghi,
lại có nhiều chức năng sử dụng. ngoài để ở nhà còn có chức năng sản xuất, giao
dịch ,để nguyên liệu, thành phẩm
Người ta dễ phân biệt nhà người hoa với nhà người kinh bởi yếu tố tín
ngưỡng và nàu đỏ trang trí cửa nhà cũng hư cách bài trí từ ngoài vào trong với
các bàn thờ thần thánh, tổ tiên, gia đình, với các băng giấy màu đỏ viết chữ hán
ghi lời cầu nguyện,chúc mừng điều tốt lành.
- những người làm nghề nông thường sống thành thôn xóm. Làng thường
19


ở ven chân núi, trong cánh đồng, trải dài trên bờ biển, gần nguồn nước, giao
thông thuận tiện. Trong làng, nhà ở bố trí sát nhau theo dòng họ. Ở thành thị họ

thường sống tập trung trong các khu phố riêng. Nhà thường xây bằng đá, gạch
mộc hay trình đất, lợp ngói máng hay lá quế, lá tre, phên lứa... Nổi bật trong
nhà ở là các bàn thờ tổ tiên, dòng họ, thờ Phật và các vị thần cùng các câu đối,
liễn, các giấy hồng chữ Hán với nội dung cầu phúc, cầu lợi, cầu bình yên
4.2 Chùa, đình:
Nguồn gốc: các ngôi chùa đình đều được ra đời trước và sau thế kỉ 18.
Quy mô: Các chùa đình của người Hoa lúc đầu quy mô nhỏ bé, đơn giản
về sau được cải tạo và phát triển hoàn thiện tùy thuộc vào sự làm ăn, phát triển
của cộng đồng tại các địa phương.
• Đặc điểm chung:
- Chùa thường được đặt ở khu vực đông dân cư, chưa thấy có cảnh quan
riêng biệt, tách rời, xa nhà ở của người dân.
- Chùa thường được xây dựng theo lối chữ Quốc hay chữ Khẩu, có người
gọi là “ Trái ấn” với các dãy nhà khép kín, vuông góc tạo không gian ở giữa gọi
là sân trời “ Thiên tinh” để điều tiết ánh sáng, không khí, vừa kín đáo lại vừa
thông thoáng.
- Có thể nhận biết dễ dàng nhận ra chùa của người Hoa với màu đỏ hoặc
màu hồng thắm, vì đối với người Hoa màu đỏ là màu của may mắn và hạnh
phúc.
- Các chùa Hoa được xây, lợp ngói, có viền bằng ngói óng men màu xanh
thẫm.
- Không gian chùa người Hoa thường có các bộ phận chủ yếu:
- Sân chùa: (tùy theo địa thế xây chùa mà sân chùa rộng hẹp khác nhau
để mọi người tập kết khi viếng chùa, biểu diễn nghệ thuật, để cây cảnh…)
- Cổng, cửa chùa: được chạm trổ công phu, phía sao cổng, cửa có bình
phong tránh nhìn thẳng vào chùa. Trước cửa thường có 2 con kì lân(nếu thờ nữ
thần hoặc văn thần) hoặc sư tử( nếu thờ nam thần và phái võ)
- Tiền điện: gian ở ngay sau khi bước vào cửa chùa, được bài trí thoáng
đãng tờ quan công,Thổ địa,Thần tài,..
- Trung điện: là nơi bầy lư hương cỡ lớn bằng các chất liệu khác nhau tùy

từng chùa.
20


- Chính điện: là nơi thờ Quan công, Bà Thiên Hậu, Ngọc Hoàng, Thượng
đế và các vị thần tài, ông Bổn, Dược sư, Bà Thai Sinh, Ngũ hành, Nương
Nương…
- Sân thiên tinh:tạo không khí trang nghiêm.
- Các hành lang và gian nhà phụ nối giữa các điện tạo lối đi trang nghiêm
và tiện lợi khi mưa nắng.
→ chùa đình của người Hoa là sự kết hợp của kĩ thuật xây dựng theo
phong cách kiến trúc Trung Hoa, là sự kết hợp của nghệ thuật điêu khắc và của
hội họa.
4.3 Trang phục.
- Trang phục của người Hoa Nam Bộ có nhiều biến đổi theo thời gian và
có sự giao thoa với trang phục người Kinh, nó thường được tái hiện trong các
dịp lễ tết và hội hè.
4.3.1 Trang phục ngày thường:
- Trang phục của nam giới: Áo ngắn gọi là áo “xá xẩu”. Áo có 2 vạt
như áo cánh, tay lửng, nút áo bằng vải, cài ở giữa, trong khi làm việc họ ít khi
cài khuy. Một loại quần đàn ông được gọi là “quần tiều”. Dài quá đầu gối một
chút, ống rộng, thắt lưng bằng vải rút bỏ thòng lòng. Một chiếc khăn rằn đôi khi
là khăn bông vắt vai hoặc quấn quanh bụng dùng để lau mồ hôi khi nắng nóng
hoặc làm việc.
- Vào dịp tết những người đàn ông hoa đứng tuổi thường mặc một chiếc
áo dài màu đen hoặc xám, tay cầm quạt, đội mũ chóp vải trùm đầu, chân mang
giày vải, có người còn ngậm một tẩu thuốc.
- Trang phục nữ giới: Áo ngắn, nút áo bên sườn phải kéo từ cổ xuống,
cổ áo hơi cao, tay áo quá khủy tay. Quần của phụ nữ người Hoa ống hẹp, cao
trên mắt cá chân.

- Trong ngày lễ tết thường mặc một loại áo váy mà người Việt quen gọi là
áo “xường xám”, người Hoa gọi là “chuyền chỉ”. Loại váy này thường đi với
các loại trang sức như: vòng cổ, vòng tay, bông tai tạo nên vẻ duyên dáng, trẻ
trung. Kiểu tóc đặc trưng của người phụ nữ bình dân là cắt tóc ngắn, để thẳng
chấm tới vai, phía trước vén đường ngôi giữa và vén sau tai, cũng có khi họ búi
sau gáy và cài trâm, ép xuống sát da đầu. Đi cùng bộ trang phục thường có
21


chiếc khăn tay dùng để lau mồ hôi hay lau tay.
4.3.2 Trang phục lễ cưới cổ truyền
+ Cô dâu còn đội thêm chiếc mũ cưới (mũ phụng), gồm hình chim phượng
với các bông nhung đỏ đung đưa theo bước chân, phía trước mũ có chiếc rèm
thưa bằng hạt châu để che mặt.
+ Chân đi hài bọc gấm hoặc nhung thêu hoa.
- Áo của chú rể thêu rồng gọi là “lùng xám”(áo rồng). Trang phục là bộ
xiêm và áo bằng gấm xanh, dệt chữ thọ hay chữ phúc. Áo kiểu thường dài, cổ
áo cao, tay dài và rộng,cài cúc ở sườn phải hoặc ở giữa. Bên trong mặc áo trắng,
trên đầu đội mũ quả bí hoặc mũ dưa hấu màu xanh sậm,chân di hài bọc gấm.
Giữa ngực chú rể có đính 1 bông hoa vải to màu đỏ, các dải dây buộc chéo vào
người. Cũng có khi chú rể không cài hoa mà khoác bên ngoài áo dài 1 chiếc áo
ngắn không tay,xẻ giữa gọi là “mạ hoa”.
4.3.3 Trang phục lễ tết:
- Phụ nữ các dịp lễ tết thường mặc “ Xườn Xám” thường là màu đỏ, thêu
hoa, cộc tay , xẻ tà dưới chân. Loại áo này thường đi với các loại trang sức;
vòng cổ, vòng tay, bông tai.
- Người lớn tuổi thường mặc áo dài màu xám hoặc đen đội mũ chóp vải
trùm đầu, đi giày vải, miệng ngậm tẩu thuốc
4.3.4. Trang sức:
Phụ nữ thích dùng đồ trang sức đặc biệt là vòng tay bằng đồng, vàng, đá,

ngọc….đeo bông tai, dây chuyền.
Đàn ông thích bịt răng vàng và xem như một lối trang sức.
4.4 Ẩm thực
• Đồ ăn
- Người Hoa nổi tiếng với các món ăn ngon miệng được nhiều người công
nhận, kĩ thuật nấu ăn giỏi và có sở thích ăn món ăn xào mỡ với gia vị như vịt
quay, heo quay cả con và thịt xá xíu.
- Lương thực chính của người Hoa là gạo nhưng người Hoa thích dùng
những thực phẩm chế biến từ bột gạo và bột mì như : mì vằn thắn, hủ tiếu, ,
22


bánh bao.
Ví dụ:
+ Sủi cảo: nhân được làm từ tôm, thịt lợn, các loại rau…băm nhuyễn với
nhau và trộn gia vị cho vừa phải. Nhân sau khi chuẩn bị xong được cho vào một
lát bánh mỏng, làm bằng bột mì để gói hoành thánh, gói lại theo hình bán
nguyệt và đem luộc. Được chế biến theo nhiều cách như ăn nước , hấp hay
chiên
+ Hủ tiếu: Được làm từ thịt nạc heo, thịt bằm heo, tôm, cật, trứng cút, mực
khô….Dùng kèm với các loại rau giá, tần ô, hẹ và gia vị. Ba món hủ tiếu tiêu
biểu là: Hủ tiếu Nam Vang, Mĩ Tho, Sa Đéc.
+ Mỳ vằn thắn: Sợi mỳ được làm từ bột và trứng, sau đó được cán mỏng
nên sợi mỳ vừa dai vừa giòn, lại giữ được màu vàng ươm, luộc chín tới không
bị nát mà vẫn giữ được đọ dai vừa phải. Vằn thắn mềm, có nhân là tôm tươi giã
nhỏ, nấm hương và thịt, được gói trong một lớp bột mỳ. Để bát mỳ ngon hơn,
đầu bếp cho thêm một phần tư quả trứng luộc, một con tôm tươi cỡ 2 ngón tay,
thịt xá xíu thái mỏng, nấm hương và cả một miếng gan lợn luộc. Nước dùng
đậm vừa phải, nếu muốn ăn nhạt thì có thể thêm chanh, ăn cay thì đã có ớt thái
nhỏ, không cần phải dùng thêm tương ớt. Ngoài lá hẹ đúng vị, bát mỳ còn có

thêm rau cải cúc chần sơ qua. Ngoài ra còn một miếng bì lợn dày, mềm mềm,
rất dễ ăn. Và có thể ăn thêm quẩy, quẩy giòn giòn ngâm vào nước mỳ dai dai,
khá thú vị.
Thịt xá xíu: là một loại thịt heo quay hoặc nướng, xuất phát từ Quảng
Đông (Trung Quốc). Thịt heo bỏ xương,ướp gai vị, xỏ ghim rồi đem nướng trên
lửa. Thịt thường dùng là thịt vai, ướp mật ong, ngũ vị hương, xì dầu, chao,
tương đen, phẩm màu đỏ, rượu. Thịt xá xíu có thể dùng làm nhân bánh bao hoặc
có thể ăn với rất nhiều thứ khác nhau, ngoài cơm ra thì có thể kẹp bánh mỳ hoặc
nấu với các loại mỳ, đặc biệt là mỳ vằn thắn.
- Các dịp lễ tết họ thường làm nhiều loại bánh rất ngon, hấp dẫn về hình
thức.
Thức uống: Thức uống cũng dược người Hoa đặc biệt quan tâm vì ngoài
23


chức năng giải khát còn là loại thuốc mát bồi dưỡng “ lục phủ ngũ tạng”. Các
loại trà, sâm, nước đắng, nước hoa cúc…là những thứ giải khát thong dụng
trong gia đình. Nam giới cũng dùng rượu trong các dịp lễ tết, hội hè…
Hút :Thuốc lá được nhiều người hút, kể cả phụ nữ nhất là những người có
tuổi.

24



×