Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nguyên Lý Giáo Dục và Hệ Thống Giáo Dục Quốc Dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.62 KB, 17 trang )

BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA NHÓM 5
Các thành viên của nhóm gồm:
1.
2.
3.

Trần Thị Trúc Thoảng
Huỳnh Thị Ngọc Trâm
Phạm Thị Ngọc Thanh

Nguyên Lý Giáo Dục và Hệ
Thống Giáo Dục Quốc Dân

NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH:

Chương III :MỤC ĐÍCH, NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC
DÂN
I.
II.

Mục đích giáo dục:
Nguyên lý giáo dục:
1.
2.

Khái niệm nguyên lý giáo dục
Nội dung nguyên lý giáo dục

Nguyên lý giáo dục Việt Nam đã được quy định trong Luật Giáo dục và có nội dung
sau:
Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành,


giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,lý luận gắn liền với thực tiễn,giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
(Luật Giáo dục. Sđd. Điều 3,tr.8-9)
Đây chính là một luận điểm giáo dục quan trọng của Đảng và nhà nước ta, là kim
chỉ nam hướng dẫn toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường và cả xã hội.
Nguyên lý là một thể thống nhất và được chia làm 3 vế sau:
-

Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn;
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất.
Nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.

Trong đó việc thực hiện “ giáo dục kết hợp với lao động sản xuất” mà các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác-Leennin,Bác Hồ và Đảng ta luôn luôn coi trọng là yêu cầu
cao nhất và khó khăn nhất. Cao nhất vì giáo dục đóng gói trực tiếp vào việc sản


xuất ra của cải vật chất và cải tạo xã hội. Mặt khác ,qua lao động sản xuất con
người sẽ có điều kiện đào sâu kiến thức,rèn luyện tay nghề,nâng cao phẩm chất
đạo đức cũng như tinh thần trách nhiệm, tính thận trọng, chính xác,…..
Qua lao động sản xuất các em sẽ được tổ chức hoạt động nghiêm túc, có mục
đích, có kế hoạch.
Lý thuyết hoạt động đã chỉ rằng, trẻ chỉ trở thành nhân cách khi bắt đầu thực
hiện các hoạt động xã hội của loài người. Do đó, nói đến giáo dục, nói đến sự hình
thành và phát triển nhân cách con người, trước hết là nói đến việc người lớn tổ
chức cho trẻ tham gia các họat động đa dạng, đặc biệt là hoạt động nhận thức và
lao động sản xuất, lúc đầu với sự giúp đỡ của người lớn, sau đó là tự lực.
Học đi đôi với hành,lý luận gắn liền với thực tiễn.
Học đi đôi với hành:
Học là quá trình nhận thức chân lý khoa học. Hành là luyện tập để hình

thành các kỹ năng lao động và hoạt động xã hội, tức là biến kiến thức đã
tiếp thu được thành năng lực hoạt động của từng cá nhân.
Mục đích giáo dục trong mọi thời đại không chỉ giúp học sinh nắm vững
kiến thức mà còn biết áp dụng nó vào thực tiễn,hình thành kỹ năng, kỹ xão
hoạt động.
Ông cha ta xưa nay vẫn nói: “ phải chăm chỉ học hành”. Trong ngôn ngữ
Việt Nam học và hành luôn gắn kết với nhau, không bao giới tách rời nhau.
Trong quá trình học tập nếu biết vận dụng kiến thức đã học để thực hành
sẽ làm tang hiệu quả nhận thức,giảm lý thuyết “suông” và lúc đó thực hành
không phải “mò mẫn” mà được dựa trên một cơ sở lý thuyết khoa học
vững chắc. Kết quả là kiến thức trở nên sâu sắc và hành động trở nên sang
tạo,tinh thông.
2.1.

a)
-

-

-

Bác cũng đã dạy:
“ Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không
học thì hành không trôi chảy”.
Hồ Chí Minh tuyển tập. T.5
Ngoài ra Bác còn chỉ rõ nội dung của sự kết hợp học và hành trong từng bậc
học,cấp học:


“+ Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý

luận và khoa học tiên tiến của các nước,kết hợp với thực tiễn của nước ta, để
thiết thực giúp ích cho công việc xây dựng mước nhà.
+ Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những thi thức phổ thông,chắc chắn
thiết thực,thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ nhũng phần
nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
+ Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi, yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân,yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui
vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặt biệt giữ gìn sức
khỏe của các cháu”
-

b)
-

-

-

Việc kết hợp học và hành cần áp dụng ở nhiều mức độ khác nhau,theo từng
cấp học khác nhau. Có thể tiếng hành trong trường, ngoài trường,các mức
độ thực hành đều làm tăng chất lượng và hiệu quả học tập của học sinh.
Lí luận gắn liền với thực tiễn:
Chúng ta đều biết, nhà trường là một bộ phận của xã hội, giáo dục nhà
trường là một bộ phận của giáo dục xã hội,mục đích của giáo dục nhà
trường phục vụ cho sự phát triển của xã hội.
Trong khi giảng dạy lí luận,giáo viên thường xuyên liên hệ với thực tiễn sinh
động của cuộc sống hàng ngày, hàng giờ trong nước và cả thế giới,đây là
những minh họa vô cùng quan trọng giúp học sinh nắm vững lí luận và hiểu
rõ thực tiễn. Học tập có liên hệ với thực tiễn làm cho lí luận không còn khô
khan,khó tiếp thu mà còn trở nên sinh động, các hiện tượng thực tiễn được

phân tích , dược soi sáng bằng những lí luận khoa học vững chắc.
2.2.
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất
Quan điểm của Đảng ta là coi trọng và tiến hành đồng thời hoạt động học
tập và hoạt động lao động sản xuất của học sinh, kết hợp chặt chẽ tác dụng
hình thành và phát triển nhân cách của hai loại hoạt động chủ yếu của lứa
tuổi này, nền giáo dục có khả năng to lớn trong việc đào tạo những người
lao động được phát triển đầy đủ và cân đối về tâm hồn và thể chất, về tri
thức và đạo đức, về lý luận và thực hành. Đồng thời nền giáo dục còn có tác
dụng to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển.

Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục tháng 6/1957,Bác
Hồ đã nhận định như sau:


“ Trong thời kì kháng chiến ta có đề ra cho học sinh tham gia lao động sản xuất
có một thời kì ta có nhiều tiến bộ. Nhưng ta chưa biết kết hợp chặt chẽ giáo dục
văn hóa với lao động sản xuất. Mấy năm gần đây, việc giáo dục tinh thần lao
động, kỉ luật, lao động và giáo dục lao động có sút kém, bây giờ phải sửa”
Hồ Chí Minh tuyển tập. T7
-

-

-

-

-


Giáo dục lao động là một nội dung của giáo dục toàn diện, học sinh hôm
nay là những người lao động trong tương lai, vì vậy nhà trường phải chuẩn
bị cho các em cả tâm lý, ý thức, kiến thức và kĩ năng sẵn sang bước vào
cuộc sống lao động. Các trường phổ thông hiện nay đã đưa các môn học
như: thủ công, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề vào chương trình dạy học
là nhằm mục đích đó. Các trường dạy nghề,giáo dục chuyên nghiệp, cao
đẳng và đại học có một hệ thống các môn nghiệp vụ, kĩ thuật sản xuất, là
diều tất nhiên.
Lao động sản xuất vừa là môi trường vừa là phương tiện giáo dục con
người. Mọi phẩm chất nhân cách được hình thành trong lao động và trong
hoạt động xã hội.
Gia đình và nhà trường tổ chức cho học sinh lao động tự phục vụ và tham
gia lao động công ích xã hội để giáo dục ý thức và kĩ năng lao động cho học
sinh.
Phong trào thi đua vận dụng nguyên lý giáo dục của Đảng vào nhà trường
được phát động rầm rộ. Các trường tiên tiến,các đơn vị anh hùng như các
trường Bắc Lý, Cẩm Bình, Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình
xuất hiện,…
Đó là những bài học quý cần rút ra khi nghiên cứu nguyên lý giáo dục.
2.3.
Nhà trường gắn với gia đình và xã hội.

Bác Hồ đã dạy : “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo
dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường tốt
hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình
và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Hồ Chí Minh tuyển tập. T7
-

Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ trong xã hội. Con người

sống không đơn độc mà luôn có gia đình, bạn bè, và cả cộng đồng trong xã
hội.


-

Giáo dục là quá trình có nhiều lực lượng tham gia, trong đó có ba lực lượng
quan trọng nhất: gia đình, nhà trường, các đoàn thể xã hội. Ba lực lượng
này có chung một mục đích là hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ.
+ Gia đình là nơi sinh ra, nơi nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em. Giáo dục gia
đình dựa trên tình cảm huyết thống ,các thành viên gắn bó với nhau trong
suốt đời và như vậy giáo dục gia đình trở nên bền vững nhất. Gia đình sống
có nề nếp, có truyền thống gọi là gia phong. Gia đình hòa thuận, cha mẹ
gương mẫu, lao động sáng tạo, có phương pháp giáo dục tốt, đó là gia đình
có văn hóa. Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định giáo dục gia đình có
ảnh hưởng rất lớn đến thế hệ trẻ.
+ Giáo dục xã hội là giáo dục trong môi trường nơi trẻ em sinh sống. Mỗi
địa phương có trình độ phát triển đắc thù, có truyền thống và bản sắc văn
hóa riêng. Địa phương có phong trào hiếu học, có nhiều người thành đạt,
có bạn bè tốt là môi trường ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của trẻ
em. Hoạt động của các đoàn thể phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi,
cho nên tác dụng rất lớn đối với thế hệ trẻ.

-

-

-

-


Giáo dục gia đình và xã hội có những thế mạng riêng mà giáo dục nhà
trường không thể thay thế được
Ví dụ: Giáo dục đạo đức như long nhân ái, tính trung thực, cần kiệm,…
được gia đình làm rất tốt. Những phẩm chất này thường được nhen nhóm
lên ở các em từ thuở nhỏ, từ mái ấm gia đình, qua tấm gương, qua lời
khuyên nhủ tâm tình của bố mẹ.
Tinh thần cộng đồng, long dung cảm, kiên cường, trí sáng tạo, sự ứng xử
khéo léo…cũng thường được hình thành và phát triển trong quá trình lăn
lộn trải nghiệm trong thực tế cuộc sống, qua các trò chơi và hoạt động tập
thể, xã hội.
Giáo dục gắn với xã hội, với đời sống là sự tổng kết kinh nghiệm giáo dục
của ông cha ta, mà cũng là sự kế thừa kinh nghiệm giáo dục của cả loài
người.
Dựa vào nguyên lý này người ta đã điều chỉnh các yếu tố của quá trình giáo
dục, ví dụ như:
+ Về mục tiêu: đã chuyển từ mẫu người toàn tâm toàn ý phục vụ chúa sang
những mẫu người cự thể phục vụ đời sống con người như: thương gia, nhà


quản trị, nhà thám hiểm…những mẫu người sẵn sang xông pha vào nguy
hiểm để cải tạo tự nhiên, xã hội với những đặc điểm sau:
• Con người có đầu óc thực tế, thiết thực;
• Con người mà các mặt: sức khỏe, trí tuệ, đạo đức, mỹ dục… đều phát
triển tốt;
• Sẵn sàng phục vụ xã hội và Tổ quốc. Mục đích cưới cùng của giáo dục
là phục vụ xã hội trong đó có hạnh phúc riêng của bản thân
+ Về nội dung: Tư tưởng giáo dục gắn với xã hội và đời sống được thể hiện
trong tiêu chuẩn lựa chọn nội dung sau đây:






Học các môn thiết thực và giúp cho đời sống,tiêu chuẩn lựa chọn nội dung
thành “ hữu ích” , “hữu dụng”
Chọn những tri thức môn học góp phần rèn luyện trí xét đoán. Trí xét đoán là
mục tiêu của trí dục. Bởi vì trí xét đoán cần thiết cho cuộc sống, trí nhớ chỉ để
vận dụng trong kĩ thuật.
Tất cả các môn học đều phải phục vụ đức dục….
( Đức dục được đưa lên hàng đầu, có nhiệm vụ chỉ đạo toàn bộ nội dung giáo
dục. Trong mối quan hệ giữa Đức và Tài thì yếu tố cơ bản quyết định là Đức.
Nếu yếu tố quyết định cải tạo xã hội là con người thì yếu tố quyết định xây
dựng con người là đạo đức, là tâm hồn. Đức dục phải gắn liền với đức hạnh mà
con người có thể đem ra áp dụng được. Nó có kẻ thù là các tật xấu do đời
sống xã hội gây ra như: thói giả dối, bệnh chủ quan, lòng hiếu danh, hám
của,tính độc ác,…)

Thể dục được coi là mặt giáo dục được “vun trồng trước hết”. vì “ không có
sức khỏe thì mọi hoan lạc, đạo đức, triết học, khoa học,… đều phai màu và tan
biến hết”
+ Về phương pháp giáo dục thì gắn chặc 3 mặt: học, hành, sống trong một hpajt
động chung: học qua hành, hành để sống và sống là học, học để sống.
Nói tóm lại, từ mục tiêu đến nội dung, phương pháp… giáo dục đều được chỉ
đạo bởi nguyên lí giáo dục.
3. Những phương hướng thực hiện nguyên lí giáo dục.
- Nguyên lí giáo dục là một luận điểm giáo dục quan trọng được đúc kết trên
các căn cứ khoa học và thực tiễn, có giá trị chỉ đạo toàn bộ quá trình giáo
dục đi đến mục tiêu.



-

Nhìn chung việc học tập trong nhà trường chủ yếu hướng vào thi cử, hướng
vào thành tích trên lớp,tốt nghiệp của học sinh. Vì vậy cần có sự thay đổi cơ
bản trong cách đánh giá, thi cử, tuyển chọn. ngoài ra, cần chú ý một số biện
pháp sau:
a) Tiến hành từng bước việc phổ cập nền giáo dục, có chất lượng ngày càng
cao, cho tất cả mọi trẻ em, nam cũng như nữ, thuốc các thành phần dân
tộc, ở khắp mọi cùng đất nước; trên cơ sở đó, phổ cập từng bước việc
đào tạo nghề nghiệp cho tất cả thanh thiếu niên trước khi bước vào
cuộc sống lao động sản xuất. Trên tinh thần đó hiện nay đang tiến hành
phổ cập giáo dục THCS .
b) Thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục phổ thông: võ
trang tri thức khoa học và phát triển trí tuệ; hình thành thế giới quan
khoa học; giáo dục công dân và rèn luyện những công dân đậm đà bản
sắc dân tộc; giáo dục lao động; huấn luyện thể dục thể thao và quân sự;
bồi dưỡng văn hóa thẩm mĩ.
c) Xây dựng nội dung giáo dục mang tính chất toàn diện, cơ bản, hiện đại,
Việt Nam, phản ánh các vấn đề quan trọng liên quan đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; chú trọng cả tri thức khoa học, kĩ năng
thực hành.
d) Tổ chức cho toàn thể học sinh thường xuyên tham gia các hoạt động lao
động và hoạt động xã hội theo những hình thức và mức độ thích hợp với
từng lứa tuổi. Trong thời gian gần đây, việc tổ chức phong trào thanh
niên tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu vùng xa xóa đói giảm nghèo,
giúp đỡ đồng bào bị bão, lụt,…. Là những hoạt động rất tốt nhằm tạo
điều kiện cho học sinh, thanh niên rèn luyện, học tập theo hướng gắn
với xã hội, với đời sống.
e) Lôi cuốn các lực lượng cán bộ khoa học kĩ thuật, công nhân lành nghề,

nông dân có nhiều kinh nghiệm sản xuất tham gia vào việc giảng dạy kĩ
thuật và huấn luyện nghề nghiệp cho học sinh.
f) Nhà trường cần tổ chức các cơ sở thực hành, thí nghiệm thùy theo bậc
học, ngành học, điều này cần được lưu ý đến ở các trường chuyên
nghiệp, dạy nghề và ở bậc đại học, cao đẳng. Ở những nơi có điều kiện
cần tổ chức các cơ sở thực hành tại địa phương, đảm bảo thời gian dành
cho sinh viên trực tiếp lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất.
g) Nhà nước, nhà trường cần tạo mọi điều kiện, cơ sở vật chất và tinh thần
thuận lợi cho giáo viên và học sinh và học theo nguyên lý giáo dục;


không có cơ sơ, vật chất, điều kiện đảm bảo không thể tổ chức quá trình
giáo dục thành công

Tóm lại, mục đích, nhiệm vụ và nguyên lí giáo dục là ba khái niệm quan
trọng của Giáo dục học, chúng có liên quan mật thiết với nhau và làm
cho nội dung giáo dục trở nên phong phú. Nhà trường phải tổ chức quá
trình giáo dục phải làm sao để đạt tới mục đích, đảm bảo các nhiệm vụ
và tuân thủ các nguyên lí giáo dục,từ đó dẫn giáo dục đi đến thành công.
III.

Hệ thống giáo dục Quốc dân.
Khái niệm hệ thống giáo dục quốc dân.
1.1.
Khái niệm
Hệ thống giáo dục quốc dân của một nước là toàn bộ các cơ quan chuyên
trách việc giáo dục và học tập cho thanh thiếu niên và công dân của nước
đó. Những cơ quan này,liên kết chặt chẽ với nhau vê chiều dọc cũng như về
chiều ngang, hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh và cân đối,nằm trong hệ
thống xã hội, được xây dựng theo nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo

thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục quốc
dân.
Hệ thống giáo dục quốc dân gồm hai hệ thống lớn: hệ thống nhà trường và
hệ thống các cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Hệ thống giáo dục ngòai
nhà trường được chia thành từng ngành học, từng bậc học, từng cấp học,
từng loại trường.
+ Nhà trường là đơn vị cáu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân.
Nhà trường là cơ quan Nhà nước chuyên trách việc giáo dục – đào tạo con
người. Với nội dung giáo dục được chọn lọc cơ bản và sắp xếp có hệ
thống,với phương pháp khoa học, với những phương tiện và điều kiện giáo
dục tốt, với những nhà sư pham có học vấn rộng, có kinh nghiệm về nghề
nghiệp khoa học, chặt chẽ,liên tục trong một thời gian dài, nhà trường có
vai trò to lớn đối với sự phá triển nhân cách.
+ Hệ thống các ơ quan giáo dục ngoài nhà trường cũng là những tổ chức do
Nhà nước quản lý hoặc do các đoàn thể xã hội trực tiếp phụ trách, bao gồm
các nhà văn hóa, các câu lạc bộ,các thư viện, các nhà hát, các rạp chiếu
bóng, các trạm kĩ thuật,v.v… dành riêng cho thanh thiếu niên để học tập,
vui chơi – giải trí, bỗi dưỡng chính trị và đạo đức, phát triển năng khiếu.
1.2.
Đặc điểm:
1.

-

-


-

-


Hệ thống quốc dân của một nước phản ánh chế độ chính trị - xã hội, trình
độ phát triển kinh tế, trình độ khoa học, kĩ thuật, chính sách văn hóa giáo
dục, và truyền thống văn hóa giáo dục ở nước đó. Vì vậy, hệ thống giáo dục
của mỗi nước đều có những nét khác nhau về tính chất, cơ cấu, mục tiêu,
nội dung, quy chế, tổ chức v.v…..
Tuy nhiên, người ta cũng tìm thấy nhiều điểm tương đồng trong hệ thống
giáo dục các nước, nhất là trong diều kiện thế giới hội nhập vào nhau.
2. Những nguyên tắc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân
2.1.
Về vị trí và vai trò của giáo dục
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” (Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam năm 1992 Sđd. Điều 35. tr.26)
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu vì nó đào tạo ra con người, là
nhân tố quyết định sự hưng, suy của mọi dân tộc, mọi quốc gia, là nguồn
lực của mọi nguồn lực. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.
2.2.
Về mục đích, mục tiêu giáo dục
“Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân; đào tạo những nguời lao động có nghề, năng
động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên
góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
(Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 Sđd. Điều 35. tr.26)
2.3.
Về nguyên lý giáo dục
“Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục Xã Hội Chủ Nghĩa có tính nhân
dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội”.
(Luật giáo dục.Sđd. 1988. Điều 3. tr.8)
Trong các nguyên tắc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân thì nguyên lý
giáo dục là nguyên tắc quan trọng nhất, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
giáo dục đào tạo, nó nêu lên con đường, phương pháp cơ bản hình thành
nhân cách con người.
2.4.
Phát triển giáo dục


“Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến
bộ khoa học – công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm cân đối
cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô
trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử
dụng”. Công bằng – Dân chủ trong dân chủ
“ Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân
Mọi dân tộc không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính,
nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội và hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về
cơ hội hộc tập.
Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai
cũng được học hành, Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo
được học tập, bảo đảm điều kiện để những người học giỏi phát triển tài
năng.
Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia
đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng
hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật và đối tượng hưởng chính sách xã

hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình”.
(Luật giáo dục.Sđd. 1988. Điều 9. tr.11)
2.5.
Ngôn ngữ dùng trong nhà trường
“ Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường
Nhà nước tạo điều kiện để dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết
của dân tộc mình. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số
được thực hiện theo quy định của Chính phủ”.
(Luật giáo dục-HN. 1988. Điều 5. tr.9)
2.6.
Phổ cập giáo dục
“ Nhà nước quyết định kế hoạch và trình độ giáo dục phổ cập, có chính
sách bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.
Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ
giáo dục phổ cập.
Gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên trong độ tuổi
quy địnhcủa gia đình mình được học tập để đạt trình độ giáo dục phổ
cập”.
(Luật giáo dục.Sđd. 1988. Điều 10. tr.12)
2.7.
Xã hội hóa giáo dục
“ Mọi tổ chứ, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp
giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành
mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục.


Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát tiển sự nghiệp phát triển giáo
dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình nhà trường và các hình thức giáo
dục, khuyến khích, huy động và đào tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân
tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.

(Luật giáo dục.Sđd. Điều 11. tr.12)
2.8.
Sự thống nhất quản lý hệ thống giáo dục của Nhà nước
“ Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế
thi cử và hệ thống văn bằng”.
(Luật giáo dục.Sđd. Điều 13. tr.13)
3. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay
3.1.
Hệ thống giáo dục quốc dân gồm:
Giáo dục mầm non, có nhà trẻ và mẫu giáo.
Giáo dục phổ thông, có hai bậc học là bậc tiểu học và bậc trung học; bậc
trung học có hai cấp học là cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ
thông.
Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là trình độ co đẳng và trình độ đại
học; giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sĩ và trình
độ tiến sĩ.
Phương thức giáo dục là giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy
(Luật giáo dục.Sđd. Điều 6. tr.10)
3.2.
Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non(còn gọi là giáo dục trước tuổi học) thực hiện việc
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi. Do đặc
điểm công tác nên đội ngũ nhà giáo ở trường mầm non chủ yếu là nữ
giới, cô giáo có vai trò như người mẹ hiền, vừa nuôi, vừa dạy trẻ em –
mầm non tương lai của đất nước.
Giáo dục mầm non có nhiệm vụ phải đảm bảo hài hòa giữa nuôi dưỡng,
chăm sóc và giáo dục, phu hợp với sự phát triển tâm lý của trẻ em; giúp
trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn; biết kính trọng,

yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo và người trên; yêu quý
anh, chị, em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp;
ham hiểu biết, thích đi học.
Hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi này là vui chơi, vi vậy phương pháp
chủ yếu trong giáo dục mầm non là thông qua việc tổ chức các hoạt động
vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu gương,
động viên, khích lệ trẻ em tự giác học tập và tham gia các hoạt động.


Cơ sở giáo dục mầm non bao gồm:
+ Nhà trẻ nhận các cháu từ 3 tháng đến 3 tuổi
+ Trường, lớp mẫu giáo nhận các cháu từ 3 tuổi đến 6 tuổi
+ Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và trường mẫu giáo,
nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi vào học
3.3.
Giáo dục phổ thông
Giáo dục phổ thông Việt Nam với hệ thống 12 năm, tiếp nhận học sinh từ
6 đến 18 tuổi vào học.
Nhiệm vụ của giáo dục phổ thông là cung cấp cho học sinh hệ thống kiến
thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, toàn diện phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và đồng thời rèn luyện hình thành một số kĩ năng cơ bản để chuẩn
bị cho các em bước vào cuộc sống lao động, học nghề và tiếp tục học tập
ở bậc học co hơn.
Giáo dục phổ thông gồm ba cấp: tiểu học, trung học cơ sở và trung học
phổ thông.
Giáo dục tiểu học: là bậc học bắt buộc đối với trẻ em từ sáu tuổi đến
mười một tuổi; được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp
năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi. Nhiệm vụ của trường
tiểu học là cung cấp cho học sinh những hiểu biết đơn giản về tự nhiên,
xã hội và con người, những tri thức gần gũi với cuộc sống xung quanh,

đồng thời bồi dưỡng các kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt
và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh, có hiểu biết bn
đầu về hát, múa, âm nhạc, mĩ thuật.
Giáo dục trung học cơ sở (THCS): THCS được thực hiện trong bốn
năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải có bằng
tốt nghiệp tiểu học trung học cơ sở, có tuổi là mười một tuổi. Nhiệm vụ
của giáo dục THCS là dạy cho học sinh có những hiểu biết cơ bản về
tiếng Việt, Toán, lịch sử dân tộc, các kiến thức về khoa học xã hội, khoa
học tự nhiên, pháp luật và hướng nghiệp, để có thể tiếp tục học ở các
trường trung học phổ thông, trường dạy nghề và bước vào cuộc sống lao
động.
Nước ta đang tiến hành phổ cập giáo dục THCS. Từ năm 2006 – 2007
học sinh học xong chương trình tiểu học có đủ điều kiện theo quy định
của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo thì được trưởng phòng giáo dục và
đào tạo cấp quận huyện cấp bằng tốt nghiệp THCS, các đại thực hiện
một trong ba hình thức: xét tuyển, thi tuyển hoặc kết hợp cả hai phương
thức trên để chọn các em vào học THPT.


Giáo dục trung học phổ thông (THPT): THPT được thực hiện trong ba
năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh học lớp mười phải có
bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi. Nhiệm vụ của
giáo dục THPT là cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức phổ thông,
cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp, phù hợp với thực tiễn Việt Nam về tất
cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, xã hội, công nghệ… để các em có thể
tiếp tục học lên ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,
dạy nghề, hoặc bước vào cuộc sống trực tiếp tham gia lao động sản xuất.
Giáo dục trung học phổ thông hiện nay đã được chia thành ba ban: ban
cơ bản, ban khoa học tự nhiên, ban khoa học xa hội – nhân văn. Giáo dục
THPT được tiến hành kết hợp phân ban với việc dạy các chuyên đề tự

chọn.
Mục đích của phân ban là để dạy phân hóa theo từng trình độ, năng lực
của học sinh và để phân luồng đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Phân
hóa là tổ chức cho học sinh học tập theo năng lực và hứng thú nhằm phát
tiển hết tiềm năng trí tuệ của các em. Phân luồng là biện pháp định hướng
cho học sinh học tập để chon nghề phù hợp với thị trường lao động xã
hội. Tự chọn là tổ chức dạy học các chuyên đề theo yêu cầu đáp ứng và
nâng cao trình độ, phù hợp với năng lực, sở trường, nhu cầu, hứng thú và
hướng nghiệp của học sinh, phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hóa của
đại phương, vùng miền, đó cũng là một biện pháp để nâng cao chất lượng
giáo dục phổ thông.
Phân ban giáo dục THPT là bài toán thực tế, có ý nghĩa định hướng chọn
nghề cho hàng triệu học sinh sau tốt nghiệp, họ sẽ đi đâu? Về đâu? Làm
gì? Để có ích nhất cho bản thân, gia đình và xã hội.

3.4 Giáo dục nghề nghiệp





Giáo dục nghề nghiệp gồm:
Trung học chuyên nghiệp: được thực hiện từ 3 đến 4 năm học
đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ 1 đến 2 năm
đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
Dạy nghề: có 3 trình độ đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao đẳng dành
cho người có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần
học; được thực hiện dưới 1 năm đối với các chương trình dạy
nghề ngắn hạn, từ 1 đến 3 năm đối với các chương trình dạy nghề
dài hạn



Nội dung giáo dục nghề nghiệp tập trung vào đào tạo năng lực
thực hành, rèn luyện kĩ năng tay nghề theo yêu cầu của từng nghề, đồng
thời coi trọng giáo dục đạo đức nghề nghiệp, rèn luyện sức khỏe, nâng
cao trình độ học vấn cho học sinh
Phương pháp giáo dục nghề nghiệp là kết hợp dạy lí thuyết với
rèn luyện kĩ năng thực hành tại xưởng thực hành, tại cơ sở sản xuất để
phát triển năng lực cho học sinh
• Cơ sở giáo dục nghề nghiệp gồm:
- Trường trung học chuyên nghiệp
- Trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề,lớp dạy nghề
3.5 Giáo dục đại học và sau đại học
Giáo dục đại học và sau đại học gồm:
Giáo dục đại học đào tạo trình độ cao đẳng và trình độ đại học;
 Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện trong 3 năm học
đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp chuyên nghiệp
 Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm học
tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung học chuyên
nghiệp; từ 1 đến 2 năm đối với người có bằng tốt nghiệp cao
đẳng cùng chyên ngành
Giáo dục sau đại học đào tạo trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ;
 Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện trong 2 năm đối
với người có bằng tốt nghiệp đại học
 Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm đối
với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ 2 đến 3 năm với
người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt , thời gian
đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy định

của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đối với giáo dục đại học
Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo
đảm cơ cấu hợp lí giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên


ngành và các bộ môn khoa học Mác-Le6nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tương
ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới
Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bối dưỡng năng
lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy
sáng tạo,rèn luyện kĩ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực hiện
ứng dụng
Đối với giáo dục sau đại học:
Nội dung giáo dục sau đại học phải giúp cho người học phát triển
và hoàn thiện kiến thức khoa học cơ bản , kiến thức chuyên ngành,các
bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy năng
lực sáng tạo, phát hiện và giải quyết các vấn đề thuộc chuyên ngành đào
tạo; có khả năng đóng góp vào sự phát triển khoa học, công nghệ, kinh
tế- xã hội của đất nước
Phương pháp đào tạo thạc sĩ được thực hiện bằng cách phối hợp
các hình thức học tập trên lớp với tự học, tự nghiên cứu; coi trọng việc
phát huy thực hành, năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề chuyên
môn
Phương pháp đào tạo tiến sĩ được thực hiện chủ yếu bằng tự học,
tự nghiên cứu dưới hướng dẫn của nhà giáo, nhà khoa học; coi trọng
việc rèn luyện , nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy sáng tạo trong
phát hiện, giải quyết những vấn đề chuyên môn
• Cơ sở giáo dục đại học và sau đại học gồm:
- Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng

- Trường đại học đào tạo trình độ cao đẳng, đại học; đào
tạo trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ khi được Thủ tướng Chính
phủ giao cho
- Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối
hợp cùng trường đại học đào tạo trình độ Thạc sĩ khi
được Thủ tướng Chính phủ giao cho
3.5 Giáo dục không chính quy


Giáo dục không chính quy là phương thức giáo dục mọi người vừa
làm vừa học, học liên tục, suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở
rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn ,nghiệp vụ để
caỉ thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống
xã hội
Nội dung giáo dục không chính quy được thực hiện trong các
chương trình sau đây:
 Chương trình xóa nạn mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết
chữ
 Chương trình đào tạo bổ sung, tu nghiệp định kì, bồi dưỡng nâng
cao trình độ, cập nhật kiến thức, kĩ năng
 Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học
 Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục
quốc dân theo hình thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có
hướng dẫn
Phương pháp giáo dục không chính quy phải phát huy vai
trò chủ động , khai thác kinh nghiệm của người học, coi trọng
việc bồi dưỡng năng lực tự học
• Cơ sở giáo dục không chính quy:
- Trung tâm giáo dục thường xuyên
- Giáo dục không chính quy còn được thực hiện ở trường

trung học phổ thông, trường trung học chuyên nghiệp,
cơ sở dạy nghề, trường cao đằng, trường đại học và
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng
Học viên hết chương trình giáo dục nếu có đủ điều kiện theo quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi; nếu đạt yêu cầu thì được
cấp văn bằng tốt nghiệp theo phương thức không chính quy, trên văn
bằng có ghi hình thức học tập; nếu có đủ điều kiện theo quy định của kì
thi tốt nghiệp hệ chính quy thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được
cấp bằng tốt nghiệp của hệ chính quy




×