Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Hình tượng con người và thiên nhiên trong tiểu thuyết đất rừng phương nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.8 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

===

===

NGUYỄN THỊ VIỆT YÊN

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN
TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
CỦA ĐOÀN GIỎI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ NHÀN

HÀ NỘI, 2016
1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ tận tình
của cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhàn, tác giả khóa luận xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc tới cô!
Tác giả khóa luận cũng xin cảm ơn chân thành các thầy cô giáo trong
Khoa Giáo dục Mầm non – Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
tốt nhất cho tác giả hoàn thành khóa luận này.


Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2016
Sinh Viên
Nguyễn Thị Việt Yên

2


LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhàn.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu không trùng với kết quả nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Việt Yên

3


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 10
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 10

7. Cấu trúc khóa luận ................................................................................ 10
NỘI DUNG .................................................................................................. 11
CHƯƠNG I. HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT
RỪNG PHƯƠNG NAM ................................................................................ 11
1.1. Hình tượng trẻ em Nam Bộ ................................................................ 11
1.1.1. Nhân vật trẻ em – những đứa trẻ kém may mắn .......................... 11
1.1.2. Nhân vật trẻ em- những đứa trẻ vô tư, hồn nhiên ........................ 14
1.1.3. Nhân vật trẻ em - những đứa trẻ ham học hỏi và ham công việc …
…………………………………………………………………………17
1.1.4. Nhân vật trẻ em – những đứa trẻ có đời sống tình cảm đẹp ......... 20
1.1.5. Nhân vật trẻ em – những đứa trẻ yêu nước .................................. 23
1.2. Hình tượng người dân Nam Bộ ........................................................ 25
1.2.1. Người dân Nam Bộ- những con người nghèo khổ ....................... 25
1.2.2. Người dân Nam Bộ- những con người bị áp bức ......................... 27
1.2.3. Người dân Nam Bộ- những con người cần cù lao động............... 29
1.2.4. Người dân Nam Bộ- những con người có ý thức đấu tranh giai cấp
và tinh thần yêu nước ............................................................................ 33

4


1.3. Hình tượng cán bộ cách mạng ............................................................ 38
1.4. Hình tượng kẻ thù ............................................................................... 40
CHƯƠNG II. HÌNH TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT
RỪNG PHƯƠNG NAM ................................................................................ 44
2.1. Thiên nhiên Nam Bộ hoang sơ, dữ dội ............................................... 44
2.1.1. Thiên nhiên Nam Bộ với thời tiết khắc nghiệt ............................. 44
2.1.2. Một thế giới động vật hung dữ .................................................... 46
2.2. Thiên nhiên Nam Bộ tươi đẹp, trù phú ............................................... 48
2.2.1. Sông nước và đất rừng Nam Bộ trù phú ..................................... 48

2.2.2. Sản vật của thiên nhiên phong phú .............................................. 52
KẾT LUẬN.................................................................................................. 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 58

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học thiếu nhi từ lâu đã trở thành một bộ phận quan trọng trong
văn học dân tộc Việt Nam. Nó được xem là phương tiện hữu hiệu để phát
triển toàn diện nhân cách cho trẻ ngay từ thưở ấu thơ.
Ở lứa tuổi mầm non, với tâm hồn ngây thơ, trong trắng, chưa có nhiều
những trải nghiệm, nhận thức về thế giới xung quanh còn ở mức cảm tính thì
việc được tiếp xúc với cái đẹp lấp lánh của ngôn từ và trí tưởng tượng phong
phú trong các tác phẩm văn học thiếu nhi sẽ góp phần rất lớn trong việc hình
thành tính cách, và tạo nên “thế giới quan” cho trẻ, giúp các em cảm nhận
được vẻ đẹp của thế giới bao la đầy âm thanh và màu sắc.
Ngày nay, cho dù trong thế giới văn chương muôn màu muôn vẻ, nhưng
trong lòng bạn đọc yêu văn chương vẫn giữ lại nét chân dung về Đoàn Giỏi,
đó là một nhà văn Nam Bộ với tính cách đặc biệt Nam Bộ. Ông không giống
ai, đi theo con đường mà mình đã chọn là quay về cội nguồn văn hoá dân tộc,
mà chính xác là văn hoá Nam Bộ bằng lối văn mộc mạc, bằng chữ nghĩa giản
dị gần gũi với đời sống thực tế, làm sống lại nhiều vấn đề về đất và con người
nơi đây. Nhà văn Đoàn Giỏi không thể nào lẫn lộn với bất kỳ ai trong các tác
giả văn chương hiện đại, càng không dễ dàng xóa đi sức ảnh hưởng của ông
trong việc nghiên cứu, tìm hiểu miền Nam. Dù ông đã ra đi nhưng những gì
còn ở lại mãi là những áng văn chương để đời, làm tên tuổi Đoàn Giỏi không
thể phai nhạt trong dòng chảy của thời gian..
“Đất rừng phương Nam” cuốn tác phẩm gây đình đám trong giới văn

học, với sức hấp dẫn, sự lôi cuốn bạn đọc như vũ bão. Những trang văn của
ông thấm đượm hơi thở sông nước, núi rừng, những câu chuyện cả thực cả kì
bí về miền quê Nam Bộ đã được ông truyền lại cho độc giả bằng chính tình
yêu quê hương và sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế, lối kể chuyện hấp dẫn trong tác
6


phẩm của mình. Đặc biệt, hình ảnh trẻ thơ trong tác phẩm còn giúp giáo dục
nhân cách và đạo đức cao đẹp đối với lứa tuổi mầm non đó là tình yêu quê
hương, đất nước, yêu mảnh đất Nam Bộ và những con người kiên cường, bất
khuất.
Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam cũng được giới mến mộ nhìn nhận
trên một số phương tiện nội dung và nghệ thuật. Song, chủ yếu là khái quát
và gợi mở. Việc đi sâu vào tìm hiểu thế giới thiên nhiên và con người của
tiểu thuyết này còn chưa thực sự nhiều.
Tất cả những lí do trên cùng với sự yêu quý, cảm phục tác giả Đoàn
Giỏi và những trang văn của ông, chúng tôi lựa chọn đề tài “hình tượng con
người và thiên nhiên trong tiểu thuyết Đất rừng Phương Nam” làm vấn đề
khoa học của khóa luận.
2. Lịch sử vấn đề
Đoàn Giỏi được đánh giá là cây bút xuất sắc trong làng văn học thiếu nhi
Việt Nam, ông và các sáng tác của mình đã trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều bạn đọc và nhà nghiên cứu. Đặc biệt, tiểu thuyết Đất rừng phương
Nam – “vàng ròng” của văn học thiếu nhi là đề tài được quan tâm nhiều hơn
cả.
Các nhà thơ, nhà văn và các bạn đọc đã có những bài hồi tưởng, những bài
viết về nhà văn Đoàn Giỏi như: “Đôi điều nhớ lại Đoàn Giỏi với thiếu nhi”
của Thy Ngọc hay “Uống rượu với nhà văn Đoàn Giỏi” của Lê Vân.
Tuy đã mất nhưng sức ảnh hưởng của ông đến tất cả mọi người rất lớn và
tình cảm của các nhà văn, nhà thơ và bạn đọc với Đoàn Giỏi là mãi mãi theo

thời gian. Tại lễ kỷ niệm 90 năm Ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi (tháng 5-1925
- tháng 5-2015) được NXB Kim Đồng và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại
Hà Nội.

7


Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học - Nghệ thuật
Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, không giấu được sự xúc động khi
nhắc đến nhà văn Đoàn Giỏi. Là người may mắn tiếp xúc với tác giả Đất rừng
phương Nam nhiều lần, ông Hữu Thỉnh cho rằng, Đoàn Giỏi coi trọng tác
phẩm, quan tâm đến việc cống hiến cho bạn đọc.
Ngoài ra, trong bài phát biểu khai mạc Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh
nhà văn Đoàn Giỏi, nhà thơ Hữu Thỉnh đã nhấn mạnh: “Người ta nói rằng
những nhà văn thực sự tài năng là những nhà văn có khả năng bước qua đề
tài, thể loại và đơn đặt hàng. Đoàn Giỏi chính là một nhà văn như thế. “Đất
rừng phương Nam” làm thay đổi một nhận thức vốn là định kiến trong giới,
rằng một tác phẩm viết theo đơn đặt hàng thì bị gò bó, trói buộc cả đề tài và
cảm xúc. Nhưng tác phẩm này lại vượt qua những ràng buộc đó, Đoàn Giỏi
hoàn toàn tự do với đơn đặt hàng và trở thành một trong những tên tuổi viết
cho thiếu nhi hay nhất Việt Nam.
“Đất rừng phương Nam” là một tác phẩm viết cho thiếu nhi mà lại làm say
lòng cả người lớn, và Đoàn Giỏi là một trong những nhà văn để lại ấn tượng
sâu sắc nhất trong lòng các thế hệ bạn đọc ở nước ta. Ông là ví dụ đẹp đẽ cho
câu nói: “Ai yêu tuổi thơ, người đó có cả thế giới”.
Nói đến Đoàn Giỏi là bạn đọc nhắc đến "Đất rừng phương Nam" - tác
phẩm văn học ra đời cách nay đã hơn nửa thế kỷ, tái bản không biết bao lần,
thu hút độc giả nhiều thế hệ, như TS giáo dục học Thụy Anh chia sẻ là
"Những trang viết suốt đời đi vẫn nhớ/Như áng mây ngũ sắc ngủ trong đầu".
Khi nhận xét về tác động của Đất rừng phương Nam đến tình cảm yêu mến

một vùng đến xa lạ đối với những người chưa từng biết và đến vùng đất Nam
Bộ. Ngô Văn Phú đã trình bày cảm xúc của mình khi được tiếp cận tác phẩm:
“Đọc xong Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, ta cảm thấy, với người

8


viết đó là mảnh đất quê hương ruột rà đầy yêu thương tự hào, còn với ta,
người đọc, thì đó là miền đất hứa”.
Qua bài nghiên cứu của Lưu Hồng Sơn với tựa đề “Đoàn Giỏi - người lưu
giữ huyền thoại phương Nam”, sẽ giúp chúng ta định hình được vai trò to lớn
của cây bút Đoàn Giỏi khi viết về mảng đề tài phương Nam với tư cách là
người giữ gìn huyền thoại.
Nguyễn Thị Hoa Hải với luận văn “ Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Đất
rừng phương Nam của Đoàn Giỏi và ý nghĩa giáo dục với học sinh tiểu học”
đã nhận định: Trong nghệ thuật khắc họa nhân vật qua ngoại hình: “Nhà văn
có những chiêm nghiệm và có thể đã thử nghiệm - sự nghiệm sinh sâu sắc
trong thế giới nhân gian”. Còn nghệ thuật khắc họa nhân vật qua hành động:
“Những trang viết của Đoàn Giỏi đầy ắp tư liệu cuộc sống chân thật”.
Như vậy, tất cả các bài nghiên cứu về nhà văn Đoàn giỏi và tiểu thuyết Đất
rừng phương Nam đã khẳng định tầm quan trọng, nét tài hoa và khái quát giá
trị của tác phẩm. Để tiếp thu những thành tựu của giới nghiên cứu, đề tài khóa
luận đi sâu vào hình tượng con người và thiên nhiên trong tác phẩm.
3. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài tìm hiểu hình tượng con người và thiên nhiên trong tiểu thuyết
Đất rừng phương Nam
-

Thông qua đó, giáo dục cho các em bài học về nhận thức, tình cảm,
đạo đức như yêu quê hương, đất nước, yêu vùng quê Nam Bộ xa xôi

của Tổ quốc

- Giúp cho chúng tôi nâng cao năng lực văn chương, giúp ích cho việc
giảng dạy trẻ em lứa tuổi mầm non.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu kiến thức lí luận có liên quan đến đề tài

9


- Tìm hiểu hình tượng con người và thiên nhiên trong tiểu thuyết Đất
rừng phương Nam
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Về mặt tài liệu, luận văn khảo sát tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
của Đoàn Giỏi, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2013.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tư liệu: Khảo sát tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn
Giỏi, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2013
- Phạm vi khoa học: Hình tượng con người và thiên nhiên trong tiểu
thuyết Đất rừng phương Nam
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp loại hình (phân tích tác phẩm văn học)
- Phương pháp thống kê
- Kết hợp các thao tác khoa học khác: phân tích, tổng hợp, bình giảng…
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của
khóa luận bao gồm 2 chương như sau:
Chương I. Hình tượng con người trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
Chương II. Hình tượng thiên nhiên trong tiểu thuyết Đất rừng phương

Nam

10


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG
TIỂU THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
1.1. Hình tượng trẻ em Nam Bộ
Trong câu chuyện về đất rừng và con người phương Nam, số lượng nhân
vật trẻ em mà tác giả nhắc tới khá nhiều. Song, khóa luận chủ yếu tập trung
vào hai nhân vật được đề cập tới nhiều nhất đó là cậu bé An và thằng Cò.
1.1.1. Nhân vật trẻ em – những đứa trẻ kém may mắn
Tác phẩm Đất rừng phương Nam, chủ yếu xoay quanh số phận những
đứa trẻ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Con người chịu nhiều mất mát,
bất hạnh do chiến tranh gây ra.
Mở đầu câu chuyện, hình ảnh cậu bé An sống ở thành thị. Đó là cuộc sống
khá đầy đủ trong một gia đình trung lưu. An học tập vui chơi trong cảnh bình
yên cho đến ngày trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945: “Tôi đã lớn
lên trong cái thành phố vừa đông vui trù mật vừa yên tĩnh dịu dàng, tràn ngập
một thứ gió sông nhiễm đầy mùi nắng phù sa và nắng ấm đó cho đến ngày
“đằng mình” cướp chính quyền” [3, tr.89]. Khi giặc đổ bộ càn quét, An cùng
gia đình đi tản cư hết vùng này qua vùng khác, cho đến một ngày ở Hậu
Giang, khi câu bé An đang chơi cùng những đứa trẻ nơi đây thì giặc đổ bộ bất
ngờ, và em lạc mất cha mẹ tại đây: “Tôi lần về đến nơi thì không thấy ba má
tôi đâu nữa. Ngôi nhà chúng tôi vào nghỉ nhờ ban sáng chỉ còn lại một đống
tro, và những cây cột than gãy đổ vẫn còn đang ngun ngút cháy” [3, tr.103].
Lạc mất cha mẹ là nỗi đau lớn, không nhà không cửa, không người thân, tìm
cha mẹ trong vô vọng, khi đọc đến đây ta không khỏi xót xa cho thân phận
nhỏ bé của một đứa trẻ. Từ đó, An bắt đầu cuộc đời lưu lạc.

Đầu tiên, An gặp được đoàn quân lương. Họ như vị cứu tinh cho em
trong thời loạn lạc. Em đi cùng những anh bộ đội để có thể tìm lại được cha
11


mẹ của mình. Nhưng niềm vui nhỏ bé ấy vừa lóe lên vội vụt tắt. Em bị đoàn
quân lương bỏ lại ở khu chợ Chắc Băng: “Tôi sực nhớ là mình đã đi lâu quá.
Tôi liền chạy vào quán cà phê. Không thấy anh học sinh cô-le đâu. Tôi nhằm
hướng đầu ngọn cây bàng khô, chạy một mạch về, Đoàn thuyền quân lương
vận tải không còn chiếc nào đậu ở đó nữa” [3, tr.20].
Liên tiếp bị lạc gia đình ở Hậu Giang, lạc các anh bộ đội ở chợ Chắc Băng,
điều đó đã đẩy An đến với những tháng ngày lang thang. An phải đối diện với
cái đói, cái rét. Và rồi An sống qua ngày bằng những “nắm xôi”, “gói bắp”
của người ta cho, tối đến thì ngủ “dưới gầm một thớt bán thịt của người Hoa
Kiều”. Cho đến khi em gặp được dì Tư Béo, thì cuộc sống của em không còn
đói khát, rách rưới.
Từ những ngày lạc cha mẹ, An bơ vơ, cuộc sống của em nay đây mai đó.
Từ cậu bé được học hành, nay em phải làm lụng phụ bếp cho dì Tư Béo. Tuy
vất vả, nhưng những tháng ngày sống cùng dì Tư là quãng thời gian bình yên
và no ấm nhất từ khi An lạc mất cha mẹ của mình. Có thể nói số phận em thật
kém may mắn, khi em ở đâu cũng không được yên ổn lâu dài, khi quán rượu
dì Tư bị bọn tay sai cho giặc đốt cháy: “Khi tôi bò ra khỏi hào thì đã thấy một
vầng lửa đỏ rực đang bao trùm lên ngôi tửu quán. Những lưỡi lửa khổng lồ
đang le lên liếm trụi các cành cây khô trên ngọn gáo cổ thụ. Tre nứa nổ lốp
đốp. Khói cuồn cuộn bốc lên, đưa tàn lửa bay chấp chới như một bầy ong đỏ
từ trong đám cháy bị mùi rượu sực nồng xua lên, bay tản mác ra xa” [3,
tr.83]. Và rồi em lại trở về với những ngày tháng lang thang, không biết đi
đâu và về đâu. Những sự việc xảy ra liên tiếp với em, cho thấy An là một đứa
trẻ kém may mắn và bất hạnh hơn những đứa trẻ khác, có cha mẹ mà không
biết họ ở nơi nào, càng chứng tỏ cái bất công, tàn nhẫn của chiến tranh.

Cùng trang lứa với An là thằng Cò. Ngay từ khi lọt lòng, Cò đã phải chịu
số phận kém may mắn. Cha mẹ Cò cũng gặp nhiều éo le trong cuộc sống.
12


Cha của thằng Cò vốn là một người hiền lành, còn mẹ là người phụ nữ
xinh đẹp. Chính vì có nhan sắc nên tên địa chủ nào cũng muốn chiếm đoạt,
khiến gia đình Cò phải chạy trốn khắp nơi để thoát khỏi những kẻ háo sắc đó.
Vì vậy ngay từ nhỏ nó đã phải rong ruổi cùng cha mẹ hết vùng này đến vùng
khác trong cảnh nghèo khổ, khó khăn. Gia đình Cò chỉ mong tìm được sự yên
ổn mưu sinh: “Một cái thuyền nát, một con dao rựa, một con chó gầy gò, ngồi
bên mẻ lửa hun khói đuổi muỗi, đuổi bọ mắt trước mũi thuyền, người nông
dân cùng đường này chèo đưa vợ con cùng mấy giạ lúa ăn, lúa giống cuối
cùng, mỗi ngày một đi sâu vào rừng rậm” [3, tr.132]. Cuộc sống nay đây mai
đó, lênh đênh sông nước cùng gia đình, khiến Cò cũng thành đứa trẻ phiêu
bạt.
Ngoài An và Cò còn có các em nhỏ tuổi hơn. Em cũng có chung số phận
như hai người “anh”. Đó là đứa bé gái con nhà mãi võ ở chợ Chắc Băng.
Cuộc sống quá nghèo và khó khăn nên mới mười một tuổi em đã mang cả
tính mạng của mình ra để đổi lấy miếng cơm manh áo: “Em bé lại nghiêng
đầu chào mọi người rồi dún chân một cái, chạy tới ba bước, gieo mình như
một con thoi bay qua vòng lửa” [3, tr.17]. Chưa kết thúc như vậy, màn biểu
diễn thực sự khiến người xem lo lắng,hồi hộp đó là em bé lao qua vòng với
những chiếc dao sắc nhọn: “Những mũi dao nhọn hình lá trúc đào lấp lánh
ánh thép trắng xanh tua tủa. Tôi nhắm mắt lại. Trời ơi! Chỉ nhích một phân, ở
bất cứ phía nào thì những mũi dao sắc nhọn như gươm kia cũng đâm xóc lút
vào da thịt” [3, tr.18].
Thật xót xa cho số phận của những đứa trẻ nơi đây, đứa thì còn nhỏ mà
không được học hành, phải lênh đênh trôi nổi cùng cha mẹ để kiếm sống, làm
đủ thứ công việc nguy hiểm; đứa đáng được đi học, sung sướng thì bị rơi vào

hoàn cảnh lạc cha mẹ. Chứng kiến cuộc sống khó khăn của các em, số phận
bất hạnh và kém may mắn của chúng càng khiến ta thêm căm ghét chiến
13


tranh, căm ghét bọn thống trị, vì chính chúng đã khiến trẻ em vùng đất
phương Nam chịu nhiều thiệt thòi, mất mát.
1.1.2. Nhân vật trẻ em - những đứa trẻ vô tư, hồn nhiên
Là những nhân vật trẻ em trong tác phẩm, chúng đều mang nhiều nét ngây
thơ, vô tư, hồn nhiên theo đúng bản chất của một đứa trẻ con.
An cũng như bất cứ đứa trẻ nào, vô tư là bản tính vốn có. Dù có đi tản cư
từ Mỹ Tho đến Cai Lậy rồi Cái Bè…cũng chẳng làm mất đi tính hiếu động
của cậu bé. Em đã nhanh chóng gia nhập cùng những đứa trẻ tản cư khác vui
chơi hồn nhiên hết ngày này qua ngày khác, mặc cho bom đạn rượt đuổi. Khi
má An kêu than, buồn rầu, cậu bé mới tỏ ra ân hận. Cách hối lỗi của An cũng
vô cùng đáng yêu: “Tôi thương má tôi lắm. Những lúc ấy thì giá có trời
xuống rủ đi chơi tôi cũng chẳng đi. Tôi rơm rớm nước mắt, cúi mặt xuống,
lòng buồn thỉu buồn thiu” [3, tr.102]. Ấy vậy mà mau nhớ, mau quên đúng
theo bản tính của trẻ con: “Nhưng nước mắt và cái buồn của trẻ thơ mau đến
cũng mau tan, như những giọt mưa bóng mây thôi. Quẩn quanh bên chân má
tôi được vài buổi, tôi lại lén theo bọn nhỏ reo hò như một đám quỷ ranh, hoặc
lại đi chơi xa cùng chúng nó” [3, tr.102]. Dẫu không cố ý nhưng trẻ con
thường hay quên lời người lớn dặn, và dễ bị thu hút bởi những cái mới lạ.
Bản tính trẻ con ngây thơ và hồn nhiên của An còn được thể hiện trong hành
động và suy nghĩ của mình. Khi được đi theo đoàn quân lương cách mạng,
cậu bé vẫn được anh học sinh trường cô-le và bác tài công già quan tâm,
chiều chuộng nên những hành động vẫn con mang nhiều nét ngây thơ: buồn,
nhớ nhà, thích đi xem gánh hát Sơn Đông nhưng ban đầu cố tỏ ra mình chẳng
quan tâm; thương cảm với em bé biểu diễn xiếc khi em bị thương chảy máu
chân.

Tuy đã trải qua một thời gian dài bị “chà xát” với cuộc sống, cậu bé cũng
đã già dặn, trưởng thành hơn, nhưng mỗi khi ở bên thằng Cò là An lại trở về
14


tính trẻ con ngộ nghĩnh, vô tư và hay chạnh chọe với thằng Cò: “Tôi cũng
chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó
đăm đăm của tôi. Cứ nắm tay lôi đi… Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực
mình vừa qua” [3, tr.154].
Hai đứa trẻ, hai xuất thân khác nhau, nhưng bản tính trẻ con thì đứa nào
cũng có sẵn trong người, thậm chí thằng Cò con đặc sệt cái tính thơ trẻ hồn
nhiên, vô tư pha một chút ích kỉ.
Cò cũng là đứa trẻ. Suy nghĩ của em cũng đơn giản và hay nạnh tỵ với bạn:
“Thằng Cò phải ở nhà nên nó bèn kiếm cách gỡ. Nó cứ rịt con Luốc lại,
không cho theo tôi; nó bảo là không cho nó đi vì phải để con Luốc ở nhà chơi
vơi nó cho có bạn” [3, tr.164-165]. Tính trẻ con của thằng Cò đâu chỉ có vậy,
nó thích được khoe với bạn bè để họ phải nể phục mình. Điều này được thể
hiện rõ qua từng đoạn đối đáp rất hồn nhiên: “Chim đẹp quá, Cò ơi!- tôi tặc
lưỡi kêu lên.
-Thứ chim cỏ này mà đẹp gì!
-Ở đây, chim nhiều quá. Bữa nào tụi mình đi bắn một bữa đi.
-Thứ đồ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp “sân chim” thì mày sẽ
biết…” [3, tr.154].
Với tính nạnh tỵ kiểu trẻ con đó thì không có gì lạ bởi đứa trẻ nào cũng
có cái tính như vậy. Điều đặc biệt hơn trong tính cách của Cò là một đứa trẻ
còn chưa hiểu được thế nào là số phận, là mệnh trời, nhưng lại mê tín, tin
tưởng một cách thơ ngây và hồn nhiên ở mệnh trời. Đó cũng là cách suy nghĩ
của một bộ phận người dân, khi cuộc sống quá khó khăn, họ chỉ biết cầu
nguyện một lực lượng siêu nhiên, thần thánh nào đó giúp đỡ mình vào những
lúc trở nên bất lực, họ lại an ủi mình bằng cách đổi cho số phận. Điều đó được

thể hiện, khi đi câu rắn nước, muốn cho An phục mình, thằng Cò nói: “Vái
trời vái phật cho trúng bữa câu”. Trong tâm trí nó luôn có một nỗi mơ hồ: “Nó
15


là một đứa chúa sợ ma! Bao giờ nghe kể chuyện trong lúc ban đêm, mặc dù
đã lớn tướng như vậy mà lúc nào nó cũng nhảy vào lòng má, ngồi rụt lại như
một đứa trẻ con” [3, tr.135].
Ngoài nhân vật An và Cò, trong câu chuyện còn có những đứa trẻ khác,
chúng đều mang những nét hồn nhiên, ngây thơ và vô tư. Đó là thằng bé béo
lùn. Chú có những câu nói vô tư khi gặp An: “Nghe tôi nói bằng một giọng
nhường nhịn, thằng bé tức thời nép người qua để cho tôi lách vào, rồi nó nhe
răng cười làm như tôi với nó quen từ hồi nào… Đêm qua, nó nhào sáu lần mà
bữa nay nó tăng lên tới tám lần! Mày thấy ghê chưa? – thằng bé béo lùn ục
ịch lại hích tôi, vênh mặt nói” [3, tr.17]. Rồi đến cả những thằng nhỏ sơ tán
cùng, chúng đều mang nét hồn nhiên như An. Lũ trẻ tụ tập, trốn người lớn để
tìm một thế giới riêng cho mình như không hề có chiến tranh. Chúng nghĩ ra
các trò chơi như ngựa kéo bằng mo cau; cọng sậy hay một đội thuyền từ
những bẹ chuối; những cuộc đánh trận giả bằng trái mù u… Cứ như thế một
khoảng trời trẻ thơ vẫn trong vắt tiếng cười, đẩy lùi chết chóc. Những hành
động như vậy chỉ có ở trẻ con: “Chúng tôi đi thật xa, ra tận giữa cánh đồng,
hoặc chui vào những khu vườn rậm để người lớn không thể tìm thấy, ở đó
chúng tôi mặc sức bày ra đủ các thứ trò chơi mà trước kia ở thành phố tôi
không hề nghĩ ra. Chỉ cần một cái mo cau rụng và mươi cọng sậy là chúng tôi
làm thành một chiếc cộ hai ngựa kéo, đưa viên tướng cởi truồng đầu đội mũ
tết lá xanh đi “quan sát mặt trận”, theo sau có cả tiểu đội trẻ em phơi rốn bồng
súng theo hầu. Với vài bẹ chuối cắt ngắn, cắm đầy que khô thả xuống con
mương nhỏ, thế là chúng tôi đã có cả một đội hải thuyền rồi. Còn đạn trái phá
thì tha hồ, cứ nhặt quả mù u rụng, ném xuống “uỳnh uỳnh” làm cho bẹ chuối
rập rềnh, nước có bắn tung tóe ướt cả áo quần cũng mặc…” [3, tr.102].


16


Những đứa trẻ nơi đất rừng phương Nam dù phải trải qua biết bao khó khăn
trong cuộc sống nhưng chúng vẫn luôn tồn tại những nét trẻ con, gây thơ và
hồn nhiên theo đúng lứa tuổi của mình.
1.1.3. Nhân vật trẻ em – những đứa trẻ ham học hỏi và ham công việc
Sinh ra là người con của Nam Bộ nên trẻ em ở nơi đây rất cần cù, chịu
khó lao động và khám phá học hỏi, và cũng vì sinh ra từ nghèo khổ nên các
em lại càng biết trân trọng cuộc sống, yêu thích những công việc nơi rừng
nước. Trong quá trình làm những công việc để phục vụ mục đích mưu sinh,
cũng là quá trình các em học hỏi, khám phá được nhiều điều thú vị trong cuộc
sống.
Đầu tiên phải kể đến, đó là cậu bé An một nhân vật khá đặc biệt, bởi em
sinh ra trong gia đình trung lưu tại thành phố nên những công việc chân tay
khá xa lạ với em. Tuy vậy, An lại thích nghi khá nhanh, làm quen với công
việc rất dễ dàng. Từ công việc đầu tiên như rửa bát, lau dọn, nấu ăn khi làm
trong quán dì Tư. Chỉ mấy ngày, em đã quen hết. Đến những công việc khó
khăn hơn khi về sống trong gia đình tía nuôi, An cũng dần dần làm được và
chăm chỉ.
Tại gia đình mới, cậu bé được sống trong tình yêu thương. An được làm
rất nhiều những công việc thú vị mà cả đời chưa bao giờ cậu nghĩ đến ví như
đi “câu rắn”, đi “lấy mật ong”… Ở nơi đây, An thỏa sức tò mò, khám phá,
được tía nuôi cho biết tập tính của các loài vật, được thằng Cò dạy cho cách
chế biến mồi câu rắn: “dùng hai ngón tay banh họng con cá, nhét vào học mỗi
con một quả ớt hiểm chín”, “vót nhọn đầu cái que, xóc ngang con cá mồi” [3,
tr.137]. Sau khi biết làm mồi là công đoạn đặt bẫy đòi hỏi sự khéo léo “kéo
tàu lá dừa nước quặt xuống, buộc chùm gai vào giữa sống lá”, “con mồi
nướng bị lưỡi câu mắc suốt từ đầu đến gần gót đuôi, còn chưa ra một tí đuôi

cho ăn dễ nhầm”, “kéo quằn tàu lá xuống, vừa đủ cho con mồi treo lơ lửng
17


cách mặt nước chỉ non gang tay” [3, tr.144]. Sau khi được nghe, được học
cách câu rắn, An vui mừng và háo hức muốn thực hành ngay trong lần đầu
tiên nên An đã tranh giành buộc câu với Cò: “Không. Để tao buộc. Tao buộc
được… Tưởng thứ gì khó kia” [3, tr145].
Đó là việc đầu tiên An được học khi ở nhà ba má nuôi. Ngay hôm sau,
An còn được mọi người dẫn đi lấy mật ong. An được má nuôi chỉ đặc tính của
loài ong và cách chọn chỗ gác kèo: “Đó là những chỗ “ấm”, cây dày, không bị
ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi tới, người đốn
củi lội đến…” [3, tr.155]. Không đơn giản chỉ là chọn được vùng mà còn phải
chọn cây trong vùng để gác kèo được nhiều mật nhất: “Chọn được vùng rồi,
còn phải chọn cây: cây nào vừa kín, vừa im, có nhiều bóng nắng kia! Con ong
không thích chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua và dễ bị ẩm” [3,
tr.155]. Chỉ riêng nói đến việc chọn chỗ gác kèo cũng đã vô cùng khó khăn,
nó đòi hỏi sự chuẩn xác, tinh ý không phải ngày một ngày hai mà cậu bé An
làm được: “Nhiều người trở thành “dân ăn ong” đã năm mươi năm trong
nghề, vậy mà gác kèo xong, tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại
mang gùi không trở về” [3, tr.156]. Gác kèo có được mật đã khó nhưng đuổi
được những con ong hung hãn đi để lấy mật lại càng khó hơn, có thể nói công
việc gác kèo và lấy mật là cả một nghệ thuật: “Tía nuôi tôi cầm cọng sậy có
gắn miếng thuốc bốc khói đưa lên, kê vào gần tổ ong. Bầy ong hốt hoảng nối
nhau bay mất không còn một con.” [3, tr.157]. Vừa được biết đường đi lối lại
của ong, vừa lấy được rất nhiều mật ong, nhưng với An vẫn chưa đủ. An ham
lấy ong đến nỗi không biết mệt là gì, không biết trời đất ra sao: “Từ sáng sớm
đến gần lúc xế chiều, tía nuôi tôi đã gỡ hơn năm mươi kèo ong. Mật đầy cả
hai gùi. Tôi mang gùi mật óc ách đằng sau lưng mà vẫn cảm thấy nhẹ tênh, và
tiếc cái gùi bé quá” [3, tr.158].


18


Những công việc có sức hấp dẫn với An vô cùng. Có lẽ chưa có sách vở
nào giúp em học được nhiều như thực tế cuộc sống nơi đây. Em được thỏa
mải khám phá, học được nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được nhiều
điều thú vị trong thiên nhiên.
Những điều lạ lẫm, thú vị với An lại quá quen thuộc và gần gũi với Cò, bởi
ngay từ sinh ra em đã được tiếp xúc với thiên nhiên.
Những công việc như bắt rắn, lấy mật ong… tất cả thằng Cò đã quá thành
thạo, điêu luyện. Tập tính, đặc điểm của tất cả những loài động vật trong rừng
thằng Cò đều nắm rõ trong tay, mà không cần tới những lý thuyết thuần túy
trong sách vở.
Từ cách làm mồi như thế nào để rắn thích thú và mắc bẫy: “Nó dùng hai
ngón tay banh họng con cá, nhét vào họng mỗi con một quả ớt hiểm chín”,
“mình ngửi mùi cá nướng còn phát thèm, huống gì con rắn!”[3, tr.137]. Trong
công việc này người ta sẽ thấy khâm phục cung cách cầm lái của Cò, “len
lách trong những lùm dừa nước” thật thành thục. Cử chỉ “thoăn thoắt” của cậu
bé khi kéo những tàu dừa, buộc chùm gai vào lá dừa; khi nó lại cầm đèn, dùng
mác, dùng tay để tiếp cận với lũ rắn quả thật như một người thợ săn bắt sành
sỏi: “Nó với tay kéo tàu lá dừa nước quặt xuống, buộc chùm gai vào giữa
sống lá. Tôi soi đèn, tay cầm lon mồi. Nó làm thoăn thoắt, coi bộ thành thạo
lắm. Con mồi nướng bị lưỡi câu móc suốt từ đầu đến chót đuôi, còn chừa ra
một tý đuôi cho rắn dễ nhầm… Tay tôi run quá, tim cứ đập thình thình. Thằng
Cò ấn cây giầm vào tay tôi, ra hiệu cho tôi chống xuồng tới. Nó cầm cái mác
trong tay, một tay đưa đèn lên soi phía trước… Mỗi lần con rắn vặn mình cố
siết cho đứt chùm dây câu, da nó mở ra, vồng lên như gai mít. Thằng Cò
buông mác, thò tay nắm đuôi con rắn. Con rắn tháo ra, quấn một khúc vào cổ
tay thằng Cò. Thằng Cò chộp ngang lưng con rắn, bàn tay nó tuột ra vì không

nắm hết… Thằng Cò ghé răng cắn vào đuôi nó một cái, con rắn đau quá, vội
19


tháo ra khỏi cổ tay thằng Cò, tuột gọn vào lòng giỏ” [3, tr.144-148]. Cuộc
sống lênh đênh sông nước đã dậy cho thằng Cò phải làm quen với hiểm nguy,
linh hoạt trong công việc đầy thử thách này.
Ngoài “câu rắn” là việc lấy mật ong. Công việc nghe có vẻ đơn giản hơn
nhưng lại đòi hỏi sự khéo léo, nhanh nhẹn và chính xác từng xen ti mét. Cả
một đàn ong vù vù khó nhìn rõ con nào với con nào huống chi biết đâu là con
ong mật, chỉ những thằng trong nghề lâu năm như Cò mới có thể phát hiện ra
được điều kì diệu ấy. Điều đó được thể hiện qua đoạn hội thoại hồn nhiên của
hai đứa trẻ: “ Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả.
Thằng Cò nghe tôi nói chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:
-Bây giời mày cứ nhìn kỹ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia! Ờ,
đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ!
Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tía nuôi tôi
đã đến cầm tay tôi trỏ lên:
-Đó, con thấy nó chưa?” [3, tr.152].
Những đứa trẻ nơi đây, chẳng những không ngại, không sợ việc mà còn rất
thích thú với những công việc mang tính chất nguy hiểm này. Bởi chúng được
học hỏi và khám phá những điều thú vị trong thế giới thiên nhiên mà không
sách vở nào có được.
1.1.4. Nhân vật trẻ em – những đứa trẻ có đời sống tình cảm đẹp
Trẻ em Nam Bộ “đẹp” trong tính cách ngây thơ, vô tư, “đẹp” trong tinh thần
ham học hỏi khám phá và chúng còn “đẹp” trong trái tim giàu tình cảm.
Những đứa trẻ trong tác phẩm Đất rừng phương Nam, được tác giả khai thác
sâu sắc về mặt tình cảm. Đối với nhân vật An, đó là một cậu bé hiểu chuyện,
một đứa trẻ tình cảm.
Tình cảm mà An dành cho cha mẹ là vô bờ bến, suốt những tháng ngày lang

thang, chưa một giây phút nào em không nhớ đến hình bóng cha mẹ mình, An
20


cố gắng tìm cách quên đi nỗi nhớ, nỗi buồn ấy, nhưng đêm về nó lại quẩn
quanh trong giấc mơ của em. Điều đó chứng tỏ rằng cậu bé An đang rất nhớ,
rất mong gặp lại được cha mẹ mình: “Ban ngày, tôi có thể tạm quên những
nỗi buồn nhớ ba má tôi bằng cách đi chơi đâu đó, vui đùa với bọn trẻ nhỏ và
các anh thanh niên. Nhưng ban đêm, tôi thường giật mình thức giấc, thấy
mình nghiêng mặt trên cánh tay gối đầu ướt đẫm nước mắt…” [3, tr.89]. Tình
cảm An dành cho cha mẹ mình mình thầm kín và đáng trân trọng biết bao.
Không phải em chỉ biết yêu cha mẹ ruột của mình, cậu bé của chúng ta còn
biết ơn đến những người đã cưu mang em trong suốt những tháng ngày em
lưu lạc. Người đầu tiên, đó là dì Tư Béo, dì Tư là người đàn bà chắt chiu, hà
tiện và chua ngoa, nhưng lại là người An chịu ơn nhiều nhất. Tình cảm cậu bé
dành cho dì không quá lộ liễu nhưng đủ cho người đọc hiểu được tình cảm
lớn lao của em: “Tôi không theo toán người đi đuổi bắt vợ chồng Tư Mắm.
Tôi đến bên dì Tư Béo, cầm lấy bàn tay lạnh ngắt của bà ta, không biết nên
nói gì đây… Tự nhiên, không hiểu sao tôi cũng quay mặt vào bóng tối. Phải
rồi, một thiếu niên dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được tỏ ra yếu
mềm trước mọi người” [3, tr.85]. Con người sống nội tâm và giàu tình cảm
như An, trong hoàn cảnh nào em cũng luôn biết quan tâm, lo lắng tới người
khác.
Trong quãng thời gian sống cùng gia đình tía má nuôi, tuy không phải cha
mẹ ruột nhưng An thể hiện mình là người con ngoan, hiếu thảo và lễ phép. An
lo lắng, quan tâm tía má nuôi mình không đơn giản như người cưu mang
mình mà đó là tình cảm của một đứa con với cha mẹ ruột. Đó là khi em ầm
thầm theo dõi tía nuôi đi trả thù cho chú Võ Tòng, lo lắng lắm cho sự an nguy
của tía nhưng An vẫn im lặng quan sát hành động của tía nuôi. Chỉ khi tía
nuôi bắn “mũi tên thù” vào con mụ Việt Gian và bị bọn Tây rượt đuổi, thì lúc

đó cậu bé bất chấp tất cả để đánh lạc hướng bọn Tây giải cứu cho cha mình
21


“Máu dồn lên nóng cả mặt. Tôi che tay lên mồm hô lớn: “Xung Phong!” [3,
tr.213]. Với sự nhanh trí của An, “nó quay lưng tháo chạy về đồn”, lúc này
cậu bé mới hốt hoảng tìm cha “Tôi cứ chạy tiếp theo đám rều, gọi “tía ơi, tía
hỡi!”mà không nghe thấy tiếng đáp. Đám rều mỗi lúc một trôi nhanh. Tôi
ngồi xuống bờ sông, khóc nấc lên.” [3, tr.213]. Hành động của An cho thấy
đó là một đứa trẻ thông minh và có lòng hiếu thảo, tình yêu nó dành cho cha
mẹ còn lớn hơn cả tính mạng của mình.
Song song với nhân vật An, đó là thằng Cò, thằng bé có tính cách đặc sệt trẻ
con hay nạnh tỵ, khoe khoang nhưng xen lẫn những tình cảm đẹp, trong sáng
đối với những người xung quanh nó.
Thằng Cò và An như hai người bạn thân thiết từ lâu, qua cách xưng hô “
mày” – “tao”, hay những lần giận dỗi nhau. Điều đó, thể hiện tình cảm chúng
dành cho nhau vô tư và hồn nhiên như thế nào: “Tôi cũng chẳng hỏi gì thêm,
cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi.
Cứ nắm tay lôi đi…” [3, tr.154]. Trong những tháng ngày chung sống với
nhau, hai đứa trẻ chuyển từ tình cảm bạn bè sang tình cảm anh em thân thiết
như ruột thịt. Khi An lên đường đi chiến đấu, cả nhà ra tiễn chỉ duy nhất
thằng Cò đang bị “sốt thương hàn” không tiễn được An. Hành động thằng Cò
nhất định không ăn gói ruốc thịt nai, bắt mẹ mang ra cho An đã thể hiện tình
cảm thân thiết như anh em chung giọt máu đào, khác hẳn cái cách chạnh chọe
của nó khi hai đứa ở bên nhau. Tình cảm là thứ không nhất thiết phải nói ra
mà chỉ là hành động nhỏ cũng đủ để cảm nhận được nó nhiều ra sao.
Thằng Cò cũng như An luôn quan tâm, lo lắng cho cha mẹ mình, tình yêu
mà hai đứa trẻ dành cho cha mẹ là thứ tình cảm mãnh liệt nhưng có pha đôi
chút hồn nhiên của trẻ con: “Mỗi lần tía nuôi tôi mang vòng dây thép lặn
xuống, thằng Cò theo thuyền cứ mếu máo trực khóc. Còn tay chân tôi cứ phát

run lên” [3, tr.232].
22


Cách thể hiện tình yêu của những đứa trẻ Nam Bộ, nó thầm kín và pha chút
ngộ nghĩnh của trẻ con. Điều đó càng cho thấy các em có đời sống tình cảm
đẹp đẽ.
1.1.5. Nhân vật trẻ em – những đứa trẻ yêu nước
Khi miêu tả hình tượng trẻ em phương Nam, tác giả Đoàn Giỏi đã khai thác
tất cả mọi mặt của các em một cách sâu sắc. Đặc biệt nhất và khâm phục nhất
đó là lòng yêu nước của những đứa trẻ Nam Bộ. Tiêu biểu và đại diện cho
những đứa trẻ yêu nước đó là cậu bé An. Một thằng bé còn ít tuổi nhưng dạt
dào tình yêu quê hương đất nước. Điều đó được thể hiện qua hàng loạt các
hành động của em.
Đầu tiên, là sự việc xảy ra giữa An và vợ chồng Tư Mắm trong quá trình An
làm việc tại quán dì Tư. Trong tửu quán, An thường xuyên quan sát tất cả
khách lui tới quán dì Tư. Đỉnh điểm của tài quan sát, và thể hiện mình là
người thông minh, khéo léo đó là việc phát hiện hành vi kì lạ của vợ chồng
Tư Mắm. “Mụ vợ tên lái buôn cau mắt lườm hắn một cái, từ trong hai ngươi
phát ra những tia sáng quắc, nhọn như những mũi kim. Nếu tôi không chú ý
mụ từ trước, thì không thể nào bắt gặp cái lườm dữ dội trong thoáng chớp ấy”
[3, tr.46].
Qua những cử chỉ, thái độ đáng ngờ của vợ chồng Tư Mắm, An đã quyết
định khám phá hành tung bí ẩn của họ. Bé An thể hiện mình là người vô cùng
thông minh, tinh ý và sử dụng triệt để vai trò phụ bếp của mình để tiếp cận
đối tượng. “Tôi lia mắt sang thấy bát nước hầm rượu không còn bốc hơi nữa,
bèn nảy ra ý nghĩ sẽ vờ cầm ấm nước sôi đến rót thay vào bát nước nguội để
có thể tới bàn mụ ta ngồi”, chính từ hành động mạnh dạn ấy mà hành tung của
đôi vợ chồng lái buôn bí ẩn mới dần được sáng tỏ. Điều đó con cho thấy cậu
bé An quan tâm đến cách mạng, quyết tâm vạch trần bộ của bọn phản nước.


23


Từ lòng yêu cách mạng khiến cho cậu bé có động lực chiến đấu, gan góc và
thông minh. Đó là khi cậu bé muốn thoát khỏi sự truy xét của kẻ gian, cách
trấn an tinh thần mình “gãi tai, cười và nói một cách hồn nhiên”, cách An giả
vờ vấp chân kêu đau để đánh lạc hướng kẻ thù, rồi chạy chốn “lao đi như một
mũi tên”. Bĩnh tĩnh, can đảm và nhanh nhẹn là biểu hiện của An trong lúc
nguy hiểm để đảm bảo tính mạng. Cuộc chạy trốn được tác giả kể lại đầy kịch
tính và hồi hộp.
Hàng loạt hành động của An đã thể hiện một cuộc đấu trí không cân sức,
nhưng kẻ thù vẫn nhận sự thất bại trước sự thông minh, gan góc và đặc biệt là
thất bại trước tinh thần yêu nước nồng nàn của một đứa trẻ nhỏ.
Đọc tác phẩm chúng ta sớm nhận ra cậu bé An có tấm lòng yêu nước trong
sáng. Cậu vui chung niềm vui khi nước nhà độc lập, có hành động và ý thức
tố giác kẻ phản bội và là một trong những chiến sỹ du kích đầu tiên của sông
nước Cửu Long.
An tình nguyện tham gia vào du kích để bảo về quê hương khi em mười
lăm tuổi. Cậu bé ngày nào nay đã tưởng thành hơn, suy nghĩ già dặn hơn,
nhận thức rõ ràng được tầm quan trọng và sự nguy hiểm khi là một chiến sỹ
du kích. Trong buổi lễ trang nghiêm ấy, em nhận thấy trái tim mình như đang
sục sôi, lòng quyết tâm chiến đấu đang dâng trào: “Tôi đứng nghiêm, nén thở
nghe tim đập dồn dã trong lồng ngực bé nhỏ của mình đang ưỡn tới. Tất cả
chung quanh tôi như chìm vào ánh sáng đỏ của ngọn lửa cháy rừng rực” [3,
tr.291]. Niềm vui sướng của một cậu bé yêu nước, yêu cách mạng không thể
kìm nén được mà trào ra trong nước mắt, những giọt nước mắt thể hiện sự
quyết tâm của người chiến sỹ du kích nhỏ tuổi: “Một cảm giác lạ lùng vụt
xâm chiếm đầu óc tôi: không phải lá cờ đang từ từ hạ xuống, mà chính những
người đứng trên sân lễ giữa rừng đước Cà Mau đây, tất cả đang từ từ bay lên,

mỗi phút một gần màu đỏ của lá cờ. Bao nhiêu lo buồn, tủi cực, bao nhiêu
24


căm thù, nhớ thương và hy vọng cùng dồn dập đến cả trong tôi trong giờ phút
này. Tôi chớp mi mắt nhìn lên lá cờ, để cho những giọt nước mắt vui sướng
và nóng hổi tự do lăn trên đôi gò má nóng bừng” [3, tr.300].
Thông qua hình ảnh đại diện là cậu bé An cho thấy lòng yêu nước, yêu
cách mạng của những đứa trẻ Nam Bộ dạt dào biết bao nhiêu. Có thể thấy đó
là một phần trong phẩm chất những người con của Nam Bộ.
1.2. Hình tượng người dân Nam Bộ
1.2.1. Người dân Nam Bộ - những con người nghèo khổ
Người dân Nam Bộ đa phần họ đều là những con người nghèo khó,
cùng cực. Trong câu chuyện, tác giả khắc họa rõ nét hình ảnh các nhân vật để
thấy được cái nghèo đang vây bám xung quanh con người nơi đây.
Người đầu tiên, được nhấn mạnh trong cái nghèo, đó là vợ chồng ông Hai.
Ngay từ khi sinh ra số phận của họ đã phải chịu cái cảnh nghèo khổ. Thời đó,
anh Hai đã mồ côi cha mẹ từ lúc mười tuổi, phải ở đợ cho tên địa chủ Khá để
trả nợ cho cha mẹ và mong được lấy vợ như tên địa chủ đã hứa. Còn chị Hai
sinh ra trong một ra đình cố nông . Cái nghèo lại gặp cái nghèo khó nên cuộc
sống vợ chồng ông Hai cứ lênh đênh trôi nổi không biết về đâu. Họ làm nụng
vất từ những nghề hạ bạc để kiếm được miếng cơm, chỉ để mong tồn tại qua
ngày: “Từ những nghề hạ bạc như đóng đáy, câu cá sấu trên sông Cửu Long
mênh mông, đến trèo cau, trèo dừa ở đất Bến Tre, nơi người đi có thể bước
suốt ngày dưới những vườn dừa tàu lá ken nhau, trên đầu không lọt xuống
một bóng nắng, đến nghề đi làm ruộng thuê cho những tên địa chủ ác bá giàu
nứt đố đổ vách của tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu…” [3, tr.131]. Công việc ban
ngày làm nụng vất vả như vậy nhưng vẫn không đủ nồi gạo nấu cháo, đêm
đến họ còn phải “bò ra những đồng lúa cao như núi do tay mình làm ra, vốc
từng nắm một đem về, rồi lấy cán dao cà lúa cho ra gạo. Không dám xay giã

đã đành, thậm chí đến đèn cũng không dám thắp, sợ tăn khao thấy chỗ nào có
25


×