1
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SINH KẾ VÀ MÔ HÌNH SINH KẾ BỀN VỮNG
1.1. SINH KẾ VÀ SINH KẾ BỀN VỮNG CHO HỘ NGHÈO
1.1.1. Các khái niệm và tiêu chí đánh giá nghèo
Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với
các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Tình trạng thiếu thốn thể hiện trên nhiều
phương diện như: thu nhập thiếu do bị thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu những
nhu cầu cơ bản hàng ngày của cuộc sống, thiếu tài sản để tiêu dùng lúc bất trắc
xảy ra và dễ bị tổn thương trước những mất mát.
Bản thân khái niệm nghèo cũng bao hàm các mức độ khác nhau, vì trong
các nhóm dân cư có người thuộc nhóm nghèo nhưng chưa bị rơi vào tình trạng
đói kém. Mức nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất những phẩm chất quý giá,
đó là lòng tin và lòng tự trọng. Do đó, với cách tiếp cận khác nhau về tình trạng
thiếu thốn sẽ phân biệt ngưỡng nghèo khác nhau. Thước đo các tiêu chuẩn về
nghèo thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian.
Ví dụ, Tổ chức Y tế Thế giới (world health organization: WHO) định
nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm
ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita
Incomme, PCI) của quốc gia.
Một cách tiếp cận khác về nghèo dựa trên tình trạng sống, trong đó lưu ý
đến những khía cạnh khác ngoài thu nhập khi định nghĩa “nghèo con người”, thí
dụ như cơ hội đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả
năng ảnh hưởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh
khác. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc cũng đã đưa ra chỉ số phát triển
con người (tiếng Anh: human development index–HDI). Các chỉ báo của HDI
bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ mù chữ, trình độ học vấn, sức
mua thực trên đầu người và nhiều chỉ báo khác. Trong “Báo cáo phát triển thế
giới 2000” của Ngân hàng Thế giới (World Bank: WB) đã đưa ra bên cạnh các
yếu tố quyết định khách quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như phẩm
chất và tự trọng.
Tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do Ủy
ban kinh tế xã hội châu Á – Thái Bình Dương (Economic and Social
2
Commission for Asia and the Pacific: ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan
vào tháng 9/1993, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách lại cho
rằng: ”Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa
phương”. Rõ ràng là nội hàm của khái niệm nghèo được thừa nhận ở đây đã có
sự mở rộng so với khái niệm của WHO, nó không chỉ đơn thuần là thu nhập mà
được thể hiện ở giác độ rộng lớn hơn, đó là việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản
của con người bao gồm cả ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe…
Hiện nay ở các nước khu vực châu Á và Việt Nam đều thống nhất thừa
nhận khái niệm nghèo theo định nghĩa do ESCAP đưa ra. Vì vậy, khái niệm
nghèo sử dụng trong nghiên cứu này đựa hiểu theo nghĩa cụ thể trên.
Để nghiên cứu về hiện tượng nghèo, người ta nhận diện chúng trên các
khía cạnh: nghèo đói tuyệt đối, nghèo đói tương đối và nghèo đa chiều.
- Nghèo tuyệt đối (Absolute Poverty)
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 USD/ngày theo sức mua tương
đương của địa phương so với sức mua của USD trên thế giới để thỏa mãn nhu
cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trên cơ sở chuẩn
chung của WB, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (1997) đã đưa ra các
chuẩn nghèo tuyệt đối cho từng khu vực hay từng vùng lãnh thỏ trên thế giới
như sau: 02 USD cho khu vực Mỹ La tinh và Carribean; 04 USD cho những
nước Đông Âu và 14,40 USD cho những nước công nghiệp phát triển (G7)…
Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 6 lần nâng mức chuẩn nghèo
trong thời gian từ 1993 đến đầu năm 2016.
Đến cuối năm 2015, nước ta đang áp dụng Chuẩn nghèo theo Chỉ thị số
1752/CT-TTg ngày 21-9-2010 của Thủ tướng Chính phủ cho giai đoạn 2011 –
2015, theo đó mức chuẩn nghèo và cận nghèo được xác định, những hộ có thu
nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo (khu vực
nông thôn), đối với khu vực thành thị hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập
bình quân 500.000 đồng/người/tháng; Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu
nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng (khu vực nông
thôn), đối với khu vực thành thị là từ 501.000 đồng đến 650.000
đồng/người/tháng.
3
- Nghèo tương đối (Relative Poverty)
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa
vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc
cung cấp không đầy đủ các điều kiện vật chất và phi vật chất cho những người
thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với các điều kiện được xem là sung
túc của chính xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc
vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ
quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác
định khách quan. Bên cạnh sự thiếu thốn trong việc đảm bảo điều kiện vật chất,
việc thiếu thốn các tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn đối
với tình trạng nghèo tương đối. Việc nghèo đi về văn hóa - xã hội, thiếu tham
gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính được các nhà xã hội học xem là
một thách thức xã hội nghiêm trọng hiện nay.
- Nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty)
Theo Tổ chức Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để
tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn,
đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để
trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp
cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại
trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được
nước sạch và công trình vệ sinh”1
Chuẩn nghèo đa chiều có thể có thể có một chỉ số không liên quan đến
mức thu nhập mà bao gồm các khía cạnh khác liên quan đến sự thiếu hụt các
dịch vụ xã hội cơ bản (Oxfam và ActionAid, 2010: 11). Chỉ số nghèo đa chiều
(Multidimensional Poverty Index) của quốc tế, với ba chiều cạnh chính là: y-tế,
giáo dục và điều kiện sống, hiện là một thước đo quan trọng nhằm bổ sung cho
phương pháp đo lường nghèo truyền thống dựa trên thu nhập.
Các khái niệm trên cho thấy sự thống nhất cao của các quốc gia, các nhà
chính trị và các học giả với quan điểm nghèo là một hiện tượng đa chiều, cần
được chú ý nhìn nhận là sự thiếu hụt hoặc không được thỏa mãn các nhu cầu cơ
1
PGS.TS. Đặng Nguyên Anh (2015), “Nghèo đa chiều ở Việt Nam: Một số vấn đề chính sách và thực
tiễn”. />
4
bản của con người. Nghèo đa chiều là tình trạng con người không được đáp
ứng ở mức tối thiểu các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.
Ngày 19/11/2015, Thủ tưởng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
59/2015/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn nghèo đa chiều áp dụng ở Việt Nam từ
ngày 01/01/2016 cho giai đoạn 2016 – 2020 như sau:
+ Các tiêu chí về thu nhập: Chuẩn nghèo: 700.000 đ/người/tháng ở khu
vực nông thôn và 900.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. Chuẩn cận
nghèo: 1.000.000 đ/người/tháng ở khu vực nông thôn và 1.300.000
đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
+ Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: Các dịch vụ xã
hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ số): tiếp
cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng
đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn
nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản
phục vụ tiếp cận thông tin.
1.1.2. Khái niệm sinh kế và sinh kế bền vững
a.Khái niệm sinh kế
“Sinh kế” là một khái niệm rộng bao gồm các phương tiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội và văn hóa mà các cá nhân, hộ gia đình, hoặc nhóm xã hội sở hữu có thể
tạo ra thu nhập hoặc có thể được sử dụng, trao đổi để đáp ứng nhu cầu của họ.
Tập hợp tất cả các nguồn lực và khả năng mà con người có được, kết hợp
với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiếm sống cũng như
để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ.
Các nguồn lực mà con người có được bao gồm: (1) Vốn con người; (2)
Vốn vật chất; (3) Vốn tự nhiên; (5) vốn tài chính; (6) Vốn xã hội, cụ thể:
- Vốn con người: Bao gồm sức mạnh thể lực, năng lực trí tuệ biểu hiện ở
kỹ năng, kiến thức làm kinh tế, khả năng quản lý gia đình của người dân. Có thể
người dân cố gắng làm việc siêng năng nhưng do sức khỏe không đảm bảo, năng
lực hạn chế nên không có khả năng tạo ra thu nhập để đảm bảo cuộc sống do
năng suất lao động thấp. Đối với người nghèo, do đời sống khó khăn, cô lập với
bên ngoài nên trình độ học vấn thường rất hạn chế. Cụ thể:
• Tỷ lệ người sống phụ thuộc cao.
• Trình độ học vấn thấp
5
• Sức khoẻ không đảm bảo, hay bị ốm đau
• Năng lực quản lí thấp
• Quĩ thời gian lớn nhưng sử dụng không có có hiệu quả
• Phân công lao động chưa hợp lý, thiếu cân bằng về giới
- Vốn xã hội: Thể hiện thông qua các mối quan hệ xã hội có ý nghĩa trong
việc đảm bảo phần nào những điều kiện cần thiết cho cuộc sống của hộ gia đình.
Tình làng, nghĩa xóm được thể hiện thông qua việc thúc đẩy sự hợp tác trong
sản xuất. Việc phát huy hiệu quả vai trò của các tổ chức xã hội truyền thống
cũng như các tổ chức đoàn thể xã hội hiện đại ngày nay là điều kiện quan trọng
để gia tăng nguồn vốn xã hội, phục vụ cho sinh kế của người dân. Cụ thể:
• Các mạng lưới hỗ trợ từ bạn bè, họ hàng, láng giềng
• Cơ chế hợp tác trong sản xuất, mua bán sản phẩm, các nhóm tiết kiệm,
tín dụng
• Các qui định, hành vi ứng xử của làng bản, khu phố…
• Mức độ gắn kết trong tín ngưỡng của làng bản, khu phố, cộng đồng
• Cơ hội tham gia ý kiến với các cơ quan, tổ chức ở địa phương của các
thành viên trong cộng đồng
• Cơ chế hoà giải mâu thuẫn trong địa phương
- Vốn tự nhiên: Khả năng cung ứng quỹ đất sản xuất, sông biển ao hồ có
thể sử dụng để sản xuất của hộ gia đình cũng như cộng đồng cùng với điều kiện
thuận lợi hay khó khăn của việc khai thác các nguồn lực ấy là nguồn vốn tự
nhiên. Cụ thể:
• Các nguồn lực đất đai của hộ gia đình
• Nguồn lực rừng, biển, cảnh vật thiên nhiên
• Các nguồn giống cây, con từ tự nhiên
• Bãi chăn thả gia súc và nguồn thức ăn cho gia súc
• Hệ thống mặt nước tiềm năng dùng cho nước sinh hoạt, thuỷ lợi, nuôi
trồng thủy bản, đánh bắt cá tôm cũng như các lợi ích khác.
- Vốn tài chính: Vốn tài chính được thể hiện bằng khả năng tạo ra dòng
tiền cho hộ gia đình. Nguồn tiền đó thường có được do tiết kiệm, đi làm thuê,
bán sản phẩm hoặc từ các hỗ trợ của chính phủ, của các tổ chức xã hội khác.
Ngoài ra, việc tiếp cận được các nguồn vốn vay của các hộ nghèo là điều kiện
rất quan trọng để đảm bảo nguồn vốn tài chính cho họ.
6
- Vốn vật chất: Thể hiện ở các tài sản vật chất đảm bảo cho cuộc sống, sinh
hoạt cũng như làm ăn của người dân như hệ thống đường sá, điện nước, chợ
búa, trường học, thông tin liên lạc cùng các tài sản sinh hoạt như tivi, xe máy và
các vật dụng cần thiết khác trong gia đình như giường, tủ, bàn... được xem là
nguồn vốn vật chất. Tuy nhiên, đối với các hộ nghèo, những vật dụng này vẫn
đang là đồ xa xỉ.
b.Sinh kế bền vững
Ý tưởng sinh kế bền vững lần đầu tiên được giới thiệu bởi Ủy ban
Brundtland về Môi trường và Phát triển, và năm 1992 Hội nghị của Liên Hiệp quốc
về Môi trường và Phát triển mở rộng khái niệm thúc đẩy việc đạt được sinh kế bền
vững như là một mục tiêu rộng hơn của xóa đói nghèo. Trên cơ sở ý tưởng đó,
Chambers và Gordon (1992) đã đưa ra khái niệm về sinh kế bền vững ở cấp hộ gia
đình đó là: “Một sinh kế bền vững có thể đối phó với những rủi ro và những cú
sốc, duy trì và tăng cường khả năng và tài sản; đồng thời cung cấp các cơ hội sinh
kế bền vững cho thế hệ sau góp phần tạo ra lợi ích cho cộng đồng, địa phương
và toàn cầu và trong ngắn hạn và dài hạn. Sinh kế bền vững cung cấp một phương
pháp tiếp cận tích hợp chặt chẽ hơn với vấn đề nghèo đói”.
Theo các tác giả trên, sinh kế bền vững bao gồm con người, năng lực và kế
sinh nhai, gồm có lương thực, thu nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là
tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi
nó bao gồm hoặc mở rộng tài sản địa phương và toàn cầu mà chúng phụ thuộc
vào và lợi ích ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội
khi nó có thể chống chịu hoặc hồi sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp
cho thế hệ tương lai.
Nội hàm của sinh kế bền vững, đồng thời cũng là tiêu chí quan trọng nhất
cần hướng đến của sinh kế bền vững là giải quyết các yêu cầu sau đây:
• Sinh kế của cá nhân, gia đình hoặc cộng đồng phải có khả năng tạo ra thu
nhập, của cải đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng tốt hơn cho con người trong
ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
• Sinh kế của cá nhân, hộ gia đình hay cộng đồng phải có khả năng giúp
con người vượt qua những biến động trong cuộc sống do thiên tai, dịch bệnh,
hoặc khủng hoảng kinh tế gây ra.
7
• Sinh kế của cá nhân, gia đình hoặc cộng đồng phải có khả năng phát triển
hơn nguồn tài sản hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong tương lai.
1.1.3.Những đặc điểm sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số
a. Khái niệm dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số (DTTS) là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ
biến trên thế giới hiện nay. Đó là khái niệm được dùng để chỉ các nhóm người
có những sự khác biệt về một phương diện nào đó với cộng đồng người chung
trong xã hội. Họ có thể khác biệt với nhóm người đa số về phương diện ngôn
ngữ và văn hoá; khác biệt về nhận thức và tôn giáo, về hoàn cảnh kinh tế, điều
kiện sống và thu nhập v.v...và đi kèm theo đó là sự khác biệt về phương thức
ứng xử của cộng đồng đối với chính họ.
Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một thuật ngữ chuyên
ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những dân tộc có dân số ít.
Trong một số trường hợp, người ta đánh đồng ý nghĩa “dân tộc thiểu số” với “dân
tộc lạc hậu”, “dân tộc chậm tiến”, “dân tộc kém phát triển”, “dân tộc chậm phát
triển”… Tuy nhiên, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu
số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc.
Ở nước ta hiện nay, khái niệm DTTS được sử dụng chính thức trong các
tài liệu chính thức của Nhà nước đó là: “Những dân tộc có số dân ít hơn so với
dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”2. Đây là khái niệm chính thức được sử dụng trong nghiên cứu này.
b.Đặc điểm sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Do có dân số ít, phân bố khu vực cư trú của các cộng đồng DTTS Tây
Nguyên khá biệt lập với cộng đồng người Kinh, trình độ sản xuất và trình độ
văn hóa của các DTTS có nhiều nét đặc thù, điều này đã làm cho hoạt động sinh
kế của đồng bào DTTS có một số đặc điểm sau:
- Hoạt động sinh kế lệ thuộc vào tự nhiên, chưa quen với sản xuất kinh tế
hàng hóa. Do đặc điểm sống của đồng bào DTTS là cố kết cộng đồng, gắn với
những luật tục theo kiểu bộ tộc, khép kín. Hoạt động sinh kế chính của họ là sản
xuất nông nghiệp truyền thống tự cấp tụ túc gắn với tự nhiên với trình độ sản
xuất rất thấp. Việc sản xuất chỉ để đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống đơn giản
2
Nghị định số: 05/2011/NĐ-CP
8
hàng ngày của gia đình, không có ý thức sản xuất để bán do đó trình độ tiếp cận
với kinh tế thị trường vẫn còn rất thấp.
- Cách tổ chức sản xuất lệ thuộc nhiều vào thiết chế tự quản: buôn làng của
đồng bào DTTS Tây Nguyên thường là những đơn vị cơ sở xã hội duy nhất và
cao nhất, gắn liền vơi nơi cư trú và nơi canh tác. Do đó, hoạt động sinh kế
truyền thống của đồng bào DTTS thường gắn chặt với thiết chế buôn, làng đó,
hầu như ít có hoạt động sinh kế truyền thống vượt ra khỏi khuôn khổ này.
- Hoạt động sinh kế phụ thuộc nhiều vào các luật tục: Đây là một dạng
thức văn hóa pháp luật có tính lịch sử nhất định nhưng cho đến nay vẫn còn giá
trị, nó thấm đẫm trong mọi hành xử của cả cộng đồng của đồng bào DTTS Tây
Nguyên. Trong xã hội cổ truyền thì luật tục có hiệu lực như một sức mạnh để
chế ước xã hội. Mọi hoạt động sinh kế của người dân như trồng tỉa, chăn nuôi,
săn bắt… đều phải tuân thủ nghiêm ngặt các luật tục đó.
- Tập quán du canh, du cư: Mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực của Chính phủ
trong việc định canh, định cư cho đồng bào DTTS. Tuy nhiên thực tế hiện nay
vẫn chưa hoàn toàn xóa bỏ tập quán này của đồng bào ở Đắk Nông, đặc biệt là ở
những vùng xa trung tâm. Việc du canh dẫn đến mỗi hộ gia đình chiếm hữu một
số lượng lớn đất đai, nhưng do thiếu đầu tư thâm canh nên năng suất canh tác
thấp, không tạo ra đủ thu nhập để đảm bảo cuộc sống.
- Vai trò của người già và phụ nữ trong các quyết định sinh kế: Các DTTS
Tây Nguyên có đặc điểm là coi trọng kinh nghiệm nên vai trò người già rất được
tôn trọng. Hầu hết mọi quyết định quan trọng trong cuộc sống và sinh kế đều
phải tham khảo ý kiến của người già. Điều này rất quan trọng trong hoạt động
sinh kế truyền thống của xã hội cộng đồng nguyên thủy, tự túc tự cấp gắn với tự
nhiên vì nó giúp loại bỏ các rủi ro thường có tính quy luật đã được cộng đồng
rút tỉa thông qua quá trình sống. Mặt khác, các cộng đồng dân tộc thiểu số hiện
nay vẫn còn theo chế độ mẫu hệ, do đó vai trò quyết định của người phụ nữ
trong các hoạt động sinh kế là rất lớn. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập hiện nay, các giá trị truyền thống trên đang có chiều hướng
suy giảm vì không còn thích hợp…
- Hiện nay đang xuất hiện tư tưởng ỷ lại vì các cộng đồng DTTS nằm
trong nhóm các đối tượng dễ bị tổn thương của xã hội, đây là đối tượng để Nhà
nước, cộng đồng quan tâm đầu tiên trong công tác an sinh xã hội. Tuy nhiên do
trình độ văn hóa thấp, khả năng thực hiện các giải pháp sinh kế kém hiệu quả
9
nên chính quyền thường sử dụng các biện pháp khẩn cấp để hỗ trợ. Điều này
làm cho người dân có thói quen chờ nhận hỗ trợ, có tư tưởng ỷ lại , giảm động
lực phấn đầu tự vươn lên…
1.1.4.Yêu cầu của sinh kế bền vững đối với hộ gia đình dân tộc thiểu số
a. Phải gắn kết được lịch sử, truyền thống kinh tế, văn hoá
Tính ổn định, bền vững của sinh kế của đồng bào DTTS phải được đánh giá
thông qua việc sinh kế đó có giúp gắn kết được lịch sử truyền thống kinh tế, văn
hóa, phong tục tập quán của người dân và cộng đồng dân tộc bản địa hay không.
Sự gắn kết với văn hóa, lịch sử là chất keo kết nối người dân với nhau và đã thể
hiện sự vững chắc qua nhiều thế hệ trong suốt quá trình lịch sử. Chính nó là một
nhân tố để duy trì tính ổn định của xã hội, tiền đề cho việc ổn định về kinh tế. Tất
nhiên, điều này không có nghĩa là bảo thủ, chỉ nhăm nhăm giữ lấy những truyền
thống cũ vốn đã lạc hậu, nhiều khi là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Nhưng nếu
chỉ quan tâm đến sự cách tân, sự đổi mới mà tiến hành thay đổi toàn diện các
truyền thống văn hóa, lịch sử cũng sẽ dẫn đến người dân nghèo, vốn dĩ khả năng
thích ứng kém có thể bị sốc, làm tổn hại bến tính bền vững của sinh kế.
b. Kết nối được với hoạt động kinh tế của cộng đồng
Việc khu trú hóa, cục bộ hóa trong kinh tế theo hướng tự cấp, tự túc mặc
dù là cách tốt để bảo đảm sinh kế ổn định cho người nghèo, ngăn chặn các tác
động tiêu cực từ bên ngoài. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chỉ đúng trong điều
kiện nền kinh tế nguyên thủy, khi nhu cầu cho cuộc sống không cao, khi nguồn
tài nguyên thiên nhiên còn phong phú và không bị cạnh tranh. Ngược lại, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường dưới tác động của toàn cầu hóa hiện nay thì việc
ổn định sinh kế của người dân nghèo cần phải được đánh giá qua khả năng kết
nối thành công của nó với hoạt động kinh tế của cộng đồng. Chính điều này giúp
cho người nghèo nhận được hơi ấm của cộng đồng, nhận được lợi ích từ sức
mạnh cộng đồng, giảm được rủi ro bất trắc đồng thời rèn luyện, học tập được từ
kinh nghiệm của người khác. Sự khác biệt hóa là tốt, tuy nhiên nó có vẻ không
phải là lựa chọn tốt cho mục tiêu sinh kế bền vững.
c.Phải thích ứng với điều kiện trình độ của người nghèo
Như đã phân tích ở phần trên, có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo, trong đó
có nhiều lý do nội tại của chính hộ gia đình đó là do thiếu nguồn lực vật chất,
nguồn lực tài chính, thiếu kiến thức, thiếu sự hỗ trợ của cộng đồng... Vì vậy, một
mô hình sinh kế bền vững cho người nghèo cần phải tương thích với những điều
10
kiện cụ thể đó. Cùng với sự quan tâm của cộng đồng, của chính phủ, các nguồn lực
sinh kế của hộ gia đình có khả năng được cải thiện theo thời gian. Tuy nhiên, hạn
chế lớn nhất thường gặp phải của hộ nghèo là thiếu kiến thức nên việc khắc phục
nhược điểm này đòi hỏi rất lâu dài và khó khăn. Vì vậy, một mô hình sinh kế tốt
đối với hộ nghèo là phải có khả năng thích ứng với trình độ, năng lực thực tế của
họ. Có như vậy, họ mới có thể làm chủ được sinh kế, mới có thể phát huy được các
nguồn lực để đảm bảo sinh kế bền vững cho gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, rất
nhiều mô hình sinh kế rất thành công ở các nơi, song khi áp dụng cho người nghèo
thì lại không thành công chính là vì không đáp ứng được điều kiện này.
d.Phải cho phép phát huy được các nguồn lực tại chỗ
Sinh kế bền vững gắn liền với cuộc mưu sinh của người dân qua nhiều thế
hệ, nó chỉ có thể được duy trì sự ổn định lâu dài nều nó cho phép khai thác và
phát huy được các nguồn lực tại chỗ (lao động, đất đai, nguồn tài nguyên thiên
nhiên...) để tạo ra nguồn thu nhập cho người dân. Nếu việc xây dựng sinh kế chỉ
hoàn toàn dựa vào các nguồn lực ngoại tác thì việc ổn định đời sống lâu dài cho
người dân chắc chắn rất khó. Bởi vì khi các nguồn lực bên ngoài không còn được
duy trì thì sự thịnh vượng cũng biến mất và khi đó người nghèo lại hoàn người
nghèo. Kinh nghiệm của người dân tại một số địa phương ở Đồng bằng Sông Cửu
Long cho Trung Quốc thuê đất trồng khoai lang trong các năm qua là một ví dụ
điển hình cho việc này. Sinh kế bền vững phải cho phép phát triển hơn nguồn tài
sản hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên.
e. Phải tạo được nguồn sống đều đặn, ổn định cho hộ gia đình
Sinh kế hiểu theo nghĩa hẹp là kế sinh nhai của người dân, do đó một mô
hình sinh kế tốt trước hết phải là một mô hình mà từ hoạt động của nó có thể tạo
ra được các của cải có tính liên tục, đáp ứng được yêu cầu cuộc sống bình thường
của mọi thành viên trong hộ gia đình. Điều quan trọng nhất của mô hình sinh kế
bền vững cho hộ nghèo là nó giúp cho họ thoát ra được tình trạng nghèo đói hiện
tại thông qua việc tạo ra và duy trì được dòng chảy của cải liên tục, đáp ứng yêu
cầu cuộc sống trên mức nghèo đói của họ. Nói cách khác, một mô hình sinh kế
bền vững đối với hộ gia đình nghèo phải có khả năng tạo ra được nguồn thu nhập
đều đặn có khả năng duy trì được cuộc sống cho các thành viên của gia đình suốt
trong cả năm. Vì vậy, khi đánh giá một mô hình sinh kế phù hợp hay không trước
hết ta phải xem xét khả năng này của mô hình.
11
f.Phải có khả năng chống chọi được với các “cú sốc” bất lợi từ môi trường
Muốn cấu trúc xã hội ổn định, bền vững thì trước hết cấu trúc của mỗi gia
đình (tế bào của xã hội) cũng phải có được thuộc tính đó. Trong cấu trúc hộ gia
đình, cấu trúc kinh tế đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì tính ổn
định của nó. Mô hình sinh kế quyết định cấu trúc kinh tế vì nó bao hàm các
nguồn lực kinh tế và năng lực dòng chảy của cải của hộ gia đình đó. Trong điều
kiện nền kinh tế luôn chịu sự tác động của rất nhiều biến số ảnh hưởng bên
ngoài khó kiểm soát dẫn đến xuất hiện các cú sốc bất lợi từ môi trường như
thiên tai, dịch bệnh, biến động của thị trường... làm cho hoạt động sinh kế của
gia đình bị ảnh hưởng tiêu cực. Một mô hình sinh kế tốt phải là một mô hình
sinh kế có khả năng chống chịu trước các cú sốc đó. Tức là vẫn có khả năng tạo
ra được thu nhập hoặc huy động từ các nguồn bù đắp khác để duy trì cuộc sống
của gia đình trong những khoảng thời gian nhất định.
g. Phải gắn kết được với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng chung của đất nước
Kinh tế của hộ gia đình muốn bền vững thường phải có khả năng thích ứng
với sự thay đổi của nền kinh tế nói chung. Sự thích ứng này có thể thuận chiều
hay nghịch chiều. Tuy nhiên, nều một người dân không có được khả năng thích
ứng này, tức là không gắn kết được với xu hướng phát triển kinh tế xã hội, an
ninh quốc phòng của địa phương và đất nước thì chắc chắn nó sẽ gặp rất nhiều
rủi ro vì không được hưởng lợi từ các chính sách của Nhà nước, một điều kiện
rất cần thiết để ổn định sinh kế cho người nghèo. Ngược lại, sinh kế cho người
nghèo mà không gắn với yêu cầu chung của phát triển kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng của địa phương thì nhà nước cũng rất khó để hỗ trợ vì không thể
xây dựng chính sách riêng cho một vài cá nhân.
1.1.5.Vai trò của hoạt động sinh kế bền vững trong xóa đói giảm nghèo
a.Đảm bảo nguồn sống cho hộ gia đình
Sinh kế hiểu theo nghĩa hẹp là kế sinh nhai của người dân, do đó một mô
hình sinh kế tốt trước hết phải là một mô hình mà từ hoạt động của nó có thể tạo
ra được các của cải có tính liên tục, đáp ứng được yêu cầu cuộc sống bình
thường của mọi thành viên trong hộ gia đình. Điều quan trọng nhất của mô hình
sinh kế bền vững cho hộ nghèo là nó giúp cho họ thoát ra được tình trạng nghèo
đói hiện tại thông qua việc tạo ra và duy trì được dòng chảy của cải liên tục, đáp
ứng yêu cầu cuộc sống trên mức nghèo đói của họ. Vì vậy, khi một mô hình sinh
12
kế phù hợp sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo xóa nghèo bền
vững cho người dân.
b.Giúp người nghèo nâng cao khả năng chống chọi được với các “cú sốc”
bất lợi từ môi trường
Muốn cấu trúc xã hội ổn định, bền vững thì trước hết cấu trúc của mỗi gia
đình (tế bào của xã hội) cũng phải có được thuộc tính đó. Trong cấu trúc hộ gia
đình, cấu trúc kinh tế đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì tính ổn
định chung. Mô hình sinh kế quyết định cấu trúc kinh tế vì nó bao hàm các
nguồn lực kinh tế và năng lực tạo ra dòng chảy của cải của hộ gia đình đó.
Trong điều kiện nền kinh tế luôn chịu sự tác động của rất nhiều biến số ảnh
hưởng bên ngoài khó kiểm soát dẫn đến xuất hiện các cú sốc bất lợi từ môi
trường như thiên tai, dịch bệnh, biến động của thị trường... làm cho hoạt động
sinh kế của gia đình bị ảnh hưởng tiêu cực. Mô hình sinh kế bền vững là công cụ
giúp cho người nghèo chống lại các cú sốc đó. Nó đảm bảo tạo ra được thu nhập
hoặc huy động từ các nguồn bù đắp khác để duy trì cuộc sống của gia đình trong
những khoảng thời gian gặp khó khăn.
c.Sinh kế bền vững giúp người nghèo khai thác tốt nhất các nguồn lực hiện
có để tạo ra thu nhập
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo, trong đó lý do quan trọng là thiếu
nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính, thiếu kiến thức, thiếu sự nỗ lực vươn
lên... Vì vậy, một mô hình sinh kế bền vững cho người nghèo cần phải tương
thích với các điều kiện cụ thể đó. Cùng với sự quan tâm của cộng đồng, của
chính phủ, các nguồn lực sinh kế của hộ gia đình có khả năng được cải thiện
theo thời gian. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất thường gặp phải của người DTTS là
thiếu kiến thức nên việc khắc phục nhược điểm này đòi hỏi rất lâu dài và khó
khăn. Do đó, một mô hình sinh kế tốt sẽ tạo ra khả năng giúp hộ nghèo thích
ứng tốt hơn với trình độ, năng lực thực tế của người chủ gia đình và các thành
viên. Nhờ đó, giúp cho họ làm chủ được sinh kế, phát huy được các nguồn lực
để đảm bảo nguồn sống ổn định cho gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, rất nhiều
mô hình sinh kế rất thành công ở các nơi, song khi áp dụng cho người nghèo thì
lại không thành công chính là vì không phát huy được vai trò này.
d.Giúp khai thác được các nguồn lực hỗ trợ của xã hội
Giải quyết vấn đề đói nghèo ở Việt Nam là trách nhiệm, là nghĩa vụ của cả
cộng đồng chứ không chỉ riêng của người nghèo. Tuy nhiên, việc huy động
13
nguồn lực của cộng đồng sẽ rất khó nếu họ không biết được nguồn lực mà họ
đóng góp sẽ được sử dụng vào việc gì? Việc sử dụng liệu có hiệu quả hay
không? Lúc này việc xây dựng được các mô hình sinh kế bền vững cho người
nghèo sẽ là minh chứng quan trọng cho tính hiệu quả mà những nỗ lực của cộng
đồng nên hướng đến. Vì vậy, việc xây dựng mô hình sinh kế bền vững có vai trò
trong việc định hướng và tập hợp các nguồn lực xã hội để thực hiện mục tiêu
xóa đói nghèo cho người dân.
e.Giúp Nhà nước hoạch định các chính sách hỗ trợ hợp lý
Nhà nước, với tư cách là người bảo trợ xã hội. Là người giữ trọng trách
quan trọng nhất trong sứ mệnh xóa đói giảm nghèo, trong sứ mệnh đảm bảo
công bằng xã hội với công cụ mạnh mẽ đó là chi ngân sách. Tuy nhiên, ngân
sách mặc dù to lớn nhưng không phải là vô đáy, hơn nữa nó là tiền của nhân dân
nên việc sử dụng nó phải được giám sát chặt chẽ. Mô hình sinh kế bền vững cho
người nghèo sẽ giúp Chính phủ thuận lợi trong việc triển khai các chính sách hỗ
trợ người nghèo có hiệu quả theo nguyên tắc “cung cấp cần câu, không cung cấp
cá” nhằm gắn trách nhiệm của người nghèo với sự nỗ lực của xã hội.
1.2.CẤU TRÚC CÁC MÔ HÌNH SINH KẾ BỀN VỮNG CỦA CÁC
HỘ GIA ĐÌNH NGHÈO
1.2.1. Cấu trúc sinh kế hộ nghèo theo cách tiếp cận của CARE
Từ năm 1994, CARE đã sử dụng hệ thống “Bảo đảm sinh kế hộ gia đình”
(Household Livelihood Security) như một khuôn khổ để phân tích, thiết kế, quản
lý và đánh giá chương trình.
Khái niệm “Bảo đảm sinh kế hộ gia đình” kế thừa khái niệm cổ điển về sinh
kế của Chambers và Conway (1992), bao gồm 03 đặc trưng cơ bản: (1) khả năng
của con người (như giáo dục, kỹ năng, sức khỏe, định hướng tâm lý), (2) khả
năng tiếp cận đến các tài sản hữu hình và vô hình, và (3) sự tồn tại của các hoạt
động kinh tế. Sự tác động qua lại giữa 03 đặc trưng này sẽ xác định chiến lược
sinh kế mà hộ gia đình sẽ theo đuổi.
CARE cũng đã đặc biệt nhấn mạnh đến việc tăng cường năng lực của người
nghèo nhằm thúc đẩy họ có thể thực hiện các sáng kiến và đảm bảo sinh kế của
riêng mình; và do đó nhấn mạnh đến việc trao quyền như là một khía cạnh cơ bản
trong cách tiếp cận sinh kế bền vững của CARE (xem Hình 1.1).
14
Nguồn lực
tự nhiên
Tài sản
Con người
(Khả năng
sinh kế)
Tài sản Xã
hội
(Nhu cầu và
Tiếp cận)
Nguồn vốn
kinh tế
(Dự trữ và
nguồn lực)
Đảm bảo:
- Lương thực
- Dinh dưỡng
- Sức khỏe
- Nước
- Nhà ở
- Giáo dục
Sự tham gia
của cộng đồng
Sự an toàn
của cá nhân
Cơ sở hạ
tầng
Môi trường
Kinh tế, văn
hóa và
chính trị
Các hoạt động
sx và thu nhập
Các hoạt động
tiêu dùng
Hộ gia
đình
Cú sốc &
căng thẳng
Các hoạt động chế
biến và trao đổi
BỐI CẢNH
CHIẾN LƯỢC SINH KẾ
ĐẦU RA SINH KẾ
Hình 1.1. Mô hình sinh kế bền vững của CARE
Nguồn: CARE
1.2.2. Cấu trúc sinh kế hộ nghèo theo cách tiếp cận của UNDP
Tiếp cận sinh kế bền vững của UNDP là một khung chương trình nhằm
đưa ra tập hợp các hoạt động được lồng ghép với nhau để cải thiện sự bền vững
của sinh kế cho nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương trong xã hội thông qua
việc tăng cường khả năng ứng phó, phục hồi và chiến lược thích ứng của họ
(xem Hình 1.2).
CON NGƯỜI
Các khả năng
sinh kế
Sinh kế
Các khả năng
sinh kế
CÁC TÀI SẢN HỮU HÌNH
Các khả năng
sinh kế
CÁC TÀI SẢN VÔ HÌNH
Hình 1.2. Cách tiếp cận sinh kế bền vững của UNDP
Nguồn: Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP)
15
Mặc dù nguyên tắc này nhấn mạnh đến việc ứng dụng các công nghệ cải
tiến cũng như tăng cường đầu tư cho kinh tế và xã hội. Các vấn đề về chính sách
và quản lý có ảnh hưởng đến sinh kế cũng phải được giải quyết. Các hoạt động
hỗ trợ khác nhau được tổ chức và thực hiện ở cấp quận, huyện, hệ thống các cơ
sở ở cấp cộng đồng và hộ gia đình.
1.2.3. Cấu trúc sinh kế hộ nghèo theo cách tiếp cận của DFID
Năm 1997, DFID đưa ra khái niệm sinh kế dựa trên việc phát triển khái niệm
sinh kế của IDS: Sinh kế bao gồm khả năng, tài sản (kể cả nguồn lực vật chất và
nguồn lực xã hội), và các hoạt động cần thiết cho cuộc sống. Một sinh kế được xem
là bền vững khi nó có thể đối phó và tự hồi phục trước những cú sốc hay khủng
hoảng và có khả năng duy trì hay tăng cường khả năng kinh tế và tài sản trong hiện
tại cũng như tương lai mà không làm suy giảm các nguồn lực tự nhiên.
Tài sản
sinh kế
Nhân lực
Xã hội
Tài nguyên
Vật chất
Bối cảnh gây tổn
thương
- Các cú sốc
- Tính thời vụ
- Xu hướng chính
Tài chính
Chính sách và
thể chế
Cơ cấu
- Nhà nước
- Tư nhân
Quá trình
- Luật pháp
- Chính sách
- Văn hóa
- Thể chế
Đầu ra sinh kế
- Tăng thu nhập
- Cải thiện phúc lợi
- Giảm tình trạng dễ
bị tổn thương
- Cải thiện an ninh
lương thực-thực
phẩm
- Sử dụng tài nguyên
bền vững
Chiến lược
sinh kế
Hình 1.3. Khung sinh kế bền vững của DFID
Nguồn: Bộ Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFID)
Cách tiếp cận sinh kế bền vững của DFID với mục đích nhằm tăng cường
tính hiệu quả của các tổ chức trong giảm nghèo theo 02 cách sau:
Thứ nhất, là thông qua cách lồng ghép, tập hợp các nguyên tắc cốt lõi nhằm
xác định hoạt động phát triển tập trung vào đối tượng nghèo nên được thực hiện
16
bằng cách lấy con người làm trung tâm, có sự tham gia và phản hồi liên quan đến
nhiều cấp, được tiến hành một cách hợp tác, bền vững và năng động.
Thứ hai, cần phải sử dụng quan điểm tổng thể trong việc đưa ra các chương
trình hành động hỗ trợ nhằm đảm bảo rằng những hoạt động này phù hợp với các
vấn đề hay các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến cải thiện sinh kế cho người nghèo.
Yếu tố trọng tâm trong cách tiếp cận sinh kế bền vững của DFID là khung
sinh kế bền vững - một cấu trúc phân tích tạo thuận lợi cho sự hiểu biết sâu rộng
và có hệ thống đối với các nhân tố khác nhau mà nó hạn chế hoặc thúc đẩy các cơ
hội sinh kế và chỉ ra mối quan hệ giữa các nhân tố này (xem Hình 1.3).
- Khả năng dễ bị tổn thương: Khung hoàn cảnh gây ra tình trạng dễ bị tổn
thương là sự thay đổi của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến sinh kế và các
tài sản sẵn có của người nghèo, bởi những xu hướng, sự thay đổi đột ngột hoặc
tính mùa vụ mà người nghèo có thể hạn chế được hoặc không thể nào kiểm soát
được (xem Bảng 1.1).
Bảng 1.1. Các yếu tố, hoàn cảnh gây ra tình trạng dễ bị tổn thương
Xu hướng
Dân số
Tài nguyên
Kinh tế
Kỹ thuật
Chính trị
Cú sốc
Tình trạng sức khỏe
Môi trường tự nhiên
Kinh tế
Xung đột
Thời vụ
Giá cả
Sản xuất
Chăm sóc y tế
Cơ hội việc làm
- Tài sản kế bao gồm: Vốn tài nguyên (đất đai, nguồn nước và thủy sản,
rừng và lâm sản, sự đa dạng sinh học); Vốn nhân lực (sức khỏe, dinh dưỡng,
kiến thức và kỹ năng, khả năng làm việc và khả năng thích ứng); Vốn tài chính
(tiết kiệm, tín dụng, tiền lương, tiền chuyển); Vốn vật chất (cơ sở hạ tầng, công
cụ, dụng cụ, công nghệ sản xuất); Vốn xã hội (hệ thống mạng lưới và quan hệ xã
hội, sự tin cậy, hỗ trợ và thấu hiểu lẫn nhau, các nhóm chính thức và phi chính
thức, các giá trị và hành vi được chia sẻ, các phong tục và qui tắc chung, cơ chế
tham gia vào quá trình quyết định).
- Chiến lược sinh kế: Các kế hoạch hoạt động, sản xuất - kinh doanh dài hạn
của cộng đồng để kiếm sống. Nó thể hiện sự đa dạng và kết hợp nhiều hoạt động
và lựa chọn mà con người tiến hành nhằm đạt được mục tiêu sinh kế của mình.
17
- Kết quả sinh kế: Là những thay đổi có lợi cho sinh kế của người dân,
cộng đồng, nhờ các chiến lược sinh kế mang lại, cụ thể là thu nhập cao hơn,
cuộc sống ổn định hơn, giảm rủi ro, đảm bảo tốt hơn an toàn thực phẩm, và sử
dụng bền vững hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
1.2.4. Khung sinh kế bền vững của IFAD
Trên cơ sở khung phân tích sinh kế bền vững được giới thiệu của DFID,
Quỹ phát triển nông nghiệp Liên hiệp quốc (IFAD: International Fund for
Agricultural Development) đã phát triển sơ đồ mới về phân tích sinh kế. Trong
quá trình phân tích, những người tham gia phát hiện ra rằng cách xây dựng
khung logic vô cùng quan trọng: bắt đầu bằng chính người nghèo và các nguồn
vốn sinh kế của họ là điều cần thiết khi họ tham gia vào việc phân tích lấy “con
người làm trung tâm”. Tuy nhiên, cách xây dựng khung sinh kế bền vững ban
đầu không đưa ra cách tiếp cận này. Bản thân người nghèo có xu hướng dễ bị
mất 05 nguồn sinh kế trong đời sống; mặt khác, khi nhìn vào khung phân tích,
người tham gia nhiều khi tập trung quá vào các tài sản và các yếu tố khác hơn là
bản thân những người nghèo. Do chưa đặt người nghèo làm trung tâm của
khung sinh kế, các yếu tố quan trọng trong sinh kế của họ, chẳng hạn như
nguyện vọng của họ; những cơ hội để họ nhận thức sự thay đổi…cũng là một
yếu tố tiềm ẩn quan trọng nhằm xác định các lĩnh vực để can thiệp và thay đổi.
Đó là một trong những vấn đề mà những người tham gia nhận thấy từ khung
sinh kế bền vững cũ. IFAD đã nỗ lực phát triển và kết hợp một số thay đổi so
với khung sinh kế bền vững của DFID, cụ thể như sau:
- Ít “tuần tự” hơn: Sự sắp xếp hàng ngang trong khung sinh kế bền vững
DFID tạo ra sự liên tiếp tuần tự và làm cho mối liên kết quan trọng giữa các yếu
tố trong khung sinh kế ít rõ ràng, khó thể hiện được tầm quan trọng cũng như
mức độ tác động khác nhau của các yếu tố. Bằng cách sắp xếp lại các yếu tố
trong khung phân tích, mối quan hệ giữa chúng trở nên rõ ràng hơn.
- Đặt người nghèo làm trung tâm: Mặc dù việc tiếp cận sinh kế bền vững
phần lớn được phát triển như là một công cụ để hỗ trợ cộng đồng đạt các mục
tiêu xóa nghèo đói thiên niên kỉ. Tuy nhiên sự thất bại của khung sinh kế này
được thừa nhận đó là nó nhấn mạnh đến nguồn lực hơn đến con người. Khung
sinh kế mới cố gắng giải quyết điều này bằng việc đặt người nghèo làm trung
tâm của sơ đồ và sắp xếp các yếu tố khác trong khuôn khổ mối quan hệ với họ.
18
- Nhấn mạnh yếu tố đời sống tinh thần trong sinh kế: Trong quá trình tiếp
xúc và nghiên cứu, người ta nhận thấy rằng các nguồn vốn sinh kế không chỉ là
những yếu tố nhìn thấy được mà còn chịu tác động nhiều bởi đời sống tinh thần
của người dân. Điều này mang tầm quan trọng thiết yếu và ảnh hưởng tới mong
muốn và hành động của họ như một thứ tài sản về “tôn giáo” hay “tinh thần”.
Các yếu tố như giới tính, tuổi tác, đẳng cấp, trình độ, dân tộc, tôn giáo được đặt
cạnh trung tâm là người nghèo như những yếu tố ảnh hưởng tới quan hệ của
người nghèo các yếu tố khác trong khung sinh kế.
- Kết hợp nguồn vốn cá nhân: Yếu tố “cá nhân” được bổ sung vào trong
các nguồn vốn sinh kế của khung sinh kế bền vững. Điều này cho thấy rằng đây
là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn sinh kế của cá nhân và gia
đình. Nó được thiết kế nhằm nhấn mạnh nội lực của người dân thúc đẩy đến
những hành động và sự thay đổi sinh kế.
- Các yếu tố như chính sách thể chế, văn hóa, thị trường: Các yếu tố
này được đặt như những yếu tố có tác động qua lại với yếu tố trung tâm là người
nghèo và các nguồn vốn sinh kế. Quy trình này phân biệt giữa “những người có
thẩm quyền”, “các nhà cung cấp dịch vụ” và “những người sử dụng”, xem xét
mối quan hệ nào tồn tại giữa các nhóm khác nhau và những yếu tố ảnh hưởng
nào đến những mối quan hệ đó nhằm giúp người tham gia đánh giá hiểu rõ
những phức tạp xung quanh các chính sách và các tổ chức và nhận ra những gì
mà họ đang cần. Mô hình này tập trung vào vai trò tổ chức, và các mối quan hệ
giữa các tổ chức khác nhau và người nghèo.
Trong mô hình này, nhân tố thị trường được đề cập đến vì tầm quan trọng
của nó trong việc chỉ ra cách thức mà người nghèo chuyển đổi các nguồn lực họ
định bỏ qua vào các tài sản sinh kế. Sự tham gia của các thể chế thị trường có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác định các cơ hội đối với chiến lược sinh
kế mà người nghèo tạo ra, mức độ mà họ có khả năng thực hiện.
Văn hóa cũng là một yếu tố được nhấn mạnh trong mô hình. Văn hóa bao
gồm một loạt các “quy tắc của trò chơi”, chuẩn mực xã hội và văn hóa có khả
năng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách người nghèo có thể tiếp xúc với các tổ chức
có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
19
Quyền để người nghèo được lựa chọn người đại diện là rất quan trọng, nó
được thực hiện tùy thuộc môi trường thể chế gắn với một cấu trúc chính trị và xã
hội của một quốc gia cụ thể.
Tất cả các ảnh hưởng này có thể gây khó khăn cho bản thân người nghèo
để thực hiện các hoạt động, nhưng chúng không phải là bất biến và cần phải
được phân biệt với những yếu tố đại diện cho bối cảnh “dễ bị tổn thương”, đó là
khó khăn hoặc là không thể để thay đổi và phải được “đối phó” để thay thế.
Khung phân tích sinh kế bền vững mới được IFAD đưa ra với đầy đủ các
yếu tố hơn và thể hiện chặt chẽ hơn mối quan hệ của các yếu tố trong đó lấy
người nghèo làm trung tâm.
Hạn chế của IFAD đó là cách tiếp cận này định hướng thực hành, nó
hướng vào nhận thức và thay đổi hành vi của hộ nghèo, song rất khó để có thể
đo lường, lượng hóa được các yếu tố liên quan đến quy tắc, chuẩn mực vốn có
tính chất ước định rất cao, khó áp dụng để nghiên cứu khoa học.
Vì vậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm của các cách tiếp
cận về sinh kế khác nhau, trong nghiên cứu này tác giả lựa chọn khung phân tích
của DFID có điều chỉnh một số nội dung theo IFAD như bổ sung vào khung
phân tích các yếu tố: tinh thần, văn hóa, chính sách thể chế, thị trường… cho
phù hợp với đặc điểm nghiên cứu của đề tài khoa học. Để khắc phục hạn chế của
khung logic trong cách tiếp cận của DFID, khi xây dựng khung phân tích và
triển khai các mô hình sinh kế trong nghiên cứu, tác giả đã tiến hành khảo sát ý
kiến của người dân và cũng đã xây dựng quy trình thực hiện dựa vào cộng đồng.
1.3.CÁC YẾU TỔ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔ HÌNH SINH KẾ CỦA
HỘ GIA ĐÌNH ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.3.1. Khả năng nhận thức và kiểm soát sự thay đổi của môi trường
sinh kế
Môi trường sinh kế có vai trò quan trọng vì nó tác động trực tiếp lên tài
sản và những lựa chọn của người dân trong việc mưu cầu về lợi ích đầu ra của
sinh kế. Cụ thể:
Những cú sốc từ môi trường có thể phá hủy tài sản một cách trực tiếp, nó
còn có thể buộc mọi người phải từ bỏ tài sản và cả nơi sinh sống của mình. Ví
dụ như người dân bị chính quyền thu hồi đất để xây dựng các đập thủy điện, để
20
xây dựng các khu cụm công nghiệp, để phát triển đô thị và nhiều lý do khác.
Ngoài ra, nó cũng có thể là do các nguyên nhân khác như nạn lở đất, sụt lún
đất… dẫn đến việc người dân không thể sinh sống ở nơi cũ. Những tác động trên
đã tạo ra các cú sốc khiến gia đình họ phải di dời đi nơi khác, nhà cửa bị phá
hủy, đất đai bị thu hồi, sinh kế bị đảo lộn.
Những dự đoán của con người về trạng thái tương lai của môi trường sống
có ảnh hưởng đặc biệt đến việc lựa chọn chiến lược sinh kế của người dân. Đối
với người dân nghèo, tương lai môi trường sống thường bị tác động của rất
nhiều yếu tố không kiểm soát được nên việc lựa chọn chiến lược sinh kế đúng
đắn không phải là chuyện dễ dàng.
Vấn đề biến động về giá cả, cơ hội việc làm và nguồn lương thực, thực
phẩm theo mùa vụ là một trong những nguyên nhân có ảnh hưởng lớn đến khả
năng sinh kế của người dân, đặc biệt là dân nghèo.
Chính vì vậy, việc tăng cường khả năng nhận thức và kiểm soát sự thay
đổi của môi trường sinh kế của người dân sẽ góp phần không nhỏ trong việc
đảm bảo được nguồn tài sản cũng như giảm bớt sự bấp bênh trong mô hình sinh
kế của họ.
1.3.2. Khả năng các nguồn lực và cơ hội tiếp cận thành công các nguồn
lực sinh kế
Nguồn lực sinh kế là hạt nhân của mọi mô hình sinh kế, là điều kiện tiên
quyết trong việc tạo ra của cải, thu nhập để đảm bảo cuộc sống cho người dân.
Quy mô hiện có các nguồn lực của hộ gia đình là sự đảm bảo quan trọng cho các
hoạt động sinh kế của họ. Bên cạnh đó, việc tiếp cận được các nguồn lực sinh kế
chung của xã hội như: đất đai, tiền vốn, tài nguyên rừng, tài nguyên biển… của
người nghèo là rất cần thiết trong quá trình giải quyết sinh kế bền vững. Trong
quá trình hoạt động sinh kế, các nguồn lực sinh kế có tác động qua lại với các
nhân tố còn lại trong mô hình sinh kế. Cụ thể:
- Trong bối cảnh tổn thương, nguồn lực sinh kế có thể bị phá hủy hoặc
được tạo ra bởi những xu hướng, những cú sốc hoặc tính thời vụ.
- Đối với thể chế và chính sách có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng tiếp
cận các nguồn vốn sinh kế của người dân như: tạo ra nguồn vốn (chính phủ đầu
tư cơ sở hạ tầng); khả năng tiếp cận nguồn vốn (các chính sách cho phép hoặc
21
hạn chế sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên); ảnh hưởng đến tỷ lệ tích lũy
tài sản của người dân (thuế, tỷ lệ lãi suất…).
- Đối với chiến lược sinh kế, những người có nguồn vốn lớn thì có nhiều
cơ hội lựa chọn những chiến lược sinh kế phù hợp nhất nhằm đạt được kết quả
sinh kế đã đề ra và ngược lại.
- Đối với kết quả sinh kế: đối với người dân ở từng khu vực với những
mục tiêu sinh kế khác nhau thì cần những nguồn vốn khác nhau.
Sinh kế của con người phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng của những
nguồn vốn mà họ có hoặc có thể tiếp cận. Sự thành công của các chiến lược và
hoạt động sinh kế tùy thuộc vào mức độ hợp lý mà con người có thể kết hợp
cũng như quản lý những nguồn lực mà họ có.
1.3.3. Chiến lược sinh kế đúng đắn và hợp lý
Chiến lược sinh kế là khái niệm dùng để chỉ cách thức mà người dân sử
dụng các nguồn lực sinh kế của họ vào sản xuất, dưới tác động của các yếu tố
nội tại (chính sách và dịch vụ hỗ trợ), và tác động của yếu tố bên ngoài (nguy cơ
đe dọa từ môi trường) nơi họ sinh sống. Một chiến lược sinh kế đúng đắn và hợp
lý sẽ giúp các hộ dân phát huy một cách tốt nhất các tác động tích cực của yếu tố
nội tại và yếu tố bên ngoài đến hoạt động sinh kế của mình trên cơ sở các nguồn
lực mà họ có. Điều quan trọng nhất khi xác định chiến lược sinh kế hiệu quả đó
là làm sao cho để các hộ gia đình phát huy được cao nhất những lợi thế có thể có
về nguồn lực nội tại để nắm bắt các cơ hội và hạn chế tối đa các rủi ro, bất lợi.
Tuy nhiên, trong thực tế do sự yếu kém về năng lực, sự hạn chế về tài nguyên
nên các hộ gia đình nghèo thường khó có thể đưa ra được chiến lược sinh kế hợp
lý nều không có sự hỗ trợ từ bên ngoài.
1.3.4. Hệ thống các chính sách, thể chế của Nhà nước
Chính sách và thể chế không những tạo ra cơ hội nhằm giúp cho mỗi
người dân và cả cộng đồng thực hiện các mục tiêu đã xác định để nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống trong sinh kế mà còn là cơ hội, là cứu cánh cho người
dân và cộng đồng giảm thiểu được các tổn thương và sử dụng hợp lý bền vững
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, nếu chỉ có chính sách và thể chế thì chưa thể có một sinh kế
bền vững mà điều kiện quan trọng là khả năng chuyển tải của các chính sách,
thể chế này đến người dân, và khả năng tiếp cận các cơ hội đó của người dân. Vì
22
vậy, cần khuyến khích, vận động được người dân tích cực tham gia vào mọi quá
trình phát triển, đồng thời huy động sự tích cực tham gia của nhiều bên có liên
quan từ chính quyền các cấp, các tổ chức, các đoàn thể xã hội...
1.3.5. Sự nỗ lực vươn lên của bản thân hộ gia đình
Khi có những biến động xảy ra phải thay đổi chỗ ở cũng như điều kiện sản
xuất thì cũng có nghĩa là có một biến động to lớn đến hoạt động sinh kế của hộ
dân cũng như của cộng đồng bị ảnh hưởng. Việc xáo trộn sẽ làm thay đổi môi
trường sống, tác động mạnh mẽ đến lối sống, điều kiện sản xuất, sinh hoạt và các
nguồn lực, tài sản khác của hộ gia đình và cộng đồng. Do đó, để tồn tại, người
dân cũng như cộng đồng đó sẽ phải có những nỗ lực để duy trì những hoạt động
sinh kế cũ cũng như cố gắng tiếp nhận những cách thức hoạt động sinh kế mới
phù hợp với nơi ở mới, đó là những hoạt động khôi phục sinh kế. Để khôi phục
sinh kế, bản thân hộ gia đình phải đặt ra chiến lược sinh kế riêng cho mình phù
hợp với chiến lược sinh kế chung của cả cộng đồng đã bị ảnh hưởng.
Tất cả những yếu tố trên đều nhằm đạt được mục tiêu sinh kế, đảm bảo đời
sống của cá nhân cũng như của cả hộ gia đình và cao hơn là của cả cộng đồng.
Và mọi nỗ lực cố gắng đều phải có yếu tố con người và sự nỗ lực vươn lên của
chính bản thân những hộ gia đình bị biến động. Do đó có thể khẳng định một
điều rằng, sự nỗ lực vươn lên của con người luôn là yếu tố then chốt để góp
phần cho sự thành công của bất kỳ mô hình sinh kế nào.
1.3.6. Các nhân tố ngoại sinh khác
Trên thực tế, sự thành công của mô hình sinh kế còn phụ thuộc vào một
vài yếu tố khác, đó là những yếu tố ngoại sinh như:
- Sự chủ quan của con người tham gia vào quá trình phân tích mô hình sinh
kế. Vì việc lựa chọn và quyết định mô hình sinh kế thuộc về thẩm quyền quyết
định của chủ gia đình, song việc quyết định này thường hàm chứa rất nhiều yếu tố
chủ quan. Đặc biệt là các hộ nghèo, khi mà trình độ nhận thức, khả năng nắm bắt
thời cơ, khả năng về nguồn lực sinh kế yếu kém nên việc quyết định của họ thường
hàm chứa rủi ro, bất định cao.
- Độ trễ của các chính sách trước những biến động của môi trường bên
ngoài. Việc cải thiện sinh kế cho hộ nghèo phụ thuộc rất lớn vào các chính sách
và giải pháp hỗ trợ của chính phủ. Tuy nhiên, một chính sách hỗ trợ có thể rất
tốt song không có nghĩa là khi áp dụng nó sẽ phát huy tác dụng ngay. Nhiều
23
trường hợp việc phát huy tác dụng chỉ có thể thấy rõ trong thời gian dài, mà
người ta thường gọi nó là “độ trễ chính sách”. Sự nóng vội trong việc điều chỉnh
chính sách trong khi chưa đánh giá hết tác động của độ trễ đầu tư sẽ làm cho
hiệu quả hỗ trợ giảm sút, ảnh hưởng đến việc cải thiện sinh kế cho người nghèo.
- Sự phối hợp hỗ trợ giữa các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội với chính
bản thân những hộ nghèo. Hộ nghèo thường có hoàn cảnh đặc biệt, năng lực
nhận thức không cao, nguồn lực hạn chế, khả năng kiểm soát sự thay đổi kém…
Vì vậy, để cải thiện hoạt động sinh kế cho họ, thường phải có sự tham gia hỗ trợ
của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội ngay tại địa phương họ sinh sống. Tuy
nhiên để việc hỗ trợ giúp đỡ này hiệu quả, trước hết cần phải có sự phối hợp tốt
giữa các tổ chức này với hộ gia đình. Trong đó tiếng nói của hộ gia đình phải
được tôn trọng, phải nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm của gia đình, khả năng và
mong muốn của họ để có hoạt động hỗ trợ phù hợp, tránh gượng ép, râp khuôn.
1.4. VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG VIỆC TẠO ĐIỀU KIỆN
CẢI THIỆN MÔ HÌNH SINH KẾ CHO NGƯỜI NGHÈO
1.4.1.Vai trò kết nối người nghèo với xã hội
Người nghèo thường bị hạn chế về năng lực, về tài chính và đặc biệt là
thiếu tự tin khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là các mối quan hệ
kinh tế với các chương trình, dự án của chính phủ mà ở đó có khả năng cải thiện
lực nguồn sinh kế cho gia đình họ. Lúc này, chính mối quan hệ cộng đồng
(người dân trong khu vực, các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức tôn giáo…)
được hình thành một cách tích cực, có trách nhiệm và thân thiện sẽ đóng vai trò
là cầu nối giúp người nghèo kết nối thành công với các nguồn lực đó. Trong
thực tế, vì không nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng nên nhiều người nghèo đã
phải dựa vào một số thế lực khác như “cò” hoặc các “đầu nậu”, thậm chí là các
băng đảng “xã hội đen” cho vay nặng lãi khi cần tiếp cận với nguồn lực tài
chính, việc làm hoặc tiêu thụ nông sản… Qua đó, họ tự biến thành người lệ
thuộc, bị lợi dụng và bóc lột bởi các thế lực trên khiến cho việc xóa đói giảm
nghèo càng trở nên khó khăn.
Ngoài ra, chính vai trò tích cực của cộng đồng sẽ giúp người nghèo có đủ
sự tự tin để hội nhập tốt hơn với các hoạt động khác của xã hội; giúp họ tự tin có
24
tiếng nói khi tham gia bàn thảo về các chính sách, chương trình mà chính phủ
triển khai để hỗ trợ họ.
Tuy nhiên, để làm được việc này tại các khu vực khó khăn khi trình độ văn
minh chưa cao không phải là việc dễ dàng, nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn
của các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể xã hội và quyết tâm
rất lớn của cộng đồng.
1.4.2. Vai trò giám sát thực thi các chính sách xã hội
Các nguồn lực xã hội dánh cho các hoạt động giảm nghèo thường rất lớn,
nhưng làm sao để đạt được hiệu quả là điều đáng quan tâm. Kinh nghiệm trên
thế giới cho thấy, các cơ quan cứu trợ xã hội của chính phủ hoặc các tổ chức
tương tự thường hoạt động kém hiệu quả. Sự lãng phí, việc sử dụng các nguồn
lực giảm nghèo không đúng đối tượng, tình trạng tham ô, tham nhũng, thiếu
trách nhiệm… diễn ra rất phổ biến. Song người nghèo, với năng lực hạn chế của
mình, họ khó có thể biết và kiểm soát được vấn đề này. Lúc này vai trò giám sát
của cộng đồng xã hội là quan trọng. Cộng đồng xã hội cần được tham gia vào
công tác hoạch định, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát việc thực thi các
chính sách, các chương trình, dự án liên quan đến người nghèo. Phát huy vai trò
giám sát cộng đồng, giao phó trọng trách thực thi các dự án, chương trình xóa
đói giảm nghèo cho cộng đồng người dân địa phương là ưu tiên quan trọng trong
việc cải tiến phương thức thực thi chính sách xóa đói giảm nghèo trong điều
kiện hiện nay.
Vấn đề quan trọng đó là phát huy vai trò tham gia đóng góp ý kiến, vai trò
phản biện và giám sát của người dân thông qua cơ chế phát huy dân chủ tại cơ
sở một cách hữu hiệu. Tránh trường hợp thay vì giao cho các cơ quan quản lý
nhà nước cấp trên, lại giao cho cơ quan quản lý nhà nước địa phương thực hiện
mà không đi kèm với hệ thống giám sát cộng đồng thì các hạn chế, nhược điểm
có thể không được khắc phục mà còn trầm trọng thêm.
1.4.3. Vai trò bổ sung nguồn lực
Ngân sách nhà nước là có giới hạn, nhà nước còn phải đảm bảo ngân sách
cho rất nhiều hoạt động quan trọng khác để đảm bảo các mục tiêu phát triển đất
nước, giữ gìn an ninh quốc gia. Trong khi đó, chi phí cho hoạt động xóa đói
giảm nghèo là rất đắt đỏ vì “chi phí cận biên” thường rất cao do người nghèo
chủ yếu tập trung ở những khu vực khó khăn và bản thân họ bị hạn chế về nguồn
25
lực. Mặt khác, do nước ta thường xuyên gánh chịu thiên tai bão lũ, nền kinh tế
lại chưa phát triển bền vững, thường xảy ra các biến động bất lợi cho người dân
khiến cho việc đảm bảo sinh kế ổn định cho người dân càng khó khăn, tình trạng
tái nghèo diễn ra rất phổ biến. Trong Báo cáo trước Ban chỉ đạo Trung ương về
giảm nghèo bền vững, Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị
Hải Chuyền cho hay: “Bình quân cứ 3 hộ thoát nghèo thì có một hộ tái nghèo,
phát sinh nghèo”[2]. Để đảm bảo duy trì các nguồn hỗ trợ lâu dài nhằm giảm áp
lực cho ngân sách chính phủ, việc lôi kéo cộng đồng tham gia vào các hoạt động
này nhằm thu hút các nguồn lực to lớn của toàn xã hội để cùng chung tay trong
sự nghiệp xóa đói giảm nghèo là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, do các nguồn lực
này thường không thường xuyên nên nó chỉ đóng vai trò là nguồn lực bổ sung.
Điều quan trọng là cần phải có cơ chế, giải pháp phù hợp để khai thác, quản lý
và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này, tránh tình trạng chạy theo phong trào.
1.4.4. Vai trò cứu cánh
Nghèo đói và tổn thương bởi rủi ro thường có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Người nghèo thường yếu thế nên rất dễ bị tổn thương bởi các biến cố bất
ngờ như thiên tai bão lũ, hạn hán mất mùa hoặc đau ốm, hoạn nạn…khiến cho
tình trạng đói nghèo càng trở nên trầm trọng. Thậm chí ngay cả các hộ gia đình
đã thoát nghèo, cận nghèo cũng khó chống đỡ với các “cú sốc” này và dễ dàng
đưa họ quay lại với nghèo đói. Lúc này, các quỹ cứu trợ xã hội cần phải phát
huy tác dụng tức thời trước khi những nỗ lực của nhà nước được thực thi. Chính
mối quan hệ cộng đồng, trách nhiệm cộng đồng sẽ giúp giải quyết hiệu quả vấn
đề này. Nhường cơm xẻ áo, là lành đùm lá rách là đạo lý truyền thống tốt đẹp
của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, việc xác lập môi trường mà trong đó lôi kéo
được cộng đồng xã hội tích cực tham gia vào hoạt động cứu trợ xã hội sẽ là công
cụ hữu hiệu để thực hiện vai trò “cứu cánh” trong việc hỗ trợ cho người nghèo,
giúp khắc phục tức thời các tổn thương dó các cú sốc gây ra.
Tất nhiên, vai trò này chỉ có tác dụng nhất thời, ngắn hạn vì khả năng
nguồn lực tại chỗ của cộng đồng có hạn do đa phần người dân tại các khu vực có
tỷ lệ hộ nghèo cao cũng khó khăn.
1.4.5. Vai trò tấm gương
[
2]
Nguyễn Hưng “Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng không vững chắc”, />
ho-ngheo-giam-nhung-khong-vung-chac-2954207.html, Ngày 20/2/2014