Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Nghiên cứu thành phần loài và phân bố của nhện (araneae) hoạt động trên mặt đất tại vườn quốc gia phong nha – kẻ bàng, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 52 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
------------------------------

CHU THỊ HOA

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI
VÀ PHÂN BỐ CỦA NHỆN (ARANEAE) HOẠT ĐỘNG
TRÊN MẶT ĐẤT TẠI VƢỜN QUỐC GIA
PHONG NHA - KẺ BÀNG, TỈNH QUẢNG BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. PHẠM ĐÌNH SẮC

HÀ NỘI, 2016


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập tại trường cho đến khi hoàn thành khóa luận
này em đã nhận được sự giúp đỡ từ các thầy cô, bạn bè và gia đình rất nhiều.
Để có được kết quả như hôm nay, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
TS. Phạm Đình Sắc công tác tại phòng Sinh thái môi trường đất –
Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật đã dành nhiều thời gian để hướng dẫn
tận tình, cung cấp nhiều tài liệu, kiến thức quý báu, kinh nghiệm, phương
pháp cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành khóa luận tốt


nghiệp này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong khoa Sinh KTNN - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã chỉ bảo, giúp đỡ em trong
suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban Lãnh Đạo Viện Sinh thái và tài nguyên
sinh vật, các anh chị Phòng Sinh thái môi trường đất đã tạo điều kiện và giúp
đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn ở bên
động viên, chia sẻ những khó khăn giúp em yên tâm hoàn thành và đạt được
kết quả trong quá trình học tập của mình.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, do điều kiện hạn hẹp về thời gian và
do sự hạn chế về kiến thức của bản thân nên em không tránh khỏi những thiếu
sót khi hoàn thành bài khóa luận. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của thầy cô giáo và các bạn để Đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 04 năm 2016
Sinh viên thực hiện

CHU THỊ HOA

Chu Thị Hoa

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi

dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Phạm Đình Sắc.
Các mẫu nghiên cứu được lấy tại Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng
và được chúng tôi phân tích đúng phương pháp như trong khóa luận đã đưa
ra. Mọi số liệu và kết quả trong nghiên cứu khóa luận này là hoàn toàn chính
xác, trung thực. Các thông tin được trích dẫn trong khóa luận là hoàn toàn
chính xác, nó được lấy ra từ các tài liệu có nguồn gốc. Tôi xin chịu trách
nhiệm nếu có sai sót.
Hà Nội, tháng 05 năm 2016
Sinh viên

CHU THỊ HOA

Chu Thị Hoa

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục tiêu và ý nghĩa của đề tài .................................................................. 2
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ 4
1.1. Tình hình nghiên cứu nhện (Araneae) trên thế giới .............................. 4
1.2. Tình hình nghiên cứu nhện (Araneae) ở Việt Nam .............................. 6
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƢƠNG

PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 9
2.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 9
2.1.1. Giới thiệu về nhện ........................................................................... 9
2.1.2. Đặc điểm hình thái học của nhện ................................................. 10
2.1.3. Một số đặc điểm sinh thái, sinh học của nhện .............................. 11
2.2. Thời gian nghiên cứu ........................................................................... 15
2.3. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................ 15
2.4. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 19
2.5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 20
2.5.1. Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa........................................... 20
2.5.2. Phương pháp xử lý và lưu trữ mẫu ............................................... 21
2.5.3. Xử lí và phân tích số liệu............................................................... 21
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................... 23
3.1. Thành phần loài của nhóm nhện hoạt động trên mặt đất ở khu vực
VQG Phong Nha - Kẻ Bàng ....................................................................... 23
3.1.1. Danh sách thành phần loài ........................................................... 23
3.1.2. Sự đa dạng thành phần loài nhện ở VQG Phong Nha - Kẻ
Bàng ........................................................................................................ 25

Chu Thị Hoa

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

3.2. Sự phân bố của nhện theo sinh cảnh ở khu vực VQG Phong Nha
- Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình........................................................................ 26

3.3. Sự phân bố của nhện hoạt động trên mặt đất theo mùa ở khu vực
VQG Phong Nha Kẻ Bàng – Tỉnh Quảng Bình ......................................... 32
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 37
PHỤ LỤC

Chu Thị Hoa

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

DANH MỤC KÍ HIỆU,VIẾT TẮT

STT

Chu Thị Hoa

Kí hiệu

Viết tắt

1

ĐVKXS

Động vật không xương sống


2

VQG

Vườn quốc gia

3

CS

Cộng sự

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG
Trang

Bảng 3.1. Thành phần và số lượng cá thể các loài nhện hoạt động trên
mặt đất thu được tại khu vực VQG Phong Nha Kẻ Bàng, tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................... 23
Bảng 3.2. Phân bố của các loài nhện hoạt động trên mặt đất theo sinh
cảnh ở khu vực VQG Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình. .... 26
Bảng 3.3. Số lượng loài của các họ nhện thu được tại 3 sinh cảnh nghiên
cứu ................................................................................................... 30
Bảng 3.4 Phân bố của nhện theo mùa ở khu vực VQG Phong Nha Kẻ

Bàng, tỉnh Quảng Bình ................................................................... 32

Chu Thị Hoa

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC HÌNH
Trang

Hình 1.1. Hình thái bên ngoài của nhện (mặt lưng)........................................ 10
Hình 2.1. Phương pháp bẫy hố ........................................................................ 20
Hình 3.1. Số giống và số loài của các họ nhện thu được ở trên mặt đất tại
VQG Phong Nha - Kẻ Bàng ........................................................... 26
Hình 3.2. Tỉ lệ % số lượng cá thể nhện thu được ở 3 sinh cảnh .................... 29
Hình 3.3. Số loài nhện thu được ở 3 sinh cảnh tại VQG Phong Nha - Kẻ
Bàng. ............................................................................................... 31
Hình 3.4. Tỉ lệ (%) số lượng cá thể thu được theo mùa. ................................ 34

Chu Thị Hoa

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nhện (Araneae) là một trong những nhóm động vật chân khớp cổ có
tính đa dạng sinh học cao, đã được ghi nhận xuất hiện trên Trái Đất cách đây
khoảng 400 triệu năm. Nhện phân bố rộng khắp và chiếm ưu thế về số lượng
loài cũng như số lượng cá thể trong 11 bộ của lớp hình nhện. Nhện không chỉ
đa dạng về số lượng thành phần loài mà nơi cư trú cũng rất phong phú, chúng
được tìm thấy ở mọi nơi, như trong nhà, trong rừng, vườn cây, công viên, bụi
cây, hang động, sa mạc,...
Nhện còn được coi như sinh vật chỉ thị tốt để so sánh đặc điểm sinh
thái của các khu hệ có điều kiện môi trường khác nhau và đánh giá ảnh hưởng
của môi trường lên hệ sinh thái. Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
Clause, 1986 [16], Foelix, 1996 [15].
Các loài Nhện lớn góp phần tích cực vào việc hạn chế sự phát triển của
côn trùng gây hại trên các cây trồng nông nghiệp. Con mồi của nhện là nhiều
loài côn trùng và sâu hại như rệp, rầy các loại, ruồi đục quả, bọ nhảy, châu
chấu ăn lá, sâu non và trưởng thành các loài thuộc bộ Cánh vảy,... (Song, và
Zhu, Chen, 1999) [30]
Bộ nhện (Araneae, Arachnida) được xếp vào trong nhóm động vật có
sự biến động mật độ cao và độ đa dạng đứng thứ bảy thế giới (Barrion and
Litsinger, 1995) [12]. Các nghiên cứu hệ ĐVKXS nói chung và nhện nói
riêng ở các khu bảo tồn, VQG đang ngày trở nên quan trọng dù chỉ mới phát
triển bước đầu và tiến hành ở mức kiểm kê. Những khảo sát khu hệ nhện Việt
Nam của nhiều tác giả trong nước và ngoài nước còn khá hạn chế và chủ yếu
tập trung vào liệt kê danh sách thành phần loài, công bố loài mới (Phạm Đình
Sắc, 2005) [5]. Các nghiên cứu này mới chỉ tập trung trên một số cây trồng

Chu Thị Hoa


1

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

nông nghiệp như lúa, đậu tương, nhãn, vải. Trong danh sách 275 loài đã được
ghi nhận ở Việt Nam hiện nay, có 68 loài mới cho khoa học.
Nghiên cứu về nhện ở khu vực vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng
còn ít đặc biệt là nhóm nhện hoạt động trên mặt đất. Việc nghiên cứu đa dạng
sinh vật nói chung và đa dạng thành phần loài nhện nói riêng ở nhiều sinh
cảnh khác nhau có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chất lượng môi
trường tại các vùng nghiên cứu. Nghiên cứu của tôi nhằm đưa ra những dẫn
liệu mới về đa dạng thành phần loài và đặc điểm phân bố của chúng trong các
sinh cảnh đặc thù của khu vực Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, góp
phần khôi phục, bảo vệ tính đa dạng sinh học, sự cân bằng trong các hệ sinh
thái và bảo vệ môi trường ở khu vực nghiên cứu nói riêng và ở Việt Nam nói
chung. Vì vậy tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu thành phần loài và phân bố
của Nhện (Araneae) hoạt động trên mặt đất tại Vườn quốc gia Phong Nha
– Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình”.
2. Mục tiêu và ý nghĩa của đề tài
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định thành phần loài và đặc điểm phân bố của nhóm nhện hoạt
động trên mặt đất ở khu vực nghiên cứu.
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
a. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu đưa ra những dẫn liệu mới về đa dạng thành phần loài và

đặc điểm phân bố của nhóm nhện hoạt động trên mặt đất ở một số sinh cảnh
điển hình của khu vực Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng.
b. Ý nghĩa thực tiễn

Các kết quả thu được của đề tài làm cơ sở góp phần bảo vệ tính đa dạng
sinh học, sự cân bằng trong các hệ sinh thái ở khu vực nghiên cứu nói riêng
và ở Việt Nam nói chung.

Chu Thị Hoa

2

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2.3. Điểm mới của đề tài
Cho đến nay có rất ít các nghiên cứu về thành phần loài nhện ở Vườn
quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng. Đề tài này lần đầu tiên nghiên cứu về nhóm
nhện hoạt động trên mặt đất của khu vực nghiên cứu. Đề tài sẽ khám phá,
phát hiện các ghi nhận mới về nhóm nhện cho khu vực nghiên cứu nói riêng
và Việt Nam nói chung.

Chu Thị Hoa

3


K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu nhện (Araneae) trên thế giới
Nhện được bắt đầu nghiên cứu và đặt tên từ năm 1757, tác giả Ovid đã
đưa ra tên của bộ nhện là Araneae, Clerek cũng đã đưa ra tên của bộ nhện là
Aranei. Đến năm 1801, Latreille đặt tên bộ nhện là Araneida. Năm 1862,
Dalllas cũng nêu ra tên của bộ nhện là Araneida. Năm 1938, Bristowe đưa ra
tên của bộ nhện là Araneae và tên này được sử dụng tới ngày nay (Platnick,
2012) [25].
Nhận thức rõ tầm quan trọng của các loài nhện trong khoa học cũng
như trong thực tiễn đời sống, năm 1965 một tổ chức với tên gọi là Hội nhện
Quốc tế (International Society of Arachnology) đã được thành lập, cho tới nay
đã có hàng nghìn thành viên từ trên 70 quốc gia khác nhau trên thế giới. Với
sự phát triển không ngừng của các công trình nghiên cứu về nhện, môn khoa
học mới đã được ra đời là Arachnology - Nhện học từ sau hội nghị nhện quốc
tế lần thứ XV năm 2001.
Được bắt đầu nghiên cứu từ cuối thế kỷ 18 (theo tác giả Barrion &
Litsinger, 1995) [12] nhưng thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 mới là giai đoạn có
hàng loạt các nghiên cứu chi tiết cũng như các công trình công bố loài mới ngày
càng nhiều, được đánh giá là thời kỳ hoàng kim của phân loại học về nhện.
Dofour – tác giả người Pháp, được cho là người đầu tiên sử dụng các
hình vẽ chi tiết về hình thái học của nhện để mô tả so sánh, ghi nhận loài mới
với 12 bài báo có giá trị công bố loài mới từ năm 1820 đến 1831.
Blackwall, một trong những cha đẻ của ngành nhện học, có nhiều công

trình quan trọng đến họ Araneidae, một họ lớn của bộ nhện có nhiều đại diện
ở vùng nhiệt đới. Đặc biệt vào năm 1841, ông là người đầu tiên đề nghị sử
dụng mắt nhện để định loại đến loài, đặc điểm phân loại mà những nhà khoa
học trước đó chưa có ai đề cập đến.

Chu Thị Hoa

4

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Trên thế giới hiện nay đã ghi nhận được 44.906 loài thuộc 3.935 giống
của 114 họ nhện (Platnick, 2014) [24].
Ở khu vực Đông và Đông Nam Á, từ năm 1841, Walokenaer đã mô tả
chi tiết 22 loài nhện chăng lưới thuộc 2 giống: Epeira (11 loài) và Plectanna
(11 loài) của 2 họ Araneidae và Tetragnathidae ở Philippine trong 2 quyển
của bộ “HistorieNaturelle des Insects Aptères”. Tiếp theo đó các công trình
nghiên cứu khu hệ nhện ở các quốc gia khác: Nhật Bản (Karsch 1897, Kishida
1913-1914); Malaysia (Pocock 1892, Thorell 1890s).
Trong những năm gần đây, số lượng các loài nhện được ghi nhận ở khu
vực này gia tăng. Murphy & Murphy đã đưa ra danh sách các loài nhện đã ghi
nhận được tại các nước khu vực Đông Nam châu Á, sắp xếp theo thứ tự số
lượng loài đã ghi nhận được từ cao đến thấp là: Indonesia (660 loài), Malaysia
(463 loài), Myanma (455 loài), Philipine (426 loài), Singapo (308 loài), Việt
Nam (230 loài), Thái Lan (156 loài) (Murphy & Murphy, 2000) [18].

Hai tác giả Y. Norma - Rashid và Daiqin Li đã tổng hợp 3 danh sách thành
phần loài nhện (gồm danh sách của Murphy & Murphy 2000[20], Platnick
2006 and Song et. al.2002) và đưa ra danh sách chỉ còn 425 loài thuộc 42
họ và 238 giống được ghi nhận ở bán đảo Malaysia (Y. Norma-Rashid và
Daiqin Li, 2009) [31].
Ở Trung Quốc, nghiên cứu về nhện bắt đầu từ năm 1798. Năm 1999,
Song và Zhu đưa ra danh sách 2361 loài thuộc 450 giống của 56 họ nhện đã
ghi nhận được ở nước này (Song và Zhu,1999) [30]. Cho đến nay, Trung
Quốc đã xuất bản được 5 tập sách Động vật chí của 6 họ nhện bao gồm các họ
Araneidae (năm 1997 với 286 loài, 33 giống), họ Thomicidae (năm 1997 với
115 loài, 29 giống), họ Tetragnathidae (năm 2003 với 111 loài, 20 giống), họ
Therididae (năm 1998 với 223 loài, 27 giống), họ Gnaphosidae (năm 2004 với
166 loài, 34 giống), họ Philodromidae (năm 1997 với 30 loài, 3 giống) (Song

Chu Thị Hoa

5

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

et al, 1999). Nghiên cứu nhện ở các trang trại trồng cây ăn quả ở Trung Quốc,
Chen và Gao (1990) [ 13] đã ghi nhận được 332 loài nhện.
Trong số các loài nhện đã ghi nhận được trên thế giới hiện nay, có 15
loài được ghi vào sách đỏ của IUCN (2002).
1.2. Tình hình nghiên cứu nhện (Araneae) ở Việt Nam

Những loài nhện xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam được biết đến qua các
công trình của Simon (1886, 1896, 1903, 1904, 1906, 1908) và Hogg (1922)
(Trích dẫn theo tài liệu của Phạm Đình Sắc, 2015[7]). Tất cả các loài nhện
(bao gồm 20 loài) được phát hiện ở Việt Nam bởi 2 tác giả trên đều là loài
mới cho khoa học (Zabka, 1985) [34].
Năm 1985 Zabka đã công bố kết quả chuyến khảo sát của mình về phân
loại và phân bố của họ nhện nhảy Salticidae ở Việt Nam (Zabka, 1985) [34].
Tác giả đã ghi nhận được 100 loài Nhện nhảy, trong đó có 51 loài và 8 giống
mới cho khoa học. Phân tích các mẫu vật thu được ở Việt Nam, Ono (1997,
1999, 2002, 2003) [19, 20, 21, 22, 23] đã phát hiện 7 loài nhện mới cho khoa
học thuộc các họ Zodaridae và Liphistidae.
Năm 2001, Phạm Đình Sắc và Khuất Đăng Long đã công bố thành
phần loài nhện trên đậu tương tại 3 tỉnh Hà Nội, Hoà Bình và Bắc Ninh bao
gồm 26 loài thuộc 9 họ nhện (Phạm Đình Sắc, Khuất Đăng Long, 2001) [8].
Một số công trình nghiên cứu thành phần loài nhện trên cây vải thiều đã
được công bố. Năm 2002, Phạm Đình Sắc đã ghi nhận được 34 loài nhện trên
cây vải thiều ở Sóc Sơn - Hà Nội [6], năm 2002, Phạm Đình Sắc và Vũ
Quang Côn đã ghi nhận 29 loài nhện trên cây vải thiều ở Mê Linh – Vĩnh
Phúc [10]. Năm 2005, Thái Trần Bái và CS đã phát hiện được 33 loài nhện
trên cây vải thiều ở Thanh Hà, Hải Dương (Thái Trần Bái và CS, 2005) [1].
Kết quả nghiên cứu nhện trên cánh đồng lúa ở Việt Nam đã có nhiều
công trình công bố. Trên đồng lúa ở Nghệ An đã phát hiện được 26 loài thuộc

Chu Thị Hoa

6

K38 Sinh - KTNN



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

18 giống của 8 họ nhện (Phạm Bình Quyền và CS, 1999). Theo Phạm Văn
Lầm và cộng sự, cho đến nay đã thu thập và xác định được 52 loài nhện trên
đồng lúa ở Việt Nam (Phạm Văn Lầm và CS, 2004) [3].
Trong vòng hai năm 2004 – 2005, Phạm Đình Sắc và CS đã cho công
bố danh sách và phân bố của 113 loài nhện nhảy họ Salticidae cho khu hệ
nhện Việt Nam.
Gần đây khi nghiên cứu nhện tại VQG Phong Nha Kẻ Bàng, tỉnh
Quảng Bình, tác giả Phạm Đình Sắc đã chỉ ra rằng khu hệ nhện hang động
tiềm ẩn nhiều điều mới lạ, cần khám phá (Phạm Đình Sắc và CS, 2011).
Khu hệ nhện rừng ngập mặn mới chỉ được nghiên cứu trong một vài
năm gần đây, giới hạn trong một vài địa điểm rừng ngập mặn phía Nam Việt
Nam (Cồn Trong – Cà Mau, Cù Lao Dung – Sóc Trăng, VQG Tràm Chim)
(Nguyễn Trần Thụy Thanh Mai và CS, 2013) [4].
Năm 2009, sáu loài nhện mới được phát hiện tại hai VQG Cúc Phương
tỉnh Ninh Bình và Cát Bà tỉnh Hải Phòng (Lin et. al. 2009) [32]. Năm 2010,
thêm 1 loài nhện mới được phát hiện tại VQG Cát Bà Hải Phòng (Liu et. al.
2010) [17].
Trước đó, năm 2003, tại Vườn quốc gia Ba Bể, Phạm Đình Sắc bước
đầu đã công bố danh sách 82 loài thuộc 23 họ nhện. Lần đầu tiên ở Việt Nam,
một loài nhện có nọc độc họ Theraphosidae đã được tìm thấy ở VQG Tam
Đảo tỉnh Vĩnh Phúc và khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên tỉnh Lạng Sơn
(Phạm Đình Sắc và Vũ Quang Côn, 2005) [10].
Cho đến năm 2005, Việt Nam đã ghi nhận được 275 loài thuộc 144
giống của 30 họ nhện (Phạm Đình Sắc, 2005) [5]. Năm 2007 bổ sung thêm 45
loài, 15 giống, 1 họ cho khu hệ nhện Việt Nam (Phạm Đình Sắc và CS, 2007).
Trong giai đoạn từ 2009 đến 2013, tác giả Phạm Đình Sắc phối hợp với

các chuyên gia nước ngoài tiến hành các đợt khảo sát nhện ở miền Bắc Việt

Chu Thị Hoa

7

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nam, đã công bố 36 loài nhện mới cho khoa học (Lin et. al. 2009 [32]; Liu et.
al. 2010 [17]; Zha et. al. 2012 [35]; Yao et. al. 2012) [33].
Mới đây nhất, Phạm Đình Sắc và CS (2015) đã công bố 19 loài nhện
mới cho khoa học thuộc họ Pholcidae, được mô tả dựa trên các mẫu vật thu
thập ở các - tỉnh Bắc Cạn, Phú Thọ, Hà Giang, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Ninh
Bình và Quảng Bình [7].

Chu Thị Hoa

8

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƢƠNG 2

ĐỐI TƢỢNG, THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu nhóm nhện hoạt động trên mặt đất thuộc bộ Nhện
(Araneae), lớp Hình nhện (Arachnida), ngành Chân khớp (Arthropoda) tại
một số sinh cảnh của Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng.
2.1.1. Giới thiệu về nhện
Tên khoa học: Araneae
Tên tiếng Anh: Spider
Tên Việt Nam: Nhện
Bộ Nhện (Araneae) thuộc lớp hình nhện (Arachinida), ngành động vật
Chân đốt (Arthropoda). Bộ nhện chiếm ưu thế về số lượng loài và số lượng cá
thể trong 11 bộ của lớp hình nhện (bao gồm: Acarina, Amblypygi, Araneae,
Opiliones, Palpigradi, Pseudoscorpiones, Ricinulei, Schizomida, Scopionoides,
Solifugae, Thelyphonida).
Nhện được chia làm hai phân bộ dựa vào số đôi phổi sách (book-lungs)
thuộc cơ quan hô hấp và số cặp núm nhả tơ (spinnerets) thuộc bộ phận nhả tơ.
Cụ thể Platnick (2014) [24] đã chia hai phân bộ nhện là:
• Mygalomorphae: có 2 đôi phổi sách và 2 cặp núm nhả tơ.
• Araneomorphae: có 1 đôi phổi sách và 3 cặp núm nhả tơ.
Việc đặt tên khoa học cho nhện được bắt đầu từ năm 1757, tác giả Ovid
và Clerek đã đưa ra tên của bộ nhện là Araneae và Aranei. Đến năm 1801,
Latreille đưa ra tên bộ nhện là Araneida. Năm 1862, Dallas cũng nêu ra tên
của bộ nhện là Araneida. Năm 1938, Bristowe đưa tên bộ nhện là Araneae và
tên này được sử dụng cho đến ngày nay (Platnick, 2014) [24].

Chu Thị Hoa


9

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2.1.2. Đặc điểm hình thái học của nhện
Đặc điểm nổi bật của nhện là có 4 đôi chân (trong khi côn trùng có 3
đôi chân), cơ thể Nhện được chia ra hai phần: Phần giáp đầu ngực
(Cephalothorax) và phần bụng (Abdomen), hai phần này được nối với nhau
bởi cuống bụng, phần giáp đầu ngực bao gồm tấm lưng ngực (carapace) và tấm
bụng ngực (sternum). Phía trên đầu của giáp đầu ngực có miệng (môi trên và
môi dưới) và một đôi chân kìm (chelicera), bên cạnh chân kìm là một đôi chân
xúc giác (Palp). Cuối đôi chân kìm của nhện có đôi răng lớn và khỏe dùng để
bắt giữ và giết con mồi. Các mắt nằm trên tấm lưng ngực, thông thường có 8 mắt
đơn xếp thành 2 hay 3 hàng. Bộ phận sinh dục của con cái nằm ở phần giữa mặt
dưới của bụng. Cuối bụng có một đến bốn đôi núm tơ (bộ phận nhả tơ).
Chân kìm

Chân số I

Chân số
II

Chân xúc giác
Mắt
Giáp đầu ngực


Bụng

Bộ phận nhả tơ
Chân số III

Chân số IV
Hậu môn

Hình 1.1. Hình thái bên ngoài của nhện (mặt lƣng)
(Theo Jocque. R, 2007)

Chu Thị Hoa

10

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nhện có 4 đôi chân bò nằm trên phần giáp đầu ngực, xếp dọc hai bên
ức theo thứ tự từ trước ra sau là I, II, III và IV. Mỗi chân gồm bảy đốt: háng
(coax) nối liền với ngực, chuyển (trochanter), đùi (femur), gối (patella), cẳng
hay ống (tibia), bàn trong hay đốt bàn (metatasus) và bàn ngoài hay đốt cổ
chân (tarsus). Thông thường đốt bàn ngoài mang hai hoặc ba móng vuốt (mấu
nhọn) (claws) tùy theo loài, nếu có ba vuốt thì hai trong số ba vuốt tạo thành
một đôi và vuốt còn lại nằm ở giữa. Các vuốt có thể không có răng lược hoặc

có răng lược để kéo tơ.
Việc phân loại nhện chỉ tiến hành trên nhện trưởng thành, đặc điểm cơ
bản nhất sử dụng trong phân loại là xúc biện của con đực và bộ phận sinh dục
của con cái.
2.1.3. Một số đặc điểm sinh thái, sinh học của nhện
Nhện phát triển biến thái không hoàn toàn qua 3 giai đoạn: trứng – con
non – nhện trưởng thành (Foelix, 1996) [15]. Nhện non phải qua nhiều lần lột
xác mới trưởng thành và hình thành bộ phận sinh dục đực và cái. Về kích
thước cơ thể thì nhện cái thường lớn hơn nhện đực. Vòng đời của nhện có
thời gian phát dục khác nhau tuỳ từng loài. Nhện đực khi đến tuổi thành thục
thường ngừng tìm kiếm thức ăn và chuyên tâm vào việc tìm kiếm bạn đời.
Tinh dịch của nhện được cất giữ tại chân xúc giác nhện đực. Nhện đực
chuyển túi tinh cho nhện cái và bị chết do chính nhện cái ăn thịt. Sau giao
phối nhện cái đẻ trứng thành ổ và bao bọc ổ trứng bằng tơ nhện do chính
mình tạo ra. Trứng của mỗi loài có sự khác nhau về số lượng và kích thước.
Bọc trứng thường được treo trên lưới nhện, dính chặt vào bờ tường, hốc cây,
phiến lá (họ Clubionidae), hoặc được nhện mẹ mang gần cuối bụng (một số
loài thuộc họ nhện sói Lycosidae). Nhện mẹ canh giữ trứng và con mới nở
cho đến khi chúng đủ cứng cáp, có khả năng phân tán. Nhện con mới nở
thường tập trung trong ổ trứng. Khi thời tiết lạnh, các loài nhện trong vườn

Chu Thị Hoa

11

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

cây ăn quả thường tìm nơi trú ẩn để qua đông ở các vị trí ít bị tác động của
các yếu tố môi trường như khe hở tách ra từ vỏ của thân cây hoặc vỏ cành cây
(Foelix, 1996) [15].
Dựa trên tập tính săn mồi, nhện được chia làm hai nhóm lớn: nhện
chăng lưới bắt mồi và nhện săn mồi tự do không chăng lưới. (Nguyễn Văn
Huỳnh (2002) [2].
Nhện chăng lưới bắt mồi, vào ban ngày thường săn mồi hay rình mồi
trên lưới nhện. Khi con mồi vướng vào lưới, nhện nhả tơ để cuốn chặt con
mồi rồi tiêm nọc độc giết chết con mồi. Thường thì nhện sẽ treo con mồi trên
lưới để dành ăn khi đói. Các loài nhện chăng lưới ban đêm thì hoạt động vào
lúc chiều tối. Chúng chăng lưới khi trời bớt gió và cuốn lưới lại và mang con
mồi bắt được về nơi trú ẩn (một số loài thuộc họ Araneidae và
Tetragnathidae). Những loài nhện săn mồi tự do, chúng rình và vồ con mồi
sau đó nhanh chóng tiêm nọc độc, dùng hàm nghiền nát con mồi; tiết nước
bọt tiêu hóa và hút hết dịch chất của con mồi rồi bỏ lại xác khô (Foelix, 1996)
[15].
Thức ăn chủ yếu của nhện là các động vật chân khớp nhỏ, thậm chí
chúng còn ăn thịt lẫn nhau. Trong các loại côn trùng thì ruồi, muỗi, bọ nhảy là
nguồn thức ăn chủ yếu của nhện. Tuy nhiên, cũng có những nhóm côn trùng
mà nhện phải kiêng dè như ong bắp cày, một số loại kiến, hay một số loại sâu
bướm và bọ cánh cứng. Những côn trùng này thường tiết ra mùi khó chịu
hoặc chất độc để bảo vệ bản thân (Foelix, 1996) [15]. Song song đó, nhện
được ghi nhận giữ vai trò chủ đạo và là một trong những nhóm ăn thịt quan
trọng nhất trong hầu hết các hệ sinh thái. Chúng là nguồn thức ăn cho một số
nhóm động vật như: chim, rắn, ong và nhiều loài động vật khác (Peterson et
al, 1989) [26]. Đặc biệt, những nhóm nhện sống trong và trên mặt đất giữ vai
trò quan trọng trong việc chuyển hóa năng lượng trực tiếp từ mảnh vụn thức


Chu Thị Hoa

12

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

ăn bên dưới bề mặt đất đến mạng lưới thức ăn trên bề mặt đất cho nhiều họ
chim, bò sát, lưỡng cư và thú (Johnston, 2000) [16].
Nghiên cứu khả năng ăn mồi của loài nhện Pardosa birmanica tại Ấn
Độ, cho thấy 1 nhện cái trưởng thành tiêu diệt 28,4 sâu xanh hại cây bông
trong 1 ngày đêm, 1 nhện đực trưởng thành tiêu diệt 14,1 sâu xanh trong 1
ngày đêm. Năm 2002, Sebastian và Sudhikumar đã thử nghiệm sức ăn rệp
Aphis craccivora của một số loài thuộc họ nhện nhảy Saticidae (Sebastian và
Sudhikumar, 2002) [29]. Nhện đực trưởng thành loài Phidipus pateli tiêu diệt
6,4 con rệp trong 1 ngày đêm, nhện cái trưởng thành loài Phidipus pateli tiêu
diệt 6,6 con rệp trong 1 ngày đêm, nhện đực trưởng thành loài Plexippus
paykulli tiêu diệt 10,2 con rệp trong 1 ngày đêm, nhện cái trưởng thành loài
Plexippus paykulli tiêu diệt 12,4 con rệp trong 1 ngày đêm. Điều này cho thấy
khả năng săn mồi của nhện không chỉ phụ thuộc vào loại thức ăn mà còn chịu
ảnh hưởng của số lượng con mồi. Khi số lượng con mồi tăng cao, nhện có thể
ăn nhiều hơn bình thường nhằm hấp thụ đầy đủ năng lượng, đẩy nhanh và rút
ngắn quá trình tăng trưởng của nhện. Ngoài ra, việc ăn nhiều cũng giúp cho
nhện dự trữ năng lượng lớn phòng khi gặp điều kiện bất lợi về thức ăn chúng
vẫn có thể duy trì sự sống. Việc khan hiếm thức ăn là một trong những
nguyên nhân làm giảm thành phần loài nhện. Loài nhện nào có kĩ năng săn

mồi tốt hoặc dự trữ và tích lũy được nhiều năng lượng để chịu đói được trong
thời gian dài thì sẽ sống sót và ngược lại. Rod & Ken cho rằng: khi săn mồi
nhện tiêu tốn rất nhiều năng lượng nhưng chúng lại có khả năng nhịn đói
trong suốt một tuần (Rod & Ken, 1998) [28]. Điều này giúp chúng có thể
sống được ở những nơi có môi trường sống khắc nghiệt. Đây cũng chính là lí
do nhện phân bố rộng khắp trên nhiều hệ sinh thái. Bổ sung thêm dẫn liệu cho
những nghiên cứu về vai trò của nhện trong việc phòng trừ tổng hợp sâu hại
trên cây trồng nông nghiệp, Song và Zhu đã đưa ra nhận xét, so với côn trùng
ký sinh và các loài thiên địch khác nhện có nhiều ưu thế hơn (Song an Zhu,

Chu Thị Hoa

13

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1999) [30]. Thứ nhất, nhện có kích thước quần thể lớn. Thứ hai, nhện là loài
phàm ăn. Thứ ba, nhện xuất hiện trên cây trồng sớm hơn các loài thiên địch
khác. Thứ tư, trong điều kiện thiếu thức ăn nhện vẫn có thể tồn tại trong thời
gian dài. Thứ năm, khả năng sinh sản của nhện cao.
Nhện còn được sử dụng như chỉ thị sinh thái học để đánh giá chất
lượng môi trường sống, điển hình là nhóm nhện thuộc họ nhện cuốn tổ
Clubionidae rất mẫn cảm với các kim loại nặng như chì và kẽm. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy thuốc trừ sâu hại ảnh hưởng lớn tới nhện. Năm 1990,
Chen và Gao đã chỉ rõ: việc sử dụng thuốc trừ sâu trên vườn cây ăn quả làm

giảm đáng kể số lượng nhện sống ở trên đó (Chen and Gao, 1990) [13]. Tác
giả cho rằng nhện rất mẫn cảm với thuốc hoá học, thuốc hoá học là nhân tố
xua đuổi nhện ra khỏi nơi hoạt động và cư trú đặc biệt là thời điểm nhện tìm
nơi ẩn nấp qua mùa đông.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về sinh học sinh thái nhện còn rất rải rác.
Kết quả nghiên cứu của Bùi Hải Sơn cho thấy: loài nhện Pardosa
pseudoannulata giai đoạn con non có 8 tuổi; thời gian phát dục của nhện non
đực từ 76,2 - 155,7 ngày; của nhện non cái từ 92,6 - 167,7 ngày; vòng đời của
nhện từ 122,9 - 219 ngày. Loài nhện Oxyopes javanus giai đoạn con non có 9
tuổi; thời gian phát dục của nhện non đực từ 152,9 - 204,0 ngày; của nhện non
cái từ 159,6 - 223,7 ngày; vòng đời của nhện từ 185,0 - 238,5 ngày. Nhện
Pardosa pseudonnulata có khả năng ăn 9,4 - 22,5 con rầy nâu trong một
ngày; nhện Oxyopes javanus có khả năng ăn 0,32 - 0,48 sâu non cuốn lá nhỏ
trong một ngày (Bùi Hải Sơn, 1995) [11]. Năm 2004, Phạm Văn Lầm đã tiến
hành thí nghiệm tìm hiểu phổ vật mồi của một số loài nhện trên cánh đồng
lúa, cho rằng: các loài Pardosa pseudonnulata và Oxyopes javanus biểu hiện
tính đa thực. Loài Dyschiriognatha tenera và Theridium octomaculatum chỉ
sử dụng 4 loài rầy nâu hại lúa trong phòng thí nghiệm để làm thức ăn. Còn
loài Myrmaracha elongata và Clubiona japonicola không ăn các loài bọ xít

Chu Thị Hoa

14

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


hại lúa. Nhện là nhóm có số lượng loài lớn, phân bố rộng, có vai trò trong
nhiều lĩnh vực do đó các nghiên cứu về khu hệ bổ sung thành phần loài và
sinh học sinh thái là việc làm cần thiết (Phạm Văn Lầm, 2004) [3].
2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 09/2015 đến tháng 04/2016.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực địa thu mẫu nhện trong 2 đợt:
- Đợt 1: giai đoạn mùa khô (tháng 10 - 11/2015)
- Đợt 2: giai đoạn mùa mưa (tháng 2 - 3/2016)
Thời gian còn lại chúng tôi tiến hành thu thập tài liệu, phân tích mẫu,
xử lý số liệu và viết báo cáo.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại các sinh cảnh điển hình của Vườn quốc gia
Phong Nha Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình. Nhện được thu ở 3 sinh cảnh: rừng tự
nhiên, rừng nhân tác và trảng cây bụi.
Năm 2003, Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO
công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo. Ngày
3 tháng 7 năm 2015 được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế
giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái .
- Vị trí địa lý: Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng có tọa độ 17°21′ 17°39′ vĩ bắc và 105°57′ - 106°24′ kinh đông, nằm trong địa bàn các xã Tân
Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và Sơn Trạch thuộc huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cửa động Phong Nha - Kẻ Bàng có tọa độ
17°34'54.15"B và 106°16'58.83"T. Phong Nha - Kẻ Bàng cách thành phố
Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500
km về phía bắc. Phía tây Vườn quốc gia này giáp khu vực bảo tồn Hin
Namno, một khu vực carxtơ nằm ở tỉnh Khăm Muộn, Lào cách Biển Đông
42km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.

Chu Thị Hoa


15

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

- Địa hình: Phong Nha - Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng
khoảng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp
Vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.000 ha. Diện tích
vùng lõi của Vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha.
Tháng 8 năm 2013, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định mở rộng Vườn
quốc gia này lên 1233,26 km2. Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ
một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo
tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc
trưng của Vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông
ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ
thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các
nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong
đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.
Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được hình
thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở
châu Á.
- Thảm thực vật: VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có hệ thảm thực vật với
những kiểu thảm thực vật quan trọng là: Rừng kín nhiệt đới thường xanh, ẩm
trên núi đá vôi. Có thảm thực vật với diện tích lớn nhất và phân bố thành
mảng lớn ở phía Bắc và phía Tây của khu vực.
Rừng thứ sinh sau khai thác trên núi đá vôi: Nó có nguồn gốc trực tiếp

từ kiểu thảm thực vật rừng nhiệt đới thường xanh, ẩm trên núi đá vôi sau khi
chịu tác động của con người. Quần lạc cây bụi, cây gỗ rải rác trên đất đá vôi:
Kiểu rừng này phân bố ở các sườn dốc thoải hoặc các gò đống có đỉnh tròn
bằng nằm bên khe suối. Rừng kín thường xanh nhiệt đới ẩm trên núi đất: Do
có phần nền là những loại đất tương đối sâu, dày, ẩm nên rừng sinh trưởng
tốt, cây gỗ có đường kính trên dưới 100cm chiếm số lượng nhiều.

Chu Thị Hoa

16

K38 Sinh - KTNN


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Thành phần chủ yếu ở đây là các loài thực vật đặc trưng như Sao đá,
Nàng hai, Trai, Mùng quân, Nghiến, Lát hoa, Sên đào. Thực vật hạt trần chỉ
thấy xuất hiện lẻ tẻ trên các vách đá với loài Tuế núi đá và trong các hẻm đá
có đất bồi có loài Hoàng đàn giả.
Rừng thứ sinh sau khai thác trên núi đá vôi: Kiểu phụ thảm thực vật
này phân bố chủ yếu ở ven đường 20 và khu vực tiếp cận điểm quần cư phía
Bắc. Nó có nguồn gốc trực tiếp từ kiểu thảm thực vật rừng nhiệt đới thường
xanh, ẩm trên núi đá vôi sau khi chịu tác động của con người. Với các loài
cây tiên phong ưa sáng, mọc nanh có gỗ mềm như Ba soi, Ba bét, Thung,
Màng tang, Hu bọ nẹt, Chẩn, Hèo đá...
Quần lạc cây bụi, cây gỗ rải rác trên đất đá vôi: Kiểu phụ thảm thực vật
này chiếm một diện tích trung bình, tập trung ở khu vực trung tâm, phía Đông

đường 20 và nằm kề bên điểm quần cư của xã Tân Trạch. Kiểu rừng này phân
bố ở các sườn dốc thoải hoặc các gò đống có đỉnh tròn bằng nằm bên khe
suối. Những cây còn sót lại đa phần là những cây gỗ tạp như Đa, Trâm, Sảng,
Mắn đỉa... có phẩm chát xấu. Các loài cây gỗ nhỏ và cây bụi phổ biến bao
gồm: Sòi tía, Cò ke, Hu, Thầu tấu... Mặt đất nhiều chỗ lộ trơn, chặt cứng và
có hiện tượng kết vón, khả năng tái sinh tự nhiên rất kém.
Rừng kín thường xanh nhiệt đới ẩm trên núi đất: Kiểu thảm thực vật
này có diện tích rộng lớn trong khu vực (11.038 ha), phân bố tập trung thành
2 khối lớn: một khối ở phía Đông kéo dài từ suối làng Va, ven theo lộ 20 tới
tận Rào Thương. Đặc trưng của khu vực này là nền đá mẹ khác nhau về
chủng loại. Tại đây rừng cấu trúc chủ yếu bởi các loài cây gỗ thường xanh.
Những cây gỗ rừng lá: Dầu ke, Chò nhai, Sâng, Sổ, Bằng lăng chỉ là những cá
thể mọc rải rác. Các loài lá rộng được xem là thành phần cấu tạo chính của
các tầng rừng.
Do có phần nền là những loại đất tương đối sâu, dày, ẩm nên rừng sinh
trưởng tốt, cây gỗ có đường kính trên dưới 100cm chiếm số lượng nhiều.

Chu Thị Hoa

17

K38 Sinh - KTNN


×