Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng tại Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.22 MB, 118 trang )


i
MỤC LỤC
Trang
Mục lục
i
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
iv
Danh mục các bảng
v
Danh mục các hình, bản đồ, biểu đồ
vi
Lời cảm ơn
vii
Lời cam đoan
viii
MỞ ĐẦU
1
Lý do chọn đề tài
1
Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của đề tài
2
Mục tiêu nghiên cứu
2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
Phương pháp nghiên cứu
3
Kết cấu luận văn
3
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


4
1.1 Khái niệm
4
1.1.1 Khái niệm về đa dạng sinh học, nguyên nhân cụ thể của suy thoái đa
dạng sinh học
4
1.1.2 Khái niệm về bảo tồn đa dạng sinh học
5
1.1.3 Khái niệm về cộng đồng
7
1.1.4 Khái niệm về phí chi trả dịch vụ môi trường
14
1.2 Trên thế giới
16
1.3 Ở Việt Nam
18
1.3.1 Cơ sở pháp lý
18
1.3.2 Tình hình các khu bảo tồn thiên nhiên, Vườn Quốc gia ở Việt Nam
19
1.4 Tại khu vực nghiên cứu
21
CHƯƠNG 2: ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
23

ii
2.1 Địa điểm nghiên cứu
23
2.1.1 Vị trí địa lý và ranh giới

23
2.1.2 Địa hình, địa chất
25
2.1.3 Thổ nhưỡng
26
2.1.4 Khí hậu thủy văn
26
2.1.5 Tài nguyên rừng
29
2.2 Thời gian nghiên cứu
32
2.3 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
32
2.3.1 Phương pháp luận
32
2.3.2 Phương pháp nghiên cứu
33
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
34
3.1 Tầm quan trọng của các loại đất và rừng
34
3.1.1 Tầm quan trọng của các loại đất
34
3.1.2. Tầm quan trọng của rừng
36
3.2. Hoạt động quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng của Ban quản lý Vườn
Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng hiện nay
38
3.2.1. Chức năng và nhiệm vụ của Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
38

3.2.2 Tình trạng bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học hiện
nay của Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
45
3.2.3 Các mối đe dọa đối với bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và biện
pháp
54
3.3 Đời sống và hoạt động của cộng đồng trong Vườn Quốc gia Phong
Nha - Kẻ Bàng
57
3.3.1 Cộng đồng dân cư sống trong Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
57
3.3.2 Sự phụ thuộc của người dân vào rừng
62
3.3.3 Nhận thức và các hình thức tham gia của người dân vào công tác bảo
tồn
70
3.3.4 Mối quan hệ giữa chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư với
Vườn Quốc gia
74

iii
3.4 Đề xuất các giải pháp lôi kéo cộng đồng cùng tham gia bảo vệ tài
nguyên rừng và đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
76
3.4.1 Hoàn chỉnh các chính sách liên quan đến quyền lợi của cộng đồng
76
3.4.2 Chính sách đối với cộng đồng và hoạt động của Vườn Quốc gia
76
3.4.3 Chính sách phát triển kinh tế xã hội
77

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
78
Kết luận
78
Kiến nghị
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
81
Tài liệu trong nước
81
Tài liệu nước ngoài
83
PHỤ LỤC
84



















iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

BQL Ban quản lý
BQLVQG Ban quản lý Vườn Quốc gia
BTTN Bảo tồn thiên nhiên
ĐDSH Đa dạng sinh học
FAO Tổ Chức Lương thực và Nông nghiệp Thế giới
HST Hệ sinh thái
IUCN Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên Thế giới
KBT Khu bảo tồn
KBTTN Khu bảo tồn thiên nhiên
MTR Môi trường rừng
PN - KB Phong Nha - Kẻ Bàng
QLBV Quản lý bảo vệ
UBND Ủy ban nhân dân
VQG Vườn Quốc gia
VQG PN KB Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
WWF Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên


















v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
2.1: Diện tích các xã thuộc Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
24
2.2: Diện tích các phân khu chức năng của vùng nghiên cứu
25
2.3: Thống kê các loại đất chính trong khu vực Vườn Quốc gia
26
2.4: Diện tích các kiểu thảm thực vật và sinh cảnh của VQG PN - KB
30
2.5: Thống kê hệ thực vật Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
32
2.6: Thống kê hệ động vật Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
32
3.1: Tầm quan trọng của các loại đất tại địa phương dựa trên hạng mục sử dụng
35
3.2: Tầm quan trọng của rừng dựa hạng mục sử dụng
35
3.3 : Cơ cấu cán bộ Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
41

3.4 : Chỉ số theo dõi tình trạng bảo tồn của VQG PN - KB
46
3.5: Số loài động vật có xương sống đặc hữu ở VQG PN - KB
49
3.6: Số lượng các loài động vật bị đe dọa ở VQG PN - KB
50
3.7: Các loài thú được bảo tồn tại VQG PN - KB
52
3.8: Dân số của các xã trong VQG PN - KB
58
3.9: Thành phần dân tộc Vân Kiều của các xã trong VQG PN - KB
59
3.10: Đối tượng thu hái lâm sản được điều tra qua dân tộc Arem
63
3.11: Số loài và lượng động vật bị săn bắn tại VQG PN - KB
65
3.12: Khai thác gỗ và sử dụng cây gỗ tại VQG PN - KB
67
3.13: Cây thuốc và khai thác sử dụng tại VQG PN - KB
68
3.14: Số lượng rau, củ, quả được thu hái tính bình quân cho các hộ
69
3.15: Nhận thức của người dân về vấn đề bảo tồn
72












vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Trang
1.1: Sơ đồ các bước chính của cộng đồng tham gia vào dự án sử dụng
bền vững tài nguyên đa dạng sinh học
9
2.1: Bản đồ Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
23
2.2: Rừng kín thường xanh điển hình cho VQG PN - KB
29
2.3: Bản đồ thảm thực vật rừng của VQG PN - KB
29
3.1: Biểu đồ phân loại đất theo mức độ quan trọng (tất cả các nhóm)
36
3.2: Biểu đồ tầm quan trọng của các loại rừng (tất cả các nhóm)
37
3.3: Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý VQG Phong Nha - Kẻ Bàng
42
3.4: Khu nuôi thả linh trưởng bán hoang dã của VQG PN - KB
51
3.5: Trạm cứu hộ động vật hoang dã của VQG PN - KB
51
3.6: Loài Bách xanh núi đá ở VQG PN - KB
53
3.7: Những ngôi nhà mới xây ở bản 61

75

















1
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng (VQG PN - KB) đã được biết đến từ
những năm 1920 và đã được đưa vào danh sách các khu rừng đặc dụng từ năm 1986
(quyết định số 194/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 9/8/1986) và chính
thức trở thành VQG vào tháng 5 năm 2000 (Quyết định số 189/2001/QĐ-TTg ngày
12/12/2001). Với những giá trị nổi bật toàn cầu do tính đại diện cho quá trình lịch
sử địa chất, địa mạo, VQG PN - KB đã được UNESCO công nhận là Di sản Thiên
nhiên Thế giới (tại phiên họp thứ 27, ngày 3/7/2003).
Không chỉ có giá trị về mặt địa chất, địa mạo mà tồn tại trên đó là các giá trị
đa dạng sinh học có tầm quan trọng toàn cầu. VQG PN - KB nằm trong vùng Trung

Trường Sơn có tính đa dạng sinh học rất cao, được đánh giá là một trong 200 trung
tâm đa dạng sinh học của thế giới[26]. Sự phong phú của địa chất, địa mạo đã tạo ra
cho PN - KB có 15 kiểu sinh cảnh rộng lớn với 10 kiểu thảm thực vật quan trọng.
Độ che phủ của rừng PN - KB đạt 93,57% và diện tích rừng nguyên sinh đạt trên
83,74% nên PN - KB là khu bảo tồn có độ che phủ và tỷ lệ rừng nguyên sinh lớn
nhất trong các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam. Đặc biệt, ở đây còn tồn tại kiểu
rừng kín thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi ở độ cao 700m với diện tích
22.500ha là kiểu rừng độc đáo nhất ở Việt Nam và trên thế giới.
Tuy nhiên, do đặc điểm tự nhiên và dân số, công tác bảo vệ ở đây cực kỳ khó
khăn, luôn đối mặt với người dân địa phương. Cộng đồng dân cư các xã ven đồi thu
nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp không có nghề phụ, trình độ canh tác
lúa nước, phong tục tập quán lạc hậu, các nhu cầu cần thiết như gỗ, củi đều từ
VQG. Mặt khác mâu thuẫn giữa người dân địa phương và Ban quản lý VQG PN -
KB luôn xảy ra. Chính vì vậy mà việc quản lý và bảo tồn ĐDSH có sự tham gia của
cộng đồng tại VQG PN - KB là một giải pháp tối ưu hiện nay mà nó đã được các
nước trên thế giới cũng như một số VQG, KBT của Việt Nam áp dụng có kết quả
tốt.
Trong bối cảnh đó, các vấn đề nghiên cứu được đặt ra như sau:

2
- Làm thế nào để công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH ở VQG PN - KB được
hiệu quả.
- Làm thế nào để người dân sống quanh VQG PN - KB hiểu được giá trị của
tài nguyên thiên nhiên và ĐDSH để từ đó họ nhận thức được và tham gia một cách
tự giác vào công tác bảo tồn ĐĐSH ở VQG PN – KB trên cơ sở sinh kế bền vững.
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Bảo
tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng tại Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng huyện, Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình”.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Đây là cơ sở khoa học có thể áp dụng cho việc nghiên cứu xây

dựng các mô hình quản lý rừng và ĐDSH cộng đồng ở VQG PN - KB. Cung cấp
phương pháp phân tích , lựa chọn, tìm kiếm những giải pháp thích hợp để nâng cao
vai trò của người dân cùng kết hợp với Ban quản lý VQG thực hiện tốt hơn việc
quản lý và bảo vệ ĐDSH.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá được hiện trạng sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong
khu vực nghiên cứu, nhận thức về bảo tồn ĐDSH trong khu vực sinh sống của mình
để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của người dân trong công tác bảo tồn
ĐDSH ở VQG PN - KB.
Mục tiêu nghiên cứu
Đưa nguyên lý bảo vệ TNTN dựa vào cộng đồng vào thực tiễn PN - KB,
thông qua các hoạt động dưới đây:
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng tài nguyên của cộng đồng ở VQG PN - KB.
- Đánh giá vai trò của cộng đồng và ban quản lý trong công tác bảo vệ, quản lý và
phát triển ĐDSH ở VQG PN - KB.
- Khuyến khích cộng đồng trong công tác bảo tồn, bảo vệ ĐDSH.
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao vai trò của cộng đồng trong công tác bảo
tồn ĐDSH VQG PN - KB.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3
Đối tượng nghiên cứu là Ban quản lý VQG PN - KB và các hộ gia đình của
các xã thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Nhưng do hạn chế về thời gian và
nguồn lực do vậy đề tài này chỉ tiến hành nghiên cứu ở 2 xã là xã Tân Trạch, xã
Thượng Trạch thuộc huyện Bố Trạch.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp kế thừa tài liệu.
- Phương pháp điều tra nông thôn PRA và RRA.
Kết cấu luận văn
Phần mở đầu
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Địa điểm, thời gian và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục















4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm về đa dạng sinh học, nguyên nhân cụ thể của suy thoái đa dạng
sinh học
Đa dạng sinh học là sản phẩm của một quá trình tiến hóa lâu dài. Trong quá
trình đó mỗi loài đã tích lũy cho mình những gen chống chịu được bệnh tật, thích
nghi được với các điều kiện sinh thái đặc thù.


Mỗi loài có một vai trò nhất định
trong hệ sinh thái, là mắt xích khép kín trong chu trình vật chất của hệ[5].
Thuật ngữ đa dạng sinh học (ĐDSH) dùng để mô tả sự phong phú và đa dạng
của giới tự nhiên. ĐDSH là sự phong phú của mọi cơ thể sống từ mọi nguồn, trong
các hệ sinh thái (HST) trên đất liền, dưới biển và các HST dưới nước khác và mọi
tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên. ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng
di truyền), giữa các loài (đa dạng loài) và các HST (đa dạng HST). ĐDSH bao gồm
cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các bộ phận của cơ thể, các quần
thể hay các hợp phần sinh học khác của HST, hiện đang có giá trị sử dụng hay có
tiềm năng sử dụng cho loài người[1].
Tính ĐDSH bao gồm tất cả các loài thực vật, động vật và vi sinh vật đang
tồn tại và tương tác lẫn nhau trong HST[25].
Nguyên nhân cụ thể của suy thoái đa dạng sinh học
- Sự thay đổi nơi cư trú của các loài sinh vật và dịch vụ hệ sinh thái do tác
động trực tiếp và gián tiếp của con người.
- Mở rộng đất canh tác nông nghiệp vào đất rừng là một trong những nguyên
nhân quan trọng nhất: hình thức du canh đã biến 13 triệu ha rừng trước đây thành
đất trống, đồi trọc. Vùng ven biển, nhân dân nhiều nơi phá rừng ngập mặn quai đê
lấn biển để trồng lúa, phá rừng làm ao nuôi tôm đã làm nhiều rừng ngập mặn biến
mất.
- Khai thác gỗ trái phép, khai thác củi phục vụ nhu cầu sinh hoạt con người
đã làm rừng bị cạn kiệt nhanh chóng, các loài gỗ quí còn lại không đáng kể. Khai

5
thác các lâm sản ngoài gỗ như song mây, tre nứa, lá, cây dược liệu để bán trên thị
trường trong nước và xuất khẩu, khu hệ động vật hoang dã bị khai thác bừa bãi làm
nghèo tính đa dạng.
- Cháy rừng: hiện tượng cháy rừng ngày càng phổ biến với nhiều nguyên
nhân khác nhau, riêng quý I/1998 đã có 1.116 vụ cháy rừng, huỷ hoại 16.059 ha
rừng

- Sự xâm nhập của các loài sinh vật lạ, cạnh tranh nơi ở và thức ăn với loài
bản địa dẫn đến sự suy vong của các loài bản địa này.
- Những nguyên nhân khác như việc xây dựng đường sá, cầu cống, đường
dây điện, hồ chứa nước, đập thuỷ điện
Nguyên nhân sâu xa: từ hậu quả của chiến tranh, sự tăng dân số đã gây ra
những biến động lớn về phân bố dân cư. Với gần 80% dân số sống ở nông thôn, đời
sống phụ thuộc vào nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên đã tạo nên thói quen xấu
trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên cũng góp phần quan trọng làm suy thoái
đa dạng sinh học. Toàn cầu hoá cũng đòi hỏi phải sản xuất hàng hoá để thỏa mãn
nhu cầu thị trường ngày càng rộng lớn và cân bằng chi thu của những nước nghèo
nên ảnh hưởng tiêu cực đến đa dạng sinh học[15].
1.1.2 Khái niệm về bảo tồn đa dạng sinh học
Loài người đang phá huỷ một trong những nguồn tài nguyên quí giá nhất mà
không thể thay thế được trên thế giới là ĐDSH, cơ sở của sự sống còn, sự thịnh
vượng và sự phát triển bền vững của xã hội loài người. Tất cả các tài sản quí giá đó
rất cần thiết để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày của loài người hiện nay, trong tương
lai cũng như đã đáp ứng cho tổ tiên trước kia. Thế nhưng chúng ta đã không biết giữ
gìn nguồn tài nguyên quí giá đó mà lại đang khai thác quá mức, tiêu hao và phá huỷ
nó với danh nghĩa là để phát triển. Sự suy thoái ĐDSH trên Trái đất đang hàng ngày
hàng giờ âm thầm phá huỷ khả năng phát triển của loài người[13].
Để đảm bảo sự phát triển bền vững phải bảo tồn ĐDSH và biết cách sử dụng
nó một cách bền vững. Đối với các loại tài nguyên sinh học, là dạng tài nguyên có
khả năng tái tạo được, điều quan trọng là tạo được sản lượng ổn định tối đa mà

6
không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cơ sở. Sản lượng này hoàn toàn có hạn và
không thể khai thác quá khả năng chịu đựng, nếu không muốn làm giảm năng suất
trong tương lai. Vấn đề là phải biết kiềm chế, biết cách sử dụng một cách khôn
khéo, và làm ổn định nhu cầu trong giới hạn cho phép bằng cách sớm ổn định dân
số, nâng cao nhận thức của mọi người về ĐDSH đối với cuộc sống của họ, và tăng

quyền chủ động của họ trong việc quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên
thiên nhiên mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào đó.
Mục tiêu của bảo tồn, quản lý ĐDSH và sử dụng bền vững các tài nguyên
sinh học là “nhằm giữ được sự cân bằng tối đa giữa bảo tồn sự đa dạng của thiên
nhiên và tăng cường chất lượng cuộc sống của con người”. Để có thể thực hiện
được mục tiêu nói trên và phát triển bền vững, các chính phủ, các công dân, các tổ
chức quốc tế, các tổ chức kinh doanh và các tổ chức phi chính phủ cần phải cộng
tác chặt chẽ với nhau để tìm ra con đường phát triển mà không làm đảo lộn các quá
trình cơ bản của hành tinh, và bảo tồn được sự ĐDSH. Mục tiêu quan trọng nhất
của chiến lược phát triển bền vững là bảo tồn ĐDSH được càng nhiều càng tốt[13].
Hiện nay có nhiều phương pháp bảo tồn khác nhau. Có thể phân chia các
phương pháp và công cụ thành các nhóm như sau:
Bảo tồn nguyên vị (in situ):
Bảo tồn nguyên vị bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo
vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên mà
loài đang tồn tại. Tuỳ theo đối tượng bảo tồn mà các hành động quản lý thay đổi.
Thông thường bảo tồn nguyên vị được thực hiện bằng cách thành lập các khu bảo
tồn và đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp. Theo Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên
Quốc tế (IUCN) thì có 6 loại khu bảo tồn: Loại I: Khu bảo tồn nghiêm ngặt (hay
khu bảo tồn hoang dã), Loại II : Vườn quốc gia, chủ yếu để bảo tồn các hệ sinh thái
và sử dụng vào việc du lịch, giải trí , giáo dục; Loại III: Công trình thiên nhiên, chủ
yếu bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên đặc biệt; Loại IV: Khu bảo tồn sinh cảnh hay
các loài, chủ yếu là nơi bảo tồn một số sinh cảnh hay các loài đặc biệt cần bảo vệ;
Loại V: Khu bảo tồn cảnh quan đất liền hay cảnh quan biển, chủ yếu bảo tồn các

7
cảnh quan thiên nhiên đẹp, sử dụng cho giải trí và du lịch; Loại VI: Khu bảo tồn
quản lý tài nguyên thiên nhiên, chủ yếu quản lý với mục đích sử dụng một cách bền
vững các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên.
Bảo tồn chuyển vị ( ex situ):

Bảo tồn chuyển vị bao gồm các biện pháp di dời các loài cây, con và các vi
sinh vật ra khỏi môi trường sống thiên nhiên của chúng. Mục đích của việc di dời
này là để nhân giống, lưu giữ, nhân nuôi vô tính hay cứu hộ trong trường hợp: (1)
nơi sinh sống bị suy thoái hay huỷ hoại không thể lưu giữ lâu hơn các loài nói trên,
(2) dùng để làm vật liệu cho nghiên cứu, thực nghiệm và phát triển sản phẩm mới,
để nâng cao kiến thức cho cộng đồng. Bảo tồn chuyển vị bao gồm các vườn thực
vật, vườn động vật, các bể nuôi thuỷ hải sản, các bộ sưu tập vi sinh vật, các bảo
tàng, các ngân hàng hạt giống, bộ sưu tập các chất mầm, mô cấy Do các sinh vật
hay các phần của cơ thể sinh vật được lưu giữ trong môi trường nhân tạo, nên chúng
bị tách khỏi quá trình tiến hoá tự nhiên. Vì thế mà mối liên hệ gắn bó giữa bảo tồn
chuyển vị với bảo tồn nguyên vị rất bổ ích cho công tác bảo tồn ĐDSH[13].
1.1.3 Khái niệm về cộng đồng
Cộng đồng nói chung thường được hiểu là những nhóm người, được tập hợp
dưới nhiều hình thức khác nhau như theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, theo huyết
thống, theo tổ chức đoàn thể, v.v…
Tuy nhiên cộng đồng được nới tới ở đây là một đơn vị cấp địa phương của
một tổ chức xã hội bao gồm các cá nhân, gia đình, thể chế và các cấu trúc khác
đóng góp cho cuộc sống hàng ngày của một xã hội, một nhóm người trong một khu
vực địa lí xác định, có thể được biến đổi bởi quá trình vận động lịch sử[16].
Hay nói cách khác, cộng đồng là tập hợp những người sống gắn bó với nhau
thành một xã hội nhỏ có những điểm tương đồng về mặt văn hóa, kinh tế, xã hội
truyền thống, phong tục, tập quán, có quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó với
nhau và có ranh giới không gian trong một thôn bản. Theo quan niệm này, “cộng
đồng” chính là cộng đồng dân cư thôn bản” (sau đây “thôn bản” được gọi chung là
“thôn’ cho phù hợp với Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004)[7].

8
Theo Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 “cộng đồng dân cư
thôn là tập hợp toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, ấp,
buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương”.

Động lực cộng đồng là kết quả tác động tổng hợp của các yếu tố bên trong và
bên ngoài cộng đồng. Ví dụ về các yếu tố này bao gồm các mối quan hệ quyền lực
trong gia đình như giữa nam giới và nữ giới, quan hệ giữa các gia đình, quan hệ
giữa con người và các thể chế như ngân hàng, trường học , quan hệ giữa con người
và cấu trúc quyền lực chính thống (cơ quan chính quyền địa phương, các tổ chức tổ
chức xã hội,…), quan hệ giữa con người và các yếu tố ngoại lực (Quyết định của
Chính phủ, áp lực kinh tế bên ngoài,…)[16].
Cộng đồng trong công tác bảo tồn ĐDSH:
Thuật ngữ “Dựa vào cộng đồng” là một nguyên tắc mà những người sử dụng
tài nguyên cũng phải là người quản lý hợp pháp đối với nguồn tài nguyên đó. Điều
này giúp phân biệt nó với các chiến lược quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên
khác hoặc là có tính tập trung hoá cao hoặc là không có sự tham gia của các cộng
đồng phụ thuộc trực tiếp vào nguồn tài nguyên đó.
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy những hệ thống quản lý tập trung hoá đã
tỏ ra không hiệu quả trong việc quản lý nguồn tài nguyên theo cách bền vững. Do
đó rất nhiều cộng đồng cả cộng đồng ven biển đã đánh mất ý thức “làm chủ” và
trách nhiệm đối với vùng ven biển của họ. Thông qua những tiến trình đa dạng của
mình, quản lý bảo tồn tài nguyên dựa vào cộng đồng hy vọng sẽ khôi phục lại ý
thức “làm chủ” và trách nhiệm này.
Quản lý bảo tồn tài nguyên dựa vào cộng đồng cũng là một quá trình mà qua
đó những cộng đồng được tăng quyền lực về chính trị và kinh tế để họ có thể đòi và
giành được quyền kiểm soát quản lý và tiếp cận một cách hợp pháp đối với nguồn
tài nguyên của họ. Sự vận động nhằm khởi xướng một vấn đề như thế tốt hơn hết
phải được bắt đầu từ bản thân cộng đồng. Tuy nhiên do yếu về quyền lực nên hầu
hết các cộng đồng đều thiếu khả năng tự khởi xướng quá trình thay đổi. Chính điều
này là một trong những nhân tố đã dẫn đến các tổ chức và cơ quan bên ngoài tham

9
gia, làm cho những quá trình liên quan đến Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng trở
nên dễ dàng hơn, kể cả việc tổ chức cộng đồng.











Nguồn: Isobel W. Heathcote, 1998
Hình 1.1: Sơ đồ các bước chính của cộng đồng tham gia vào dự án sử dụng
bền vững tài nguyên đa dạng sinh học
1. Hiểu biết về dự án: Thông tin cho cộng đồng có liên quan về nội dung,
mục tiêu của dự án để cộng đồng có thể tham gia bàn bạc xem có nên thực hiện dự
án ấy hay không và tác động (tích cực và tiêu cực) của dự án như thế nào đến cộng
đồng và họ cũng có thể tham gia vào các quyết định của dự án ngay từ đầu. Đó là
điều tối cần thiết của một dự án dựa vào cộng đồng.
2. Đồng thuận về thay đổi: Những dự án về sử dụng bền vững tài nguyên
thiên nhiên thường là những dự án về thay đổi từ sử dụng không bền vững sang bền
vững. Những thay đổi ấy phải có được sự đồng thuận của cộng đồng vì đấy chính là
chìa khoá thành công của dự án. Vì cộng đồng là nguồn lực chính thực hiện dự án.

Hiểu biết về dự án


Đồng thuận về thay đổi


Thiết lập quá trình thay đổi



Mô tả đặc trưng của hệ thống


Xác định mục tiêu của cộng đồng


Đưa ra nhũng phương án về thay đổi


Tuyển chọn các phương án thay thế thích hợp


Ổn định các thay đổi


Duy trì và giám sát








10
3. Thiết lập quá trình thay đổi: Sau khi đã có sự đồng thuận về thay đổi thì
phải xác lập quá trình thay đổi về không gian, thời gian, các bước tiến hành, tiến độ
v.v…

4. Mô tả đặc trưng của hệ thống: Phần này tập trung mô tả các bên liên quan
trong dự án quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng bao gồm:
- Các cán bộ có liên quan từ trung ương đến địa phương (đặc biệt là những
cán bộ ra quyết định và thông thạo về quy hoạch).
- Các cán bộ dự án thông hiểu về dự án và các cộng đồng có năng lực làm
việc dễ dàng với cộng đồng và tiếp thụ được ý tưởng của những người đại diện cho
cộng đồng.
- Những công ty tư nhân và những cơ quan khác quan tâm tới ý nghĩa kinh tế
của dự án (đặc biệt là những người làm công tác kinh doanh các mặt hàng liên quan
đến dự án).
- Những nhóm sở thích (những nhóm được thành lập để đại diện cho những
lợi ích cụ thể của người dân nói chung) bao gồm từ những người lãnh đạo đến
những thành viên bình thường của những nhóm này. Những người làm công tác
giúp dân xây dựng mô hình nên trước hết phải thành lập đựơc những nhóm này để
làm hạt nhân cho việc xây dựng mô hình, sau đó mới tìm cách nhân rộng nếu mô
hình thành công.
- Những nhóm và cá nhân khác trong cộng đồng bao gồm cả những cá nhân
công dân, những nhà chuyên môn về luật, y và những cá nhân khác nói chung
nhưng không nhất thiết phải có quan hệ kinh tế trong dự án. Nếu tất cả những cán
bộ, các nhóm và các cá nhân khác nhau tìm được một đồng thuận về mục tiêu của
dự án thì chắc chắn sẽ thành công.
5. Xác định mục tiêu của cộng đồng: Nếu đã đồng thuận về thay đổi thì việc
xác định mục tiêu sẽ trở nên đơn giản hơn. Tuy nhiên mục tiêu phải thể hiện được
quyền lợi thiết thân của cộng đồng nếu không thì việc tham gia của họ chỉ là chiếu

11
lệ và như vậy thì dự án sẽ không thành công. Mặt khác thì mục tiêu cũng phải thể
hiện và thực hiện được những thay đổi theo chiều hướng sử dụng bền vững tài
nguyên đa dạng sinh học.
6. Đưa ra những khả năng thay đổi: Trước khi quyết định thay đổi như thế

nào thì nên đưa ra một số khả năng để cộng đồng thảo luận và tìm ta những khả
năng tối ưu chứ không nên chỉ đưa một hkả năng. Đồng thời đó cũng là những
phương án dự phòng để có thể phải thay đổi một khi phát hiện ra những thiếu sót
trong quá trình xây dựng dự án.
7. Tuyển chọn những phương án thay thế thích hợp: Như đã nói ở trên là
phải đưa ra một số phương án thay đổi để cộng đồng lựa chọn. Cũng không nhất
thiết là chỉ chọn một phương án mà có thể là một vài cùng thực hiện thì mới đạt
được mục tiêu của dự án vì mục tiêu của một dự án thường cũng không phải là một.
8. Ổn định những thay đổi: Sau khi thống nhất tuyển chọn phương án thì
phải ổn định và không thay đổi nữa nếu không thì không thể tiến hành thục hiện dự
án.
9. Duy trì và giám sát: Bước này đặc biệt quan trọng vì nếu thiếu nó dự án sẽ
không thể được thực hiện một cách có kết quả. Đặc biệt là công tác giám sát nhằm
phát hiện ra những khó khăn vướng mắc để kịp thời điều chỉnh. Nếu không dự án sẽ
không đạt được mục tiêu. Vì đây là dự án dựa vào cộng đồng nên nhất thiết phải có
sự tham gia của cộng ngay từ đầu và phải làm sao để duy trì được sự tham gia của
họ cho đến bước cuối cùng là duy trì và giám sát[32].
Dưới đây là một ví dụ về Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng để
minh họa cho những điều đã trình bày ở trên về quản lý tài nguyên đa dạng sinh học
dựa vào cộng đồng.
Như nhiều tài nguyên thiên nhiên, việc quản lý tài nguyên ven biển thông
qua các cơ quan trung ương đã bị thất bại trong việc hạn chế khai thác tài nguyên
quá mức và những tác động huỷ diệt. Cho nên nhiều quốc gia hiện nay đang trở lại
kiểm soát tài nguyên thiên nhiên ở cấp địa phương bởi vì những người phụ thuộc

12
trực tiếp vào những nguồn tài nguyên thường là những người tận tâm, có ý thức và
là những người bảo vệ có khả năng.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là quá trình quản lý tài
nguyên ven biển do những người phụ thuộc vào nguồn tài nguyên đề xướng. Vì vậy

ngày càng có nhiều người sử dụng tài nguyên tham gia vào quản lý nguồn tài
nguyên ven biển và trách nhiệm quản lý mang tính chất địa phương. ý thức trách
nhiệm, sự tuân thủ pháp luật do đó cũng tăng lên.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là hoạt động nhằm định
hướng các vấn đề thông qua kiểm soát quản lý tài nguyên mang tính địa phương
hơn. Khi quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng trở nên tiến bộ hơn nó sẽ giải quyết
các vấn đề của cộng đồng ven biển một cách toàn diện hơn. Quản lý tài nguyên dựa
vào cộng đồng là một nỗ lực làm cho cộng đồng “được kiểm soát hơn”.
Trong tương lai, sinh kế bền vững không chỉ đơn thuần là “ Sinh kế thay thế”
mà nó còn bao gồm cả các khía cạnh văn hoá, xã hội và chính trị đang tác động một
cách mạnh mẽ đến cuộc sống của con người. Nếu muốn con người có trách nhiệm
trong việc quản lý, thì lợi ích của họ phải rõ ràng, thực chất, công bằng, những mục
đích thương mại đơn thuần là không thể chấp nhận được. Việc đánh giá một cách
toàn diện là thực sự cần thiết. Hầu hết các hệ sinh thái bị suy thoái vì nguyên nhân
này hay nguyên nhân khác đều phải được hồi phục. Kiểm soát việc sử dụng và lạm
dụng tài nguyên sẽ mang lại năng suất tiềm năng cho vùng ven biển và cộng đồng
ven biển, với sự chăm sóc và quan tâm thích đáng, có thể cải thiện được phúc lợi
của chính cộng đồng ven biển trước mắt cũng như trong tương lai.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là chiến lược toàn diện
nhằm xác định những vấn đề mang tính chất nhiều mặt ảnh hưởng đến môi trường
ven biển thông qua sự tham gia tích cực và có ý nghĩa của cộng đồng ven biển. Điều
quan trọng là chiến dịch này tìm cách xác định vấn đề cốt lõi của sự tiếp cận tài
nguyên một cách tự do cùng với tất cả hậu quả bất công và không hiệu quả, bằng

13
cách tăng cường sự tiếp cận và kiểm soát của cộng đồng đối với nguồn tài nguyên
của họ.
Ngoài ra còn phải quan tâm đến những khía cạnh khác của Quản lý bảo tồn
như: Những nguyên tắc của Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng bao gồm: tăng
quyền lực (trao quyền), sự công bằng, tính hợp lý về sinh thái và sự phát triển bền

vững, tôn trọng những tri thức truyền thống/bản địa, sự bình đẳng giới v.v…[7].
Trong lịch sử hình thành và phát triển của loài người, nhất là do nguy cơ tăng
dân số và quá trình công nghiệp hóa, thế giới tự nhiên vốn đa dạng nay đang bị phá
hoại, làm nghèo nàn, thậm chí nhiều giống loài bị tiêu diệt dẫn đến tuyệt diệt. Bởi
vậy, một trong các vấn đề lớn của nhân loại trong thế kỷ 21 là phải bảo tồn và làm
giàu trở lại thế giới tự nhiên vốn có.
Trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã nhận thấy rằng các khu bảo tồn thiên
nhiên, VQG có vai trò quan trọng trong toàn bộ việc quy hoạch đất đai và phát triển
kinh tế của đất nước. Các khu bảo tồn đã đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân. Giá trị
của các khu bảo tồn ngày càng được công nhận và có lẽ trong tương lai sẽ lớn hơn
nhiều. Các khu bảo tồn không những là nơi lưu trữ các vật liệu thiên nhiên để phát
triển công nghệ sinh học cho ngành y tế, nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp mà
còn giữ chức năng tự nhiên của các hệ sinh thái, bảo vệ đất đai, điều hòa khí hậu,
đối phó với thay đổi khí hậu toàn cầu và giúp con người thích nghi với một thế giới
đang thay đổi (Meneely, 1996). Mặc dầu các khu bảo tồn có tầm quan trọng như
vậy, nhưng quản lý các khu bảo tồn quả thật không dễ dàng, nhất là đối với các
nước đang phát triển[14].
Do vậy, một bài toán mà chúng ta cần phải giải là tạo nên sự gắn bó vốn đã
có và phát huy vai trò và sự tham gia của mỗi cộng đồng cư dân vào việc bảo tồn
các khu bảo tồn thiên nhiên, VQG. Phải coi việc phát triển xã hội toàn diện của
cộng đồng, nhất là vấn đề bảo tồn và làm giàu bản sắc văn hóa của cộng đồng như
là một bộ phận hữu cơ của việc bảo tồn các khu bảo tồn thiên nhiên, VQG. Không
chỉ dừng lại ở mức tạo nên sự gắn kết giữa các cộng đồng cư dân với các khu bảo
tồn thiên nhiên, VQG mà hơn thế nữa trong nhận thức và hành động thực tiễn của

14
chúng ta phải coi các cộng đồng cư dân cùng với các cơ quan chức năng của Nhà
nước thực sự là người chủ của các khu bảo tồn thiên nhiên và VQG ấy.
1.1.4 Khái niệm về phí chi trả dịch vụ môi trường
Hơn 10 năm qua, khái niệm chi trả dịch vụ môi trường và các ứng dụng của

nó đã và đang nhận được sự quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu môi trường,
các nhà khoa học và nhà hoạch định chính sách trong toàn khu vực Đông Nam Á.
Đây là kết quả của sự quan tâm của chính phủ Viêt nam, cụ thể là của Trung
tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng (RCFEE), Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam (FSIV), Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE), và là đóng góp
đáng kể của đối tác RUPES, trong đó có Tổ chức Winrock Quốc tế, Trung tâm
Nông Lâm nghiệp thế giới (ICRAF), Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế
(CIFOR), Quỹ Quốc Tế Bảo Vệ Thiên Nhiên (WWF), Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên
Thế giới (IUCN) trong 5 năm qua.
Những nỗ lực đóng góp này gồm:
- Lồng ghép chi trả dịch vụ môi trường vào Luật đa dạng sinh học do Bộ Tài
nguyên và Môi trường dự thảo.
- Các chính sách hỗ trợ cho chi trả dịch vụ môi trường đã thử nghiệm cơ chế
trong nỗ lực trả lời câu hỏi ‘bao nhiêu phần trăm mức chi trả từ người sử dụng điện
nên được chi trả cho những người bảo vệ vùng đầu nguồn?’ Cơ chế này được thực
hiện bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB).
Với cách làm này thì từng người dân của cộng đồng có thể được hưởng lợi
trực tiếp từ dịch vụ họ mang lại. Nói cách khác, những người cung cấp dịch vụ môi
trường cần phải được chi trả hoặc bồi hoàn cho những gì họ làm để duy trì chức
năng của hệ sinh thái, và những người sử dụng dịch vụ môi trường nên chi trả cho
những dịch vụ này. Ở Việt Nam, thuật ngữ dịch vụ hệ sinh thái được sử dụng phổ
biến hơn thuật ngữ dịch vụ môi trường bởi vì dịch vụ môi trường đang được hiểu là
theo nghĩa bảo vệ môi trường như các vấn đề ô nhiễm. Thuật ngữ dịch vụ hệ sinh

15
thái được sử dụng trong dự thảo Luật Đa dạng sinh học và khung chính sách thí
điểm của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn.
Phí chi trả dịch vụ môi trường rừng (MTR) là loại phí nhằm thực hiện xã hội
hóa nghề rừng, để bảo vệ, phát triển rừng cùng các hệ sinh thái. Đặc biệt là bảo vệ

nguồn nước cho việc sản xuất điện, nước sinh hoạt và hoạt động du lịch. Việc tạo ra
dịch vụ chi trả môi trường rừng là một điều cần thiết, nhằm nâng cao công tác bảo
vệ và phát triển rừng[27].
Theo Quyết định 380/QĐ-TTg, do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ký ngày
10/04/2008 (có hiệu lực từ ngày ký và có 2 năm thí điểm), phí chi trả dịch vụ MTR
sẽ được thực hiện thí điểm tại 2 tỉnh Lâm Đồng và Sơn La nhưng có ảnh hưởng thi
hành đến nhiều tỉnh thành như Lâm Đồng, Sơn La, Đồng Nai, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Hoà Bình và thành phố Hồ Chí Minh.
Sau 2 năm thực hiện thí điểm, Bộ NN&PTNT sẽ phối hợp với các đơn vị liên
quan hoàn thiện chính sách chi trả dịch vụ MTR để áp dụng chung trên phạm vi cả
nước. Các loại rừng được dự định áp dụng chi trả dịch vụ môi trường là rừng phòng
hộ và rừng đặc dụng.
Có 2 hình thức chi trả dịch vụ môi trường rừng là:
Thứ nhất là chi trả dịch vụ môi trường rừng trực tiếp bao gồm các hoạt động
giao dịch, trao đổi giữa người bán và người mua. Người lao động lâm nghiệp (các
chủ rừng) tạo được hoặc bảo vệ, giữ gìn được môi trường, cảnh quan thiên nhiên
trong rừng; những người muốn vào rừng để thăm quan, nghỉ dưỡng, nghiên cứu
khoa học phải trả tiền mua vé.
Thứ hai là chi trả dịch vụ môi trường rừng gián tiếp, nếu giao dịch giữa
người bán và người mua không thể thực hiện được trực tiếp, cần thông qua một bên
trung gian làm đại diện cho cả 2 phía bởi những chủ rừng không thể đi bán cho từng
người hưởng lợi. Với số lượng những người hưởng lợi đông thì Nhà nước sẽ đại
diện để thu tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng giữa người mua và người bán.
Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Cục trưởng Cục Kiểm Lâm (Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: “Rừng tạo ra các dịch vụ về môi trường

16
như điều tiết nguồn nước, hạn chế lũ lụt, cung cấp nước cho thủy điện cho đến
nay chưa có cơ chế nào để những tổ chức, cá nhân sử dụng những điều trên trả lợi
nhuận cho người chăm sóc rừng”.

Do đó, Có 3 loại dịch vụ MTR sẽ thực hiện trong đợt thí điểm này là dịch vụ
về du lịch, dịch vụ về điều tiết, cung ứng nguồn nước và dịch vụ về bảo vệ đất, hạn
chế xói mòn, chống bồi lắng lòng hồ.
Trong thời gian thí điểm, phí dịch vụ sẽ tính với các biểu giá tuỳ vào đối
tượng. Đối với các nhà máy thủy điện có giá 20 đồng/kwh điện thương phẩm, các
cơ sở sản xuất và cung cấp nước sinh hoạt được tính theo giá 40 đồng/m3 nước
thương phẩm.
Riêng các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch thì định mức chi trả tiền sử
dụng dịch vụ MTR được xác định bằng 0,5 đến 2%, tính trên doanh thu du lịch thực
hiện trong kỳ. Trong đó tỷ lệ % trên doanh thu du lịch sẽ do UBND tỉnh xem xét và
quy định cụ thể.
Tổng số tiền thu được từ phí chi trả MTR sẽ phân lại 10% cho các hoạt động
của Quỹ bảo vệ và phát triển rừng, 10% cho chi phí quản lý. Ngoài ra, 80% còn lại
dùng để trả tiền công khoán bảo vệ rừng ổn định lâu dài cho chủ rừng có thể là các
cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn, bản[27].
1.2 Trên thế giới
Sau 1930, tiếp theo cuộc cách mạng công nghiệp, thế giới bước vào giai
đoạn mới của phát triển kỹ nghệ sản xuất. Đặc biệt sau Chiến tranh thế giới thứ II,
sự phát triển nhanh chóng của sản xuất và các tiến bộ khoa học kỹ thuật con người
đã có khả năng khuấy động tự nhiên, khai thác nguồn tài nguyên một cách quá
mức, đặc biệt ở vùng nhiệt đới, dẫn tới sự suy thoái các hệ sinh thái, làm nghèo kiệt
nguồn ĐDSH, thậm chí hủy diệt nguồn tài nguyên quý giá đó để đáp ứng cho nhu
cầu ngày càng tăng của mình. Đến nay đã có hơn 40% diện tích rừng nhiệt đới
nguyên thuỷ bị phá huỷ, trung bình hàng năm có khoảng 6-7 triệu hecta đất trồng
trọt bị mất khả năng sản xuất do xói mòn. Ước tính 5-10% số loài trên thế giới sẽ

17
biến mất vào khoảng giữa những năm 1990 đến 2020, và số loài bị tiêu diệt sẽ tăng
lên đến 25% vào khoảng năm 2050 (IUCN, UNEP, WWF, 1996).
Qua một cuộc thăm dò rộng rãi, năm 1987 Ủy ban Môi trường và Phát triển

Liên Hợp Quốc đã xuất bản một báo cáo nổi tiếng “Tương lai phải đến của chúng
ta”, trong đó đã sắp xếp những khái niệm, định nghĩa, yếu tố và chính sách đối với
phát triển và bảo vệ đa dạng sinh học, tài nguyên thiên nhiên.
Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) trong báo cáo “Công nghiệp
Rừng thế kỷ 21”. Khi quản lý một cách đúng đắn, 1/5 diện tích rừng trên thế giới
hiện nay có thể cung cấp các sản phẩm gỗ thỏa mãn đủ nhu cầu của tương lai. Để
làm được điều đó, chỉ cần 10 công ty thống trị ngành này trên toàn cầu chấp nhận
các quy trình quản lý hiệu quả của Hội đồng Quản trị Rừng Thế giới (FSC), trên cơ
sở duy trì tốt 600 triệu ha rừng của trái đất.
Tiến sĩ Chris Elliott, Giám đốc Chương trình “Rừng cho sự sống” của WWF,
cho rằng: “Phát hiện này rất có giá trị, tuy nhiên quản lý rừng có trách nhiệm mới là
vấn đề then chốt. WWF tin rằng sự cam kết của 10 công ty hàng đầu sẽ mang lại
động cơ thúc đẩy và sức ép buộc ngành công nghiệp rừng phải thay đổi”. Hiện đã
có 6 công ty tiêu thụ và chế biến gỗ lớn nhất thế giới ủng hộ lời kêu gọi. Vấn đề là
bao giờ những đơn vị còn lại cố gắng đạt được Chứng chỉ Quản lý Rừng bền vững.
Nhận thức được tầm quan trọng của ĐDSH đối với sự tồn tại của xã hội loài
người và đứng trước sự suy giảm với tốc độ ngày càng nhanh của ĐDSH, con người
đã bắt đầu những hoạt động có hiệu quả để bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này.
Nhiều hội thảo đã được tổ chức và nhiều cuốn sách có nội dung liên quan đã được
xuất bản từ những năm đầu thập kỹ 90 của thế kỹ trước. Tất cả các tài liệu đó đều
mang tính chiến lược và chương trình hành động nhằm hướng dẫn về bảo tồn
ĐDSH, làm nền tảng cho công tác bảo tồn và phát triển trong tương lai. Chính phủ
các nước trên thế giới đã thông qua 05 Công ước quốc tế liên quan đến bảo tồn
ĐDSH:

18
- Công ước ĐDSH (CBD) đã được ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh Rio de
Janeiro tháng 6/1992 và có hiệu lực vào cuối năm 1993, cho đến nay đã được 127
nước phê chuẩn;
- Công ước về đất ngập nước (RAMSAR);

- Công ước CITES;
- Công ước di sản Thế giới
- Công ước bảo tồn các loài di cư (CMS).
1.3 Ở Việt Nam
1.3.1 Cơ sở pháp lý
+ Quyết định số 72-TTg ngày 7/7/1962 của Thủ tướng Chính Phủ về khu
rừng cấm Cúc Phương.
+ Quyết định 41/TTg ngày 24/1/1977 của Thủ Tướng Chính Phủ về việc
thành lập 10 khu rừng cấm trong phạm vi toàn quốc.
+ Ngày 9/8/1986, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số 194/CT
công nhận tiếp 73 khu rừng đặc dụng , trong đó gồm 2 VQG, 46 khu dự trữ thiên
nhiên, 25 khu di tích lịch sử văn hoá .
+ Ngày 3/12/2004, Luật Bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội thông qua,
đã công nhận Cộng đồng là một chủ thể được giao rừng và các quyền và nghĩa vụ
quy định cụ thể tại các Điều 29 và 30.
+ Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày
29/11/2005, Quốc hội khóa XI.
+ Quyết định 192/2003/QĐ-TTg ngày 17/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chiến lượng quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam
đến năm 2010.
+ Quyết định 62/2005/QĐ-BNN ngày 12/10/2205 của Bộ trưởng Bộ
NN&PTNT về việc ban hành bản quy định về tiêu chuẩn Rừng đặc dụng.
+ Ngày 13 tháng 11 năm 2008 Quốc hội khóa 12 kỳ thứ 4 đã ban hành Luật Đa
dạng sinh học số 20/2008.

19
Như vậy, công tác bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam đã hình thành,
phát triển trong gần 50 năm qua (kể từ ngày thành lập khu rừng cấm Cúc Phương
7/7/1962) . Trong quá trình phát triển chúng ta đã từng bước bổ sung, mở rộng, hình
thành được một hệ thống khu bảo tồn rừng và đất ngập nước ven biển. Chúng ta

cũng đã xây dựng, bổ sung, các quy định của pháp luật, các văn bản có liên quan
đến việc quản lý tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng để triển khai các hoạt động bảo tồn.
1.3.2 Tình hình các khu bảo tồn thiên nhiên, Vườn Quốc gia ở Việt Nam
Ở Việt Nam có khoảng 197 khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN), trong đó
có 30 vườn quốc gia (tính tới thời điểm hiện nay). Một đặc điểm nổi bật cần phải
được chú ý về bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam là công tác bảo tồn thiên nhiên
phát triển rất chậm so với khai thác rừng. Sau khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp kết thúc, năm 1954, miền Bắc bước vào khôi phục kinh tế, nhu cầu về
gỗ rất lớn để phục vụ cho việc khôi phục lại đường sắt, cầu cống, công sở, nhà
cửa,… Thế nhưng đến ngày 7/7/1962 khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt
Nam mới ra đời, đó là VQG Cúc Phương. Từ đó cho đến năm 1977, có nghĩa là
trong vòng 15 năm tiếp theo, ở nước ta không thành lập thêm một khu bảo tồn
thiên nhiên nào nữa, trong khi việc khai thác rừng vẫn được tiến hành mạnh mẽ
hơn. Các khu rừng có tính ĐDSH cao, thuận lợi cho việc thiết lập khu bảo tồn bị
thu hẹp và xa dần. Từ khi thống nhất đất nước, Chính phủ Việt Nam đã thực sự
quan tâm đến công tác bảo tồn, chỉ trong vòng 9 năm, từ năm 1977 đến năm
1986, có hơn 80 khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên mới ra đời. Do ra đời trong
những hoàn cảnh như vậy, nên các KBTTN có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Hầu hết các KBTTN đều nằm ở vùng xa xôi hẻo lánh, có địa hình hiểm
trở, thuộc lãnh thổ của nhiều tỉnh hoặc tiếp giáp với nhiều biên giới quốc gia.
+ Gần 100% số cư dân sống trong KBTTN hoặc trên vùng đệm của
KBTTN là đồng bào thuộc dân tộc ít người, có mức sống thấp, còn tồn tại một
số tập quán lạc hậu như: phát nương làm rẫy, săn bắt động vật bừa bãi, du canh

×